Parade of the Vanquished

17/7/1944 sau chiến dịch Bagration, Hồng quân Liên Xô chiếm lại được Belarus và một phần Ba Lan, Romania… họ bắt hơn 150 ngàn tù binh Đức với thương vong chưa đến 1/5 của đối phương! Thắng lợi là rõ ràng, nhưng Anh, Mỹ và một số nước Đồng Minh lúc bấy giờ công khai bày tỏ nghi ngờ, con số 150K lớn quá, có khi nào là xạo!?

Không còn cách nào khác, Stalin phải chứng minh, chọn ra 57 ngàn tù binh khỏe mạnh, còn khả năng đi lại, cứ như thế đi bộ qua các đường phố Moscow trước sự chứng kiến của báo chí quốc tế! Theo tiêu chuẩn đạo đức của ngày nay, theo công ước Geneva 1949, thì những kiểu hành động sỉ nhục công khai như thế này đã bị cấm! 😀

gazyr

Facebook nhắc ngày này năm trước… Những cái ống gắn trên ngực áo choàng Cossack là gì!? Nguyên gốc ngày xưa thời còn xài súng nạp đạn từ đầu nòng (muzzle loading) những cái ống đó gọi là “Gazyr”, được làm bằng gỗ, ống sậy, chứa sẵn thuốc súng và đầu đạn, được thiết kế để không bị ướt khi trời mưa, tuyết, và để có thể nạp đạn nhanh từ trên lưng ngựa!

Những ống này cũng có chức năng như một loại giáp nhẹ bảo vệ phần ngực! Đến khi đạn hiện đại xuất hiện, chúng mất đi vai trò cũ, được chuyển sang dùng làm ống đựng thuốc lá, hoặc trở thành vật trang trí đơn thuần và được làm rất cầu kỳ, tinh xảo! Đồ vật của hơn 500 năm trước vẫn còn lại đến ngày nay, một dạng skeuomorph – “ruột thừa”! 🙂

quyền bính

Đăng lại post này vì hôm nay là ngày 4 tháng 7!!! Trường hợp của “Huy Đức”, ta có thể nhận thấy rằng, cũng giống hệt như mạng xã hội hiện đại, người ta có thể dấu dốt bằng cách tung hỏa mù thông tin, người ta có thể tỏ ra công bằng, khách quan bằng cách nhắc đi nhắc lại một vài cái “gạch đầu dòng” đơn giản. Thực tế lịch sử chưa bao giờ là đơn giản như thế! Qua cách hành văn, cách dựng truyện cho thấy sự thiếu hiểu biết về văn hóa bản địa, nhưng lại rất rành các thủ thuật truyền thông, cố tạo ra những cái “catchphrase” đơn giản để cho người khác có thể lặp lại một cách dễ dàng! Điều này cho thấy một văn hóa rặt Mỹ, nó hoàn toàn khác với người Pháp!

Các cha cố đạo Pháp, một vài người trong số họ thực sự đến sống và chịu đựng sự khó khăn với người dân, họ học ngôn ngữ bản xứ, họ có hiểu biết nhất định về lịch sử địa phương, điều này khiến cho họ ít nhất cũng có được sự tin tưởng một bộ phận dân chúng! Còn các tay lái buôn, lái súng Mỹ thích ngồi từ xa và đưa ra ý kiến hơn, tôi nghĩ nó phải là như thế này, nó phải là như thế kia, và điều tôi nghĩ nó phải đúng! Còn nếu như nó không đúng… thì sau cuộc chiến, chúng ta sẽ đưa ra những kịch bản khác! Trong trường hợp này, cũng như khá nhiều trường hợp khác, ta có thể nói rằng, sức mạnh của sự ngu dốt, nó thật sự, thật sự rất đáng sợ!

thần quyền

Một trong những thuộc tính rất đặc trưng, cố hữu của Phật giáo, dù là tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, hay Việt Nam, xuyên suốt tất cả các giai đoạn lịch sử, đó là tính chất “tổ chức, hội đoàn yếu” của nó! Đây có thể xem vừa là nhược điểm, vừa là ưu điểm nổi bật của Phật giáo. Khác với những tôn giáo khác, Phật luôn là vấn đề rất cá nhân, mục tiêu cao nhất là đạt đến giác ngộ, những cái khác chỉ là phụ. Nên tính đoàn thể thì vẫn phải có, như bất kỳ một tổ chức nào khác, nhưng Phật giáo tập trung nhiều vào việc giáo dục con người, chứ không tập trung vào những chương trình hành động mang tính xã hội rộng lớn. Suốt mấy ngàn năm lịch sử, Phật giáo hiếm khi tự biến mình thành một tổ chức “Thần quyền” can thiệp vào “Thế quyền”, như đã xảy ra phổ biến với nhiều tôn giáo khác, ví dụ như Thiên Chúa giáo.

