như nguyện

Ca khúc: Như nguyện – Vương Phi, nhạc nền của phim “Tôi và cha ông chúng ta” (我和我的父輩 – Ngã hòa ngã đích phụ bối), 2021, phim nặng tính tuyên truyền, thích hay không thì tùy mỗi người. Phim tóm tắt một quá trình kéo dài 3 thế hệ, từ những ngày đầu “chinh chiến sa trường”, cho đến thế hệ con cháu, Trung Quốc chuyển mình từ một nước lạc hậu nhất…

Lên tầm hiện đại, lớn mạnh nhất thế giới! Truyền thông TQ đã bắt đầu dùng chữ “thịnh thế – 盛世“, như xưa từng nói “Khang – Càn thịnh thế”, thời đại thịnh trị của Khang Hy, Càn Long vậy. Không có con đường tắt nào, trừ khi tính cách quyết liệt đến mức điên cuồng như ku Nga, còn không thì “đi tắt, đón đầu” chỉ là ngôn từ của phường cường đạo!

trà mã cổ đạo

Trong Minh Lan Truyện, Thịnh lão thái thái có một câu thoại: ở đời nếu chỉ nói đằng mồm mà được, thì Yên Vân thập lục châu đã lấy lại được lâu rồi! Yên Vân thập lục châu – Mười sáu châu Yên Vân là vùng đất rộng lớn, ngày nay thuộc các tỉnh Hà Bắc, Sơn Tây và một phần Nội Mông, đất đã mất từ cuối thời Đường, các triều Tống, Minh nhiều lần tìm cách lấy lại nhưng chưa bao giờ thành công. Không chỉ có tài nguyên phong phú, đây còn là vùng thảo nguyên rộng lớn, cần thiết để nuôi ngựa, mà ngựa là phần vô cùng quan trọng của quân đội, xuyên suốt lịch sử, chưa bao giờ TQ có đủ lực lượng kỵ binh để đối chọi lại với các bộ tộc phương Bắc. Nên một trong những mối quan tâm hàng đầu của các triều đại TQ là… ngựa!

Ngựa Trung Nguyên vừa thiếu lại vừa yếu, chỉ những giống ngựa sinh tồn trong môi trường khắc nghiệt mới mạnh mẽ, lì lợm, mới sử dụng được trong chiến tranh! Để có được ngựa tốt, họ mua bán trao đổi với Tây Tạng! Tây Tạng là vùng cao nguyên, khí hậu lạnh giá, khắc nghiệt, không trồng được rau quả, mà dân thì sống theo lối du mục, khẩu phần ăn bao gồm thịt, sữa là chủ yếu nên thiếu rau nghiêm trọng, từ chuyện thiếu rau đâm ra… nghiện trà, vì trà bổ sung một lượng vitamin đáng kể! Nắm được điều đó, người TQ đem trà đổi ngựa, tạo nên mạng lưới đường sá giao thương kéo dài hàng ngàn cây số! Từ xưa, họ đã viết nhiều cuốn sách khảo cứu, chỉ chuyên về đề tài thương mại Trà – Mã, làm sao đổi trà lấy ngựa!

lùa gà

Lại đi lùa gà đây mà, lùa bằng giải Nobel hẳn hoi nhé! Các bạn lên trang của Bill Gates (gatesnotes) mà đọc những phê bình của ông ấy về cuốn sách này, tôi thấy tất cả suy nghĩ của ông Bill là đã đủ đúng đắn rồi, không cần phải nói gì thêm. Bằng cách tối giản hóa vấn đề, tác giả tìm cách đưa ra một bức tranh méo mó, thiên lệch để… bịp người khác!

Một dạng “The world is flat” mới, thủ thuật cũ rích chả có tí tiến bộ nào, nhưng là phiên bản cao cấp, có cả Nobel để trang trí! Có nhiều trường hợp xuyên suốt lịch sử sách này không giải thích được (nói cách khác, chính là phản ví dụ), như Trung Quốc cổ điển thời Tống, Nguyên, Minh và Trung Quốc hiện đại từ sau Đặng Tiểu Bình đến này…

CMCN 4.0

Cách mạng công nghiệp đã tạo ra một tầng lớp vô sản thành thị mới. Bây giờ chúng ta đang chứng kiến ​​sự ra đời của một tầng lớp vô dụng vô cùng đông đảo. Khi máy tính ngày càng tốt hơn trong nhiều việc, khả năng rõ ràng là máy tính sẽ vượt trội hơn chúng ta trong hầu hết các nhiệm vụ và khiến con người trở nên không cần thiết. Và câu hỏi chính trị và kinh tế lớn của thế kỷ 21 sẽ là: chúng ta cần con người để làm gì, hoặc ít nhất, chúng ta cần rất nhiều người để làm gì? Hiện tại, điều tốt nhất chúng ta có thể làm là giữ cho chúng nó được vui vẻ bằng ma túy và trò chơi điện tử…

Nói rất sốc, nhưng rất đúng, chỉ nhìn xem gần gần quanh đây, thực trạng Việt Nam đã có phần giống thế, một bộ phận lớn xã hội đã bị rút mất phần hồn từ lâu rồi, những cái xác sống không hơn không kém! Sau một ngày vật vã từ khu chế xuất ra, làm những công việc chân tay siêu đơn giản, thì bắt đầu nhậu nhẹt, hát hò, lên mạng tìm đọc “tin tức”, những loại càng “giật gân”, càng “thỏa mãn” càng tốt! Chương trình âm nhạc Xô – viết đầu tuần… đôi khi vẫn băn khoăn tự hỏi có khi nào lịch sử đi một vòng lớn, và lặp lại những điều đã xảy ra cách đây hơn 125 năm!?

KAL-007

Hơn 25 năm trước, khi đọc thông tin về chuyến bay KAL-007, tôi đã không thực sự tin chuyện đó có thể xảy ra, chuyến bay từ New York, Mỹ đi Seoul, Nam Hàn bị bắn hạ vì xâm phạm không phận Liên Xô. Nếu trên bản đồ bạn vẽ một đường thẳng giữa New York và Seoul, thì có vẻ như nó sẽ hoàn toàn nằm ngang, cắt qua Thái Bình Dương. Nhưng thực sự là địa lý (hay đúng hơn là cách dạy môn địa lý ở trường phổ thông) đã lừa dối chúng ta, vì quả đất hình cầu, nên “đường thẳng” ngắn nhất giữa New York và Seoul cắt qua phía trên Alaska, và đi ngang vùng Viễn Đông của nước Nga, ai không tin có thể mở phần mềm Google Earth lên và thử vẽ một “đường thẳng” xem là sẽ thấy rất rõ. Vài tuần trước khi vụ việc xảy ra, bão đã đánh hỏng hệ thống radar cảnh báo sớm của Liên Xô, và khi họ phát hiện ra sự việc thì máy bay KAL-007 đã bay lạc sâu vào vùng cấm bay.

Các chiến đấu cơ LX được cử lên chặn đường lại không thể… bay chậm hơn 400 kmph, còn KAL-007 không hiểu vì sao lại bay rất chậm cỡ 400 kmnph. Nỗ lực thiết lập liên lạc qua sóng radio không thành công, KAL-007 không trả lời, các máy bay quân sự LX bắn hơn 200 phát đạn cảnh cáo, nhưng 007 cũng không phản ứng gì! Có quá nhiều sự “không may mắn”, bắt đầu bằng việc KAL-007 đã mắc lỗi định vị và bay chệch từ không phận quốc tế vào lãnh thổ Xô-Viết, lệch đến 500km, rất có thể phi công đã đặt chế độ lái tự động. Sau khi làm đủ mọi cách mà KAL-007 vẫn không trả lời, phi công LX bắn hạ nó, 269 người thiệt mạng! Sau vụ việc, tổng thống Mỹ Reagan ra lệnh đem hệ thống GPS (cho đến lúc đó vẫn là hệ thống dành riêng cho quân sự) áp dụng cho các phi cơ thương mại, và đó cũng là lý do mà chúng ta có GPS, GLONASS… để xài ngày nay!

reenactment

Tái hiện khá phù hợp với lịch sử, người đứng vẫy tay trên xe là Bác sĩ Trần Duy Hưng, thị trưởng đầu tiên của Hà Nội, chọn người “đóng thế” rất giống về khuôn mặt, hình dáng. Người ngồi cùng xe, ghế trước là Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, đại đoàn trưởng đại đoàn 308, trông cũng khá giống. Người dẫn đầu đoàn quân đi bộ, tay ôm rất nhiều hoa, là trung đoàn trưởng trung đoàn Thủ Đô, anh hùng Nguyễn Quốc Trị.

Những điều này được đông đảo phóng viên ảnh của nhiều nước ghi lại. Nhưng đầy đủ, sinh động nhất là trong bộ phim phóng sự tài liệu “Việt Nam” do đạo diễn Liên Xô Roman Karmen thực hiện, 1954 ~ 1955! Lịch sử thuộc về những người đã đổ máu đề biến nó thành hiện thực, chứ không thuộc về những kẻ “đứng bên lề” tìm cách nói ra, nói vào, và cũng chỉ nói thôi chứ không dám động tay động chân làm gì cả!

whaling

Facebook nhắc lại ngày này năm trước. Săn cá voi, đó là một chương vô cùng quan trọng trong lịch sử văn minh phương Tây, điều mà Nga, TQ và nhiều nước khác không hề có! Nói cho đúng thì Liên Xô từng tham gia săn bắt cá voi một giai đoạn ngắn, nhưng lúc đó thì dầu, mỡ cá voi đã mất đi vai trò của nó, được thay thế gần như hoàn toàn bằng dầu mỏ. Những con tàu đi ra biển, mỗi chuyến đi có thể dài đến 3, 4 năm, có những chuyến đi vòng quanh thế giới, đem về hàng trăm tấn dầu!