Thiên Chúa giáo, như tại Bùi Chu và Phát Diệm, vào thời của các giám mục Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi… chính là một kiểu Thần quyền và Thế quyền hợp nhất, các linh mục nắm toàn quyền sinh sát, thậm chí có cả quân đội vũ trang riêng. Tính tổ chức cao, hoạt động hiệu quả luôn là truyền thống của Thiên Chúa giáo Tây phương, điều này thể hiện rõ với các cha xứ theo chân đoàn quân thực dân đi xâm chiếm nước khác! Khi thực dân Pháp hoàn tất việc cai trị Việt Nam, các tri thức VN đương thời đều nhận ra tính hiệu quả của mô hình tôn giáo, tổ chức ngoại lai, và họ cũng nỗ lực làm giống như vậy! Như Cao Đài tổ chức thành các xóm đạo, họ đạo như Thiên Chúa giáo, xây các nhà thờ dạng 2 tháp hệt như Thiên Chúa giáo. Nhưng các quyết định quan trọng được đưa ra bởi một hình thức… “cầu cơ” (!!!) thay vì bỏ phiếu.

Ở miền Nam ngoài Cao Đài còn có Hòa Hảo, và nhiều hình thức tôn giáo “ngồ ngộ” khác. Mê tín dị đoan (như chữa bệnh bằng nước lã, tro than) là phổ biến, bùa chú, sấm ký là phổ biến, và nhiều hình thức khó tin khác theo như suy nghĩ hiện đại ngày nay, ví dụ như tuyên truyền rằng súng của Việt Minh sẽ không thể nổ được trước những tín đồ Hòa Hảo. Những điều này xảy ra nói thẳng là vì dân trí quá thấp! Mặc dù ở phần tư tưởng, Hòa Hảo tự nhận mình là một nhánh Phật giáo (Tịnh độ tông), nhưng ở phần thực hành, họ xa rời tôn chỉ của Phật giáo là giáo dục con người, mà tập trung vào tổ chức Giáo hội Thần quyền kiêm quản Thế quyền giống như các nhánh tôn giáo khác đương thời. Các chỉ huy Hòa Hảo như Năm Lửa, Ba Cụt… cai trị các vùng lãnh thổ riêng, không ai chịu ai, tàn bạo không khác gì lãnh chúa.

Trở lại với thời gian đầu chống Pháp, nỗ lực “toàn dân kháng chiến” của Việt Minh mâu thuẫn nghiêm trọng với tính cô lập, tự trị và lạc hậu của các giáo phái! Nhất là ở thời gian vài năm đầu, bất kỳ ai “tích cực kháng chiến” đều được chấp nhận, nên trong hàng ngũ Việt Minh xuất hiện một số kẻ “cơ hội chủ nghĩa” như Kiều Đắc Thắng, hay hành xử “tự tung tự tác” như Bửu Vinh. Đám Bình Xuyên mặc dù đi làm cách mạng nhưng vẫn có nhiều người, cung cách không khác với thời ăn cướp ngày trước là mấy! Thế nên khá nhiều sự việc đáng tiếc đã xảy ra! Theo dòng tiến bộ của lịch sử, ngày nay, tách biệt Thần quyền và Thế quyền là một nguyên tắc cần được thực hiện nghiêm nhặt, cũng nghiêm nhặt y như là bảo đảm quyền Tự do tôn giáo vậy, và các Tôn giáo nên trở lại đúng với vai trò của nó, đó là giáo dục con người!