Những con thuyền chèo tay mỏng manh, đuổi theo và phóng lao vào những con cá nặng đến hơn 100 tấn, kéo về xẻ thịt lấy dầu. Bạn hãy tưởng tượng công việc nguy hiểm, vất vả thế nào! Trở lại lịch sử hơn 100 năm trước, con gái những nhà giàu có ở Manhattan được “bảo đảm” tương lai bằng… 1 con cá nhà táng! Cô nào được cho 1 con làm của hồi môn thì xem như êm ấm, tương lai bảo đảm! Một ngành kinh doanh lớn, rủi ro nhưng cũng đi đôi với lợi nhuận khổng lồ. Dầu mỡ cá voi không chỉ được dùng làm chất đốt, chất bôi trơn…

Chúng chủ yếu được thuỷ phân để sản xuất glycerine làm thuốc nổ, nên thiên hạ không thể hiểu được vì sao giai đoạn Thế chiến thứ 1, châu Âu lại có nhiều thuốc nổ đến như thế để ném lên đầu nhau! Còn ngư dân VN chúng ta, đến tận bây giờ cơ bản vẫn là: sáng đi ra biển, tối đi về, bằng lòng với vài chục ký cá còm cõi! Và khi đã khai thác đủ đầy, đã nghĩ ra được cách thay thế dầu mỡ cá voi (các sản phẩm dầu mỏ), thì phương Tây bắt đầu dùng chiêu bài “xanh, sạch, bảo vệ môi trường” để áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá voi trên toàn cầu, khoảng những năm 198x!

Cũng y hệt như ngày nay, đã bắt đầu đào thải các sản phẩm dựa trên dầu mỏ để dùng các công nghệ “xanh, sạch” hơn. Nên một mặt, là vị thế dẫn đầu của những nước có khoa học kỹ thuật phát triển, nhưng mặt khác, cũng là duy trì lợi thế cạnh tranh dựa trên các định chế tài chính! Sự thực là nhân loại cạnh tranh lẫn nhau, ai khai thác được nhiều tài nguyên hơn thì xem như người đó “thắng”, và điều đó, đến tận ngày nay, về bản chất, vẫn không hề thay đổi!

Sabotage

Về cách thức phá hoại, đặt thuốc nổ trong máy nhắn tin, bộ đàm, laptop mà Israel đã thực hiện, việc này hoàn toàn không có gì mới! Chúng nó sẽ vừa ăn cướp, vừa la làng như thế, sau khi thực hiện mưu đồ xong, thì sẽ quay sang buộc tội ngược: các bạn hãy đề phòng vì Nga và TQ sẽ làm như vậy! Trong chiến tranh VN, người Mỹ cũng đã dùng đến chiêu này, đạn AK được nạp một liều thuốc nổ mạnh gấp 5 lần, mạnh đến nổi đẩy bệ khóa nòng ngược vào mặt người bắn, hay đạn cối được tráo ngòi, khiến nó nổ ngay trong nòng súng! Sau khi làm giả đạn, họ sẽ cố tình dàn cảnh khéo léo để cho Quân giải phóng lấy được, thường là dưới hình thức những gùi đạn giống hệt như cách thức người VN vận chuyển. Số lượng đạn giả được tính toán chỉ vừa ở mức cần thiết!

Và thường là, đạn đã nổ rồi thì rất khó tìm ra nguyên nhân chính xác! Mục tiêu chính không phải là gây ra thương vong, mà là khiến cho Quân giải phóng bắt đầu nghi ngờ, bất an về chất lượng súng đạn, và phải hao tổn rất nhiều công sức để tìm cách phân biệt, loại bỏ đạn giả giữa đống đạn thật! Sau đó, thông qua các cách thức tình báo tinh vi, ví dụ như phát hành tài liệu “huấn luyện nội bộ”, hướng dẫn lính Mỹ không được xài các loại súng đạn chiến lợi phẩm thu được, sẽ rất nguy hiểm do… “chất lượng luyện kim” kém, và người Mỹ tìm cách bảo đảm rằng những tài liệu “nội bộ” này người VN cũng sẽ lấy được, qua đó tìm cách “mớm, gieo” cái nghi ngờ là Trung Quốc đã cố tình viện trợ đạn “đểu”! Nên thực ra, ai mới thực là ông trùm của các thủ đoạn gián điệp & khủng bố!?

cao giao

Là Durov hay là Durak (durak – tiếng Nga – thằng ngốc), là thông minh hay là ngu xuẩn!? Trong cuốn “The spy who loved us” – Thomas Bass, tác giả có nói về một nhân vật khá đặc biệt, bạn của ông Phạm Xuân Ẩn, tên là Cao Giao, quá thông minh (hay quá ngu) nên sống ở thời nào thì cũng như cây thu lôi vậy, liên tục bị trời đánh! Cao Giao lân la chơi với người Nhật để dò la tin tức cho Việt Minh, nên bị người Pháp bắt bỏ tù.

Nhưng Việt Minh cũng không tin Cao Giao, bắt ông ta bỏ tù vì nghi ngờ cộng tác với Pháp. Đến sau năm 1954 ổng chạy vào Nam cũng bị họ Ngô bắt bỏ tù vì nghi là CS, đến năm 1978, lại bị CH XHCN VN bỏ tù thêm lần nữa nghi là điệp viên CIA, cứ như thế, bất kỳ chế độ nào cũng đều đơn giản là… bắt ông ta bỏ tù cả! Và sau rất nhiều lần tù tội như vậy, cuối cùng thì ông ta được cho xuất ngoại, sống lưu vong ở Bỉ!

bách việt

Gần đây thấy có các phong trào phục cổ, cổ phục, cổ phong… tuy việc tìm hiểu lịch sử, quá khứ là cần thiết, nhưng cũng thấy có một số rất đông dạng “vĩ cuồng, ngáo ngáo”. Tôi gọi đây là loại “khảo cổ”… đào lên không thấy gì cả, nên kết luận rằng… ngày xưa người Việt cổ đã dùng điện thoại không dây! Đơn cử là cái trào lưu “Bách Việt”. Bách Việt là cách sử sách cổ Trung Quốc gọi chung các vùng đất phía Nam sông Trường Giang, đó là kiểu “tập hợp” rất chung chung, một cái “umbrella – term” bao gồm rất nhiều nền văn hóa khác nhau: Dạ Lang, Mân Việt, Điền Việt, Nam Việt, Lạc Việt, etc… thậm chí cả nước (Ngô) Việt ở vùng Chiết Giang, Thượng Hải bây giờ. Đó là những “quốc gia” có rất ít liên hệ với nhau, thành phần chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau, một số đã là nhà nước phong kiến tập quyền, một số vẫn là mô hình bộ lạc, một số đã có chữ viết hay dùng chữ Hán, một số còn chưa có chữ viết, một số đã dùng lưỡi cày đồng, lưỡi cày sắt, một số còn… chọc lỗ tra hạt.

Thế nhưng một số ông “Việt…” thì tìm cách chứng minh rằng Bách Việt đã là một nhà nước thống nhất trên toàn bộ vùng phía Nam sông Trường Giang, do đó, cho nên, vì vậy, suy ra, ta có… VN là đại diện chính thống của Bách Việt, do đó, cho nên, vì vậy, suy ra, ta có… một dải suốt từ Quảng Đông, Phúc Kiến, đến tận Chiết Giang, Thượng Hải đều là của VN cả! Chưa dừng ở đó, các bố còn tự sướng, nói một hồi thì Kinh Dịch, Lạc thư Hà đồ, chữ Giáp cốt đều là sản phẩm của Việt tộc, nói một lúc nữa thì tất cả thành tựu đều do người Việt phát minh ra, người Hán chỉ ăn cắp thôi! Xưa toàn rừng núi, đường sá chưa có, đi bộ suốt một ngày chưa được 30km, ấy thế mà vẫn cố xây dựng Bách Việt trở thành một “quốc gia” thống nhất, rộng lớn đến nhiều ngàn km. Muốn có quốc gia, phải có kinh tế, sản xuất, xây dựng, hậu cần, giao thông, vận tải, phải có chữ viết, sách vở, tư tưởng, .v.v… Đóng trên người mỗi cái khố, chữ viết còn chưa có, gọi là “bán khai” quả không sai, nhưng lại cuồng vô đối!

Toàn các bố mới bơi một hai deca-mét đã chìm nghỉm, leo núi mới có hai ba hecto-mét đã sụm gối, mà ngồi “claim – đòi” đất nhiều ngàn km tận Thượng Hải mới vừa lòng, đúng ngáo! Đã là thời buổi nào mà còn mị dân bằng những trò như thế, sang TQ mà xem, họ ném các bằng chứng khảo cổ vào mặt, nhiều đến ngu người luôn! Mà những thằng ngáo, dở nói nhảm để làm gì, bản chất của sự việc là gì? Thực ra rất đơn giản, giả sử như bọn buôn người muốn bán mấy em gái trẻ vào động karaoke thì làm sao? Chúng nó vẽ ra một cái cuộc sống hưởng thụ, bỏ ra một tí tiền để dẫn dụ, đến khi ăn quen, làm không quen thì tự bán mình thôi! Và những thủ đoạn “buôn người” chúng nó đều như thế, cứ vẽ một chặp thì toàn thành đĩ điếm, lưu manh cả. Hại chết một dân tộc cũng theo cùng một cách, vẽ ra những thứ hão huyền, xàm xí, đánh vào những “cái tôi” thiểu năng, muốn ăn không muốn làm, chỉ ưa mấy cái danh hão, đánh vào những mối liên kết xã hội, đến một lúc căn cơ không đủ thì tự nó sập thôi!

Đã ở nước ngoài mấy chục năm, đã nhìn thấy thiên hạ sống thế nào, sao vẫn thiểu năng, ngu xuẩn như vậy?! Thực ra chúng nó hoàn toàn không có ngu đâu, chỉ vì “quan thầy” chúng nó đã dạy bảo phải làm như thế, vì các “bài” chúng nó dạy nhau như thế, đánh vào số đông là phải vẽ ra những thứ viễn vông hư ảo, chứ dân trí đang lè tè ngọn cỏ như vậy, nói chuyện đúng đắn là họ không nghe đâu, phải đơm đặt những chuyện càng hạ cấp, càng kích thích càng tốt! Quan trọng nhất là phải đánh vào “cái tôi”, phải cho họ một cái “bầy đàn” để dựa dẫm, một miếng bọt nước để bám vào, phải làm cho họ cảm thấy có “giá trị”, dù là loại giá trị “bánh vẽ”, “tôi đúng”, “tôi biết”, “tôi hơn người”. Thời xa xưa mấy chục mấy trăm năm trước, nói điêu, gian dối người ta khó phát hiện, và lâu thấy hậu quả, chứ thời đại thông tin và thay đổi chóng mặt ngày nay, gian một chút là hậu quả nhãn tiền ngay! Quan trọng nhất vẫn là “dân trí”, người ta đã đi đến tận đâu đâu, mà mình vẫn ngồi đây, ôm mãi những điều hư ảo!