hòa hảo

23/9/1945, Nam Bộ kháng chiến bùng nổ… Tình hình miền Nam lúc này, các lực lượng giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài, mỗi nhánh có khoảng 2000 ~ 3000 tay súng, nhưng chống Pháp theo kiểu nửa vời. Mạnh nhất là Việt Minh, bao gồm Thanh niên tự vệ và khoảng 2000 bộ đội Bình Xuyên (quân của Ba Dương, Tám Mạnh, tuy vẫn có một bộ phận Bình Xuyên không hoàn toàn quy phục Việt Minh như Bảy Viễn), tổng cộng không quá 5000 ~ 6000 tay súng! Bình Xuyên, những người trước đây là dân giang hồ, anh chị, ăn cướp, bảo kê, .v.v. nói cho đúng vẫn là lực lượng chiến đấu tương đối hiệu quả, ít nhất là vào thời gian đầu kháng chiến, nhờ cái máu “yêng hùng” của họ! Nhưng do đâu Việt Minh lại nắm được, sai khiến được đám giang hồ này, đó là từ một sai lầm của người Pháp! Từ nhiều năm trước đó, người Pháp nhốt chung tù chính trị với tù hình sự, hy vọng có thể dùng đám đầu gấu để trị các tay tù chính trị. Nhưng kết quả hóa ra ngược lại, vào tù rồi, anh chị cỡ nào đi nữa, nó đánh cho vài trận là khai hết, là phục tùng hết. Nhưng đám tù chính trị dù có chặt tay, chân thì vẫn không khuất phục.

Kết quả là đám tù chính trị quay ngược lại cảm hóa, thuyết phục được đám côn đồ, du đãng, vì họ đã cho đám “cơ bắp” thấy được có loại sức mạnh nằm ngoài cơ bắp! Đến khi kháng chiến bùng nổ, các đơn vị “bộ đội” như của Ba Dương, Tám Mạnh đều rắp rắp nghe lệnh Việt Minh. Nhưng tổng số 5000, 6000 tay súng là quá ít, không đủ để đối đầu với quân Pháp! Miền Nam cho đến lúc đó vẫn là vùng đất mới, lòng người không vững, lại chia năm xẻ bảy không ai chịu ai! Ngay trong tháng 9-1945, các đơn vị Nam Tiến từ miền Bắc, Trung được thành lập để chi viện cho miền Nam, Hải Phòng, Hà Nội mỗi nơi gởi một chi đội, Bắc Ninh, Bắc Giang gởi một chi đội, Thừa Thiên cũng gởi cỡ một chi đội, Quảng Nam gởi 3 chi đội… đặc biệt Quảng Ngãi gởi vào Nam 15 ngàn người! Cái gọi là “chi đội” lúc bấy giờ là những đơn vị không cố định quân số, thường có khoảng 1000 ~ 1500 người! Đến tận giờ không thể biết chính xác bao nhiêu người đã Nam Tiến, ước tính ít nhất 30 ngàn người đã chi viện cho miền Nam trong vòng chưa đến 5 tháng! Nhưng tình hình miền Nam lại diễn biến vô cùng phức tạp!

Những khúc mắc, ân oán giữa Việt Minh với Hòa Hảo, Cao Đài, nhóm Trotskist và những thành phần xã hội khác, đến tận ngày nay người ta vẫn tránh nói về những đề tài ấy, bởi vì muốn nói cho cùng thì phải nhìn vào bản chất lạc hậu, manh mún, nhìn vào dân trí, tư duy, những điều vẫn chưa cải thiện mấy cho đến tận ngày hôm nay! Quay ngược lịch sử trăm năm trước, khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, phong trào Nghĩa Hội bùng phát khắp Quảng Nam, cầm đầu bởi Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Nguyễn Tiểu La… xây căn cứ ở Quế Sơn tính chống Pháp lâu dài. Nhưng người Pháp không chỉ hơn ở khoa học, kỹ thuật, vũ khí mà họ hơn ở… tất cả mọi mặt: âm mưu, kế sách, thủ đoạn, mua chuộc, đe dọa, cài cắm, tin giả, ly gián, etc… Được khoảng 2 năm thì Nguyễn Duy Hiệu bị bắt, phong trào tan rã. Nói đến tinh thần yêu nước nhưng nhiều người không dám nói thẳng về kết quả của Nghĩa Hội Quảng Nam: giết được vài chục người Pháp, nhưng tự mình giết người mình vì nghi ngờ, phản bội, thanh trừng lẫn nhau, con số phải lên đến nhiều trăm. Và chuyện như thế kéo dài mãi đến về sau…

nguyên hùng

Lại nói về văn và sử, sử và văn, hư và thực, thực và hư… Có nhưng thứ văn chương nghe có vẻ hư cấu, nhưng lại cực kỳ thực. Và có những thứ sử tưởng chừng thực, kỳ thực lại rất hư. Văn mà mô tả đầy đủ chi tiết về văn hóa, cuộc sống đương thời, từ địa lý, sắc tộc cho đến ngôn ngữ, ẩm thực, ăn mặc, v.v. thì đó là lối văn cực kỳ thực, không có hiểu biết, từng trãi thực tế cuộc sống thì không thể nào viết ra như vậy được. Sử mà chỉ gồm toàn những cái gạch đầu dòng giản đơn, tìm cách máy móc kết nối các điểm lại với nhau, kỳ thực là một lối sử rất là hư! Lại nói về những nhân vật trong các cuốn sách của nhà văn Nguyên Hùng: Lê Văn Viễn có cha là người Triều Châu, mẹ người Việt, là một tướng cướp lừng danh. Huỳnh Văn Trí cũng là một tay anh chị khét tiếng, cả 2 vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần, quen nhau trong tù, nhiều lần vượt ngục cùng nhau và kết nghĩa làm anh em.