maskirovka

Trung Đông là kiểu một nồi canh hẹ, không thể rối hơn, chia 5 xẻ 7 để cho thằng Do Thái và Mỹ nó lợi dụng, ám sát hết người này đến người khác! Đây căn bản là vấn đề của con người, không phải là vấn đề của vũ khí và công nghệ! Các bài bản “maskirovka” – nghi binh chắc là ku Nga đã dạy cho hết rồi, nhưng không hiểu sao khi áp dụng lại kém đến thế! Ví dụ như ở VN trước 75, chiến trường ở đâu có điểm nóng là TW lại gởi tướng Lê Trọng Tấn đến! Được xem như fire-fighter, lính chữa cháy, tướng VN giỏi nhất đương thời, những trận quan trọng, ông Tấn trực tiếp cầm quân, như chiến dịch Lam Sơn 719 / Đường 9 – Nam Lào.

Nhưng cũng có khi ông ta chỉ đóng vai trò giám sát, để cho các sĩ quan trẻ hơn thực hành! Chỉ cần biết tướng Tấn đang ở đâu, các sư đoàn chủ lực VN đang ở đâu là đã có thể đoán ra thế trận rồi! Nên chuyện nghi binh, bảo mật nó phải trở thành một nghệ thuật! Thế là hàng ngày vẫn có ô-tô đến đón tướng Tấn (giả) đi họp ở BQP, cuối giờ chiều, người qua đường vẫn nghe thấy Tấn (giả) chơi bóng chuyền với cảnh vệ, hò reo ý ới, gọi tên như đúng rồi luôn! Nhưng thực ra trong lúc đó, tướng Tấn thật đang nằm trên một con tàu không số nào đó, chạy lòng vòng trên biển Đông, tìm cách cập vào một bến bí mật nào đó ở miền Nam!

đại đồng

Ngồi nhớ nghĩ lung tung về những nơi đã đến, những vùng đất đã từng đi qua, những con người đã từng gặp! Đại Đồng, Đại Lộc, Quảng Nam, vùng quê trung du lâu đời. Cả cái tên Đại Đồng (大同) cũng gợi lên nhiều suy nghĩ sâu xa… Khắp các đô thị miền Nam trước 1975 từ Đà Nẵng, Nha Trang cho đến Sài Gòn đều có các đội biệt động thành, nhưng phần lớn chỉ biết đến “Biệt động Sài Gòn” nhờ bộ phim nổi tiếng cùng tên. Biệt động Sài Gòn tuyển dụng nhân viên như thế nào!?

Họ về những nơi như Đại Lộc, Tiên Phước, Quảng Nam, những vùng quê cách mạng lâu đời… Chọn ra một đứa bé tầm 13 ~ 15 tuổi, cha mẹ đứa bé, có khi là cả nhà, đều đã chết trong một trận càn của quân Mỹ , nên đứa bé nuôi cái ám ảnh phải báo thù! Chưa biết chữ, đi chân trần, chỉ qua một vài khóa huấn luyện, đào tạo ngắn, nó đóng vai thành đứa trẻ bán báo, đánh giày, bán vé số, lê la khắp các đường phố đô thị miền Nam làm công tác giao liên, nghe ngóng cho các đội biệt động!

clay movable type

That’s how they did it, type – setting with… clay movable types. When I first read about it, as how it was first done in China around 1000 years ago, I can’t totally imagine how this could be done! But the video explains every details clearly, they use a very fine clay, almost ceramics, to ensure the sharpness of the printed characters. Imagine the work load, having everything prepared for a typical set of 5000~6000 of commonly-used Chinese characters!

As I was watching the clip, I realize that clay movable type is a natural continuation of woodblock printing, since they used woodblock carving as mold to produce negative clay mold, then use this negative mold to produce the final positive types used for printing! That’s how it was done before the invention of metal movable types in Korea 2 centuries later. You can see in the clip, he was printing the very first pages of the Book of Poetry (Shih-ching)!

tar and feather

17/7/1944 sau chiến dịch Bagration, Hồng quân Liên Xô phản công chiếm lại được Belarus và một phần Ba Lan, Romania… họ bắt hơn 150 ngàn tù binh Đức với thương vong chưa đến 1/5 của đối phương! Thắng lợi là rất rõ ràng, nhưng Anh, Mỹ và một số nước Đồng Minh lúc bấy giờ công khai bày tỏ nghi ngờ, con số 150K lớn quá, có khi nào là xạo!? Không còn cách nào khác, Stalin đành phải tìm cách chứng minh!

57 ngàn tù binh khỏe mạnh, còn khả năng đi lại được chọn ra, cứ như thế đi bộ qua các đường phố Moscow trước sự chứng kiến của báo chí quốc tế! Theo tiêu chuẩn đạo đức của ngày nay, theo công ước Geneva 1949, thì những kiểu sỉ nhục công khai như thế này đã bị cấm! Nhưng vậy vẫn còn tốt chán so với thời Miền Tây hoang dã (wide wild west) ở Mỹ, tội nhân bị trét hắc ín và lông chim đem đi diễu phố!

gazyr

Facebook nhắc ngày này năm trước… Những cái ống gắn trên ngực áo choàng Cossack là gì!? Nguyên gốc ngày xưa thời còn xài súng nạp đạn từ đầu nòng (muzzle loading) những cái ống đó gọi là “Gazyr”, được làm bằng gỗ, ống sậy, chứa sẵn thuốc súng và đầu đạn, được thiết kế để không bị ướt khi trời mưa, tuyết, và để có thể nạp đạn nhanh từ trên lưng ngựa!

Những ống này cũng có chức năng như một loại giáp nhẹ bảo vệ ngực! Đến khi đạn hiện đại xuất hiện, chúng mất đi vai trò cũ, được chuyển sang dùng làm ống đựng thuốc lá, hoặc trở thành vật trang trí đơn thuần và được làm rất cầu kỳ, tinh xảo! Đồ vật của hơn 500 năm trước vẫn còn lại đến ngày nay, một dạng skeuomorph – “ruột thừa”!

quyền bính

Đăng lại post này vì hôm nay là ngày 4 tháng 7!!! Trường hợp của “Huy Đức”, ta có thể nhận thấy rằng, cũng giống hệt như mạng xã hội hiện đại, người ta có thể dấu dốt bằng cách tung hỏa mù thông tin, người ta có thể tỏ ra công bằng, khách quan bằng cách nhắc đi nhắc lại một vài cái “gạch đầu dòng” đơn giản. Thực tế lịch sử chưa bao giờ là đơn giản như thế! Qua cách hành văn, cách dựng truyện cho thấy sự thiếu hiểu biết về văn hóa bản địa, nhưng lại rất rành các thủ thuật truyền thông, cố tạo ra những cái “catchphrase” đơn giản để cho người khác có thể lặp lại một cách dễ dàng! Điều này cho thấy một văn hóa rặt Mỹ, nó hoàn toàn khác với người Pháp!

Các cha cố đạo người Pháp, một vài trong số họ thực sự đến sống và chịu đựng sự khó khăn với người dân, họ học ngôn ngữ bản xứ, họ có hiểu biết nhất định về lịch sử địa phương, điều này khiến cho họ ít nhất cũng có được sự tin tưởng một bộ phận dân chúng! Còn các tay lái buôn, lái súng Mỹ thì thích ngồi từ xa và đưa ra ý kiến hơn, tôi nghĩ nó phải là như thế này, tôi nghĩ nó phải là như thế kia, và điều tôi nghĩ nó phải đúng! Còn nếu như nó không đúng… thì sau cuộc chiến, chúng ta sẽ đưa ra những kịch bản khác! Trong trường hợp Huy Đức này, cũng như đã thấy ở khá nhiều trường hợp khác, ta có thể nói rằng, sức mạnh của sự ngu dốt, nó thật sự, thật sự rất đáng sợ!

thần quyền

Một trong những thuộc tính rất đặc trưng, cố hữu của Phật giáo, dù là tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, hay Việt Nam, xuyên suốt tất cả các giai đoạn lịch sử, đó là tính chất “tổ chức, hội đoàn yếu” của nó! Đây có thể xem vừa là nhược điểm, vừa là ưu điểm nổi bật của Phật giáo. Khác với những tôn giáo khác, Phật luôn là vấn đề rất cá nhân, mục tiêu cao nhất là đạt đến giác ngộ, những cái khác chỉ là phụ. Nên tính đoàn thể thì vẫn phải có, như bất kỳ một tổ chức nào khác, nhưng Phật giáo tập trung nhiều vào việc giáo dục con người, chứ không tập trung vào những chương trình hành động mang tính xã hội rộng lớn. Suốt mấy ngàn năm lịch sử, Phật giáo hiếm khi tự biến mình thành một tổ chức “Thần quyền” can thiệp vào “Thế quyền”, như đã xảy ra phổ biến với nhiều tôn giáo khác, ví dụ như Thiên Chúa giáo.

Thiên Chúa giáo, như tại Bùi Chu và Phát Diệm, vào thời của các giám mục Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi… chính là một kiểu Thần quyền và Thế quyền hợp nhất, các linh mục nắm toàn quyền sinh sát, thậm chí có cả quân đội vũ trang riêng. Tính tổ chức cao, hoạt động hiệu quả luôn là truyền thống của Thiên Chúa giáo Tây phương, điều này thể hiện rõ với các cha xứ theo chân đoàn quân thực dân đi xâm chiếm nước khác! Khi thực dân Pháp hoàn tất việc cai trị Việt Nam, các tri thức VN đương thời đều nhận ra tính hiệu quả của mô hình tôn giáo, tổ chức ngoại lai, và họ cũng nỗ lực làm giống như vậy! Như Cao Đài tổ chức thành các xóm đạo, họ đạo như Thiên Chúa giáo, xây các nhà thờ dạng 2 tháp hệt như Thiên Chúa giáo. Nhưng các quyết định quan trọng được đưa ra bởi một hình thức… “cầu cơ” (!!!) thay vì bỏ phiếu.