CMT8 nổ ra, cả hai đều tổ chức những đơn vị vũ trang đầu tiên chống Pháp, cả 2 đều là đàn em dưới trướng của Dương Văn Dương, thủ lĩnh “nghĩa quân” Bình Xuyên, người ngay từ năm 1948 đã được truy phong Thiếu tướng! Nhưng Mười Trí đi kháng chiến đến cùng, còn Bảy Viễn như ta biết, trở về làm ông trùm Chợ Lớn. Không thuyết phục được người anh em kết nghĩa, Mười Trí bày tỏ nỗi lòng qua một bài thơ, lối văn dân dã Nam bộ. Hư hay là thực thì để cho người đọc suy nghĩ, nhưng lối văn này, dù người ta cũng đã tìm cách giả, nhưng tối hậu vẫn không thể nào mà giả cho được: Thế là hết, tôi với anh đành đoạn tuyệt, Vì anh ơi, đời hồ hải hết tung hoành. Anh giam mình vào lưới sắt, bả hư danh, Thân lồng chậu, anh mong nằm trên nệm ấm. Anh có biết tay quân thù còn đỏ thắm, Máu đồng bào ngùn ngụt lửa căm thù. Kiếp tôi đòi, anh nhớ lại mùa Thu, Mùa lịch sử đã mở tù cho dân tộc…

người bình xuyên

Thực ra ở VN, cũng có nhiều người viết văn theo lối “nửa thực, nửa hư” như thế (và họ nói rõ ràng đây là văn, không phải sử), viết để trình bày một dạng sử ít chính thức hơn. Ví dụ thú vị là nhà văn Nguyên Hùng, tác giả những cuốn Người Bình Xuyên, Nguyễn Bình – huyền thoại và sự thật, Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ… những sách nói cho độc giả biết về các nhân vật kháng chiến, tôn giáo, quân phiệt miền Nam 1945 ~ 1975, một giai đoạn cũng gần giống như thời Dân quốc bên TQ vậy! Sách của ông nói cho chúng ta về những góc ít biết của lịch sử: Huỳnh Phú Sổ, Phạm Công Tắc, Lê Văn Viễn, Dương Văn Dương, Nguyễn Bình…

Nhưng khác là Nguyên Hùng thực sự là người trong cuộc, tham gia kháng chiến từ đầu đến cuối! Vì là người trong cuộc nên Nguyên Hùng có khả năng phác họa chân dung con người với những hiểu biết sống động: ngôn ngữ, giáo dục, văn hoá, tâm lý, và nhiều chi tiết khác liên quan đến đời sống, xã hội đương thời! Còn với trường hợp Huy Đức, ông ấy chỉ là người đến sau, mãi về sau, tìm cách hình dung lại lịch sử qua những gì được nghe kể lại, hay qua những gì mình tưởng tượng ra, tìm cách lắp ghép, sắp xếp thông tin thu nhặt được theo những định kiến có sẵn, nên sách nghe rất khiên cưỡng, máy móc và vô hồn…

bên thắng cuộc

Giữa trưa 7-1-1979, khi nghe con rể là Giáo sư Hồ Ngọc Đại đánh thức báo tin quân ta đã vào Phnom Penh, ông Lê Duẩn chỉ ừ rồi ngủ tiếp… Đọc đến đây là tôi vất cuốn truyện qua một bên, không cần phải đọc nữa, vì những tình tiết kiểu như thế nó xuất hiện quá quá nhiều! Tác giả viết giống như thể lúc đó, ông ta đang nằm dưới gầm giường của ông Lê Duẩn nên biết được sự việc vậy! Mặc dù một số tình tiết trong truyện tôi cũng muốn tin lắm, nó giống những truyền khẩu dân gian người ta thường kể cho nhau nghe lúc trà dư tửu hậu! Nhưng lịch sử mà viết theo lối “tiểu thuyết dã sử, giả sử” như thế không hề ổn tí nào!