Ở miền Nam ngoài Cao Đài còn có Hòa Hảo, và nhiều hình thức tôn giáo “ngồ ngộ” khác. Mê tín dị đoan (như chữa bệnh bằng nước lã, tro than) là phổ biến, bùa chú, sấm ký là phổ biến, và nhiều hình thức khó tin khác theo như suy nghĩ hiện đại ngày nay, ví dụ như tuyên truyền rằng súng của Việt Minh sẽ không thể nổ được trước những tín đồ Hòa Hảo. Những điều này xảy ra nói thẳng là vì dân trí quá thấp! Mặc dù ở phần tư tưởng, Hòa Hảo tự nhận mình là một nhánh Phật giáo (Tịnh độ tông), nhưng ở phần thực hành, họ xa rời tôn chỉ của Phật giáo là giáo dục con người, mà tập trung vào tổ chức Giáo hội Thần quyền kiêm quản Thế quyền giống như các nhánh tôn giáo khác đương thời. Các chỉ huy Hòa Hảo như Năm Lửa, Ba Cụt… cai trị các vùng lãnh thổ riêng, không ai chịu ai, tàn bạo không khác gì lãnh chúa.

Trở lại với thời gian đầu chống Pháp, nỗ lực “toàn dân kháng chiến” của Việt Minh mâu thuẫn nghiêm trọng với tính cô lập, tự trị và lạc hậu của các giáo phái! Nhất là ở thời gian vài năm đầu, bất kỳ ai “tích cực kháng chiến” đều được chấp nhận, nên trong hàng ngũ Việt Minh xuất hiện một số kẻ “cơ hội chủ nghĩa” như Kiều Đắc Thắng, hay hành xử “tự tung tự tác” như Bửu Vinh. Đám Bình Xuyên mặc dù đi làm cách mạng nhưng vẫn có nhiều người, cung cách không khác với thời ăn cướp ngày trước là mấy! Thế nên khá nhiều sự việc đáng tiếc đã xảy ra! Theo dòng tiến bộ của lịch sử, ngày nay, tách biệt Thần quyền và Thế quyền là một nguyên tắc cần được thực hiện nghiêm nhặt, cũng nghiêm nhặt y như là bảo đảm quyền Tự do tôn giáo vậy, và các Tôn giáo nên trở lại đúng với vai trò của nó, đó là giáo dục con người!

hòa hảo

23/9/1945, Nam Bộ kháng chiến bùng nổ… Tình hình miền Nam lúc này, các lực lượng giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài, mỗi nhánh có khoảng 2000 ~ 3000 tay súng, nhưng chống Pháp theo kiểu nửa vời. Mạnh nhất là Việt Minh, bao gồm Thanh niên tự vệ và khoảng 2000 bộ đội Bình Xuyên (quân của Ba Dương, Tám Mạnh, tuy vẫn có một bộ phận Bình Xuyên không hoàn toàn quy phục Việt Minh như Bảy Viễn), tổng cộng không quá 5000 ~ 6000 tay súng! Bình Xuyên, những người trước đây là dân giang hồ, anh chị, ăn cướp, bảo kê, .v.v. nói cho đúng vẫn là lực lượng chiến đấu tương đối hiệu quả, ít nhất là vào thời gian đầu kháng chiến, nhờ cái máu “yêng hùng” của họ! Nhưng do đâu Việt Minh lại nắm được, sai khiến được đám giang hồ này, đó là từ một sai lầm của người Pháp! Từ nhiều năm trước đó, người Pháp nhốt chung tù chính trị với tù hình sự, hy vọng có thể dùng đám đầu gấu để trị các tay tù chính trị. Nhưng kết quả hóa ra ngược lại, vào tù rồi, anh chị cỡ nào đi nữa, nó đánh cho vài trận là khai hết, là phục tùng hết. Nhưng đám tù chính trị dù có chặt tay, chân thì vẫn không khuất phục.

Kết quả là đám tù chính trị quay ngược lại cảm hóa, thuyết phục được đám du đãng, vì họ đã cho đám “cơ bắp” thấy được có loại sức mạnh nằm ngoài cơ bắp! Đến khi kháng chiến bùng nổ, các đơn vị “bộ đội” như của Ba Dương, Tám Mạnh đều rắp rắp nghe lệnh Việt Minh. Nhưng tổng số 5000, 6000 tay súng là quá ít, không đủ để đối đầu với quân Pháp! Miền Nam cho đến lúc đó vẫn là vùng đất mới, lòng người không vững, lại chia năm xẻ bảy không ai chịu ai! Ngay trong tháng 9-1945, các đơn vị Nam Tiến từ miền Bắc, Trung được thành lập để chi viện cho miền Nam, Hải Phòng, Hà Nội mỗi nơi gởi một chi đội, Bắc Ninh, Bắc Giang gởi một chi đội, Thừa Thiên cũng gởi cỡ một chi đội, Quảng Nam gởi 3 chi đội… đặc biệt Quảng Ngãi gởi vào Nam 15 ngàn người! Cái gọi là “chi đội” lúc bấy giờ là những đơn vị không cố định quân số, thường khoảng 1000 ~ 1500 người! Đến tận giờ không thể biết chính xác bao nhiêu người đã Nam Tiến, ước tính ít nhất 30 ngàn người đã chi viện cho miền Nam trong vòng chưa đến 5 tháng! Nhưng tình hình miền Nam lại diễn biến vô cùng phức tạp!