Lần cuối cùng người ta làm như thế có lẽ là từ thời của Homer (Trường ca Iliad và Odyssey) kia! Mà tất cả những kiểu như Đèn cù, Đêm giữa ban ngày, Bên thắng cuộc, etc… đều cùng một kiểu, cùng một giọng văn, cùng một phong cách: nói giống như là đúng rồi vậy, đưa tin theo kiểu “từ trên trời rơi xuống”, tìm cách nhào nặn những sự thật nhiều người biết, trộn thêm vào đó những tình tiết tưởng tượng theo cảm tính, tìm cách tô màu mức tranh theo ý của mình, hư hư thực thực đan xen vào nhau! Và có cơ sở để tin rằng tất cả những thủ pháp “sáng tác văn chương” như thế đã được đúc kết để dạy thành bài bản!

the king maker

Hơn 60 năm trước, có người tên là Edward Lansdale, đại tá CIA, biệt danh “The king – maker” – Kẻ buôn vua, ông ta đã dựng lên (và đạp đổ) vô số “ông vua” tại Philippine, tại VN và nhiều nơi khác! Chính ông này là cha đẻ của chiến dịch “Chúa vào Nam”, đưa gần 1tr người Công giáo di cư năm 1954. Một trong những người giỏi nhất của CIA, tiểu sử của ông ta đầy ắp sự kiện, vô số “chiến công” lẫy lừng! Và thế là 1tr người ra đi, Em theo đoàn lưu dân, bờ vai thơm nồng bông bí nụ… Nhưng 1tr người này số phận không giống nhau. Số có xuất xứ, quan hệ tốt (với chính quyền Diệm) thì được phân về Sài Gòn, Đồng Nai.

Số khác thì phải xuống Kiên Giang, số thì lên Buôn Ma Thuộc! Cư-Kuin là một cái huyện đặc biệt về thành phần, nếu như các bạn còn nhớ, đây là nơi xảy ra vụ bạo loạn hãi hùng mới vừa qua! Nơi đây có một cộng đồng khá lớn Bắc 54 di cư từ thời trước, và những người dân miền Bắc, miền Trung di cư lên sau này, và cả những người dân bản địa đã sống ở đó từ xưa! Địa bàn dân cư phức tạp như vậy, đương nhiên sẽ xảy ra nhiều chuyện! Nhưng căn bản là luật không nghiêm, dân không biết tin vào đâu, dân trí thấp, không bảo nhau được, tự sống với nhau vốn đã không ổn, người ngoài bày mưu, xúi dục là thành chuyện thôi!

parade

Thông lệ hàng năm, 9 tháng Năm là ngày Gấu Nga trình diễn, khoe cơ bắp! Xem mãi các cuộc diễu binh cũng chán, mời các bạn xem trích đoạn bộ phim Người thợ hớt tóc ở Siberia, đoạn Sa-hoàng Alexander-3 dự lễ tốt nghiệp của các sĩ quan. Phim dựng lại theo đúng lịch sử, Alexander-3 là người to lớn, vạm vỡ với sức mạnh phi thường, cầm nguyên bộ bài Tây 54 quân, ông ta xé nó thành 2 mảnh. Hay đang ăn với chiếc đĩa bạc, ông ta dùng tay cuộn tròn cái đĩa lại như người ta cuộn miếng bánh tráng vậy! Cái trò dùng tay cuộn đĩa kim loại này, đã có nhiều đời Sa-hoàng biểu diễn trên các bàn tiệc ngoại giao như một cách… hù dọa đối phương!

Phim có đoạn Sa-hoàng Alexander-3 trò chuyện với hoàng hậu Maria Feodorovna bằng tiếng Anh: – Em còn phải lặp đi lặp lại bao nhiêu lần nữa, tại sao anh không bao giờ nghe em, Michael còn quá nhỏ, nó rất dễ bị kích động bởi các cuộc diễu binh cũng như các trò chơi quân sự. Alexander 3 trả lời rất hóm hỉnh, cũng bằng tiếng Anh: – Nếu tôi mà nghe theo em á, thì đến tận bây giờ chúng ta còn chưa có con được đâu! 😀 Haiza, xem phim để thấy rằng, đây đúng là một dân tộc kiêu hãnh và mạnh bạo, một nền văn hóa đầy màu sắc, một loại âm nhạc sinh động, tuôn chảy, phức tạp! Luôn tràn đầy sức sống, luôn luôn tiến về phía trước!