Những khúc mắc, ân oán giữa Việt Minh với Hòa Hảo, Cao Đài và những thành phần xã hội khác, đến tận ngày nay người ta vẫn tránh nói về những đề tài ấy, bởi vì muốn nói cho cùng thì phải nhìn vào bản chất lạc hậu, manh mún, nhìn vào dân trí, những điều vẫn chưa cải thiện mấy cho đến tận ngày hôm nay! Quay ngược lịch sử trăm năm trước, khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, phong trào Nghĩa Hội bùng phát khắp Quảng Nam, cầm đầu bởi Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Nguyễn Tiểu La… xây căn cứ ở Quế Sơn tính chống Pháp lâu dài. Nhưng người Pháp không chỉ hơn ở khoa học, kỹ thuật, vũ khí mà họ hơn ở… tất cả mọi mặt: âm mưu, kế sách, thủ đoạn, mua chuộc, đe dọa, cài cắm, tin giả, ly gián, etc… Được khoảng 2 năm thì Nguyễn Duy Hiệu bị bắt, phong trào tan rã. Nói đến tinh thần yêu nước nhưng nhiều người không dám nói thẳng về kết quả của Nghĩa Hội Quảng Nam: giết được vài chục người Pháp, nhưng tự mình giết người mình vì nghi ngờ, phản bội, thanh trừng lẫn nhau, con số phải lên đến nhiều trăm. Và chuyện như thế kéo dài mãi đến về sau…

nguyên hùng

Lại nói về văn và sử, sử và văn, hư và thực, thực và hư… Có nhưng thứ văn chương nghe có vẻ hư cấu, nhưng lại cực kỳ thực. Và có những thứ sử tưởng chừng thực, kỳ thực lại rất hư. Văn mà mô tả đầy đủ chi tiết về văn hóa, cuộc sống đương thời, từ địa lý, sắc tộc cho đến ngôn ngữ, ẩm thực, ăn mặc, v.v. thì đó là lối văn cực kỳ thực, không có hiểu biết, từng trãi cuộc sống thì không thể nào viết ra như vậy được. Sử mà chỉ gồm toàn những cái gạch đầu dòng giản đơn, tìm cách máy móc kết nối các điểm lại với nhau, kỳ thực là một lối sử rất là hư! Lại nói về những nhân vật trong các cuốn sách của nhà văn Nguyên Hùng: Lê Văn Viễn có cha là người Triều Châu, mẹ người Việt, là một tướng cướp lừng danh. Huỳnh Văn Trí cũng là một tay anh chị khét tiếng, cả 2 vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần, quen nhau trong tù, nhiều lần vượt ngục cùng nhau và kết nghĩa làm anh em.

CMT8 nổ ra, cả hai tổ chức những đơn vị vũ trang đầu tiên chống Pháp, cả 2 đều là đàn em dưới trướng của Dương Văn Dương, thủ lĩnh “nghĩa quân” Bình Xuyên, người ngay từ năm 1948 đã được truy phong Thiếu tướng! Nhưng Mười Trí đi kháng chiến đến cùng, còn Bảy Viễn như ta biết, trở về làm ông trùm Chợ Lớn. Không thuyết phục được người anh em kết nghĩa, Mười Trí bày tỏ nỗi lòng qua một bài thơ, lối văn dân dã Nam bộ. Hư hay là thực thì để cho người đọc suy nghĩ, nhưng lối văn này, dù người ta cũng đã tìm cách giả, nhưng tối hậu vẫn không thể nào giả được: Thế là hết, tôi với anh đành đoạn tuyệt, Vì anh ơi, đời hồ hải hết tung hoành. Anh giam mình vào lưới sắt, bả hư danh, Thân lồng chậu, anh mong nằm trên nệm ấm. Anh có biết tay quân thù còn đỏ thắm, Máu đồng bào ngùn ngụt lửa căm thù. Kiếp tôi đòi, anh nhớ lại mùa Thu, Mùa lịch sử đã mở tù cho dân tộc…

người bình xuyên

Thực ra ở VN, cũng có nhiều người viết văn theo lối “nửa thực, nửa hư” như thế (và họ nói rõ ràng đây là văn, không phải sử), viết để trình bày một dạng sử ít chính thức hơn. Ví dụ thú vị là nhà văn Nguyên Hùng, tác giả những cuốn Người Bình Xuyên, Nguyễn Bình – huyền thoại và sự thật, Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ… những sách nói cho độc giả biết về các nhân vật kháng chiến, tôn giáo, quân phiệt miền Nam 1945 ~ 1975, một giai đoạn cũng gần giống như thời Dân quốc bên TQ vậy! Sách của ông nói cho chúng ta về những góc ít biết của lịch sử: Huỳnh Phú Sổ, Phạm Công Tắc, Lê Văn Viễn, Dương Văn Dương, Nguyễn Bình…

Nhưng khác là Nguyên Hùng thực sự là người trong cuộc, tham gia kháng chiến từ đầu đến cuối! Vì là người trong cuộc nên Nguyên Hùng có khả năng phác họa chân dung con người với những hiểu biết sống động: ngôn ngữ, giáo dục, văn hoá, tâm lý, và nhiều chi tiết khác liên quan đến đời sống, xã hội đương thời! Còn với trường hợp Huy Đức, ông ấy chỉ là người đến sau, mãi về sau, tìm cách hình dung lại lịch sử qua những gì được nghe kể lại, hay qua những gì mình tưởng tượng ra, tìm cách lắp ghép, sắp xếp thông tin thu nhặt được theo những định kiến có sẵn, nên sách nghe rất khiên cưỡng, máy móc và vô hồn…