phong hoá… phong hóa

Facebook nhắc lại ngày này năm trước… Lý Bạch, một tính cách thi ca “lớn hơn cả cuộc đời – larger than life”. Thiếu niên lên núi Nga Mi ngắm trăng, thanh niên xách kiếm đến Trường An, tương truyền chỉ riêng khoản đấu kiếm là ông ta đã giết cả chục mạng người! Cả đời xê dịch đi khắp Trung Quốc, lúc đi ngựa, lúc đi thuyền! Dấu vết về sông, hồ, biển, sóng và thuyền trong thơ của họ Lý thì nhiều vô số. Mới ngồi nhẩm mấy phút đã trích được cả chục bài, ngũ ngôn, thất ngôn đủ cả!

Giang thôn thu vũ yết, Tửu tận nhất phàm phi.
江村秋雨歇,酒尽一帆飞。
Thiên thanh nhất nhạn viễn, Hải khoát cô phàm trì.
天清一雁远,海阔孤帆迟。
Phiêu phiêu giang phong khởi, Tiêu táp hải thụ thâu.
飘飘江风起,萧飒海树秋。
Minh triêu quải phàm khứ, Phong diệp lạc phân phân.
明朝挂帆去,枫叶落纷纷。
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất tận, Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.
两岸猿声啼不住,轻舟已过万重山。
Trường phong phá lãng hội hữu thời, Trực quải vân phàm tế thương hải.
长风破浪会有时,直挂云帆济沧海。
Cô phàm viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
孤帆远影碧空尽,惟见长江天际流。
Bạch lãng như sơn na khả độ, Cuồng phong sầu sát tiễu phàm nhân.
白浪如山那可渡,狂风愁杀峭帆人。
Lý Bạch thừa chu tương dục hành, Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh.
李白乘舟将欲行,忽闻岸上踏歌声。

Qua đó thấy được hồn thơ như sông dài, biển rộng! Hơn 1300 năm trước người ta như thế, nhìn lại hiện tại xem, toàn những loại thiểu năng, xàm xí kiểu như: “Vợ tôi nửa dại nửa khôn, Làm thơ phải tránh vần ‘ồn’ biết chưa!?”, nói ra là đụng phải hàng vạn “nhà thơ” lổm nhổm như chấy rận! Đĩ miệng thì rất giỏi, chỉ là không tự luận ra được ngu dốt ở chỗ nào! Haiza, cái thời mà phong hóa (丰化) đã bị… phong hóa (风化), suy đồi, biến dạng đến mức dị hợm, khuyết tật! 🙁

nguyên hùng

Lại nói về văn và sử, sử và văn, hư và thực, thực và hư… Có nhưng thứ văn chương nghe có vẻ hư cấu, nhưng lại cực kỳ thực. Và có những thứ sử tưởng chừng thực, kỳ thực lại rất hư. Văn mà mô tả đầy đủ chi tiết về văn hóa, cuộc sống đương thời, từ địa lý, sắc tộc cho đến ngôn ngữ, ẩm thực, ăn mặc, v.v. thì đó là lối văn cực kỳ thực, không có hiểu biết, từng trãi thực tế cuộc sống thì không thể nào viết ra như vậy được. Sử mà chỉ gồm toàn những cái gạch đầu dòng giản đơn, tìm cách máy móc kết nối các điểm lại với nhau, kỳ thực là một lối sử rất là hư! Lại nói về những nhân vật trong các cuốn sách của nhà văn Nguyên Hùng: Lê Văn Viễn có cha là người Triều Châu, mẹ người Việt, là một tướng cướp lừng danh. Huỳnh Văn Trí cũng là một tay anh chị khét tiếng, cả 2 vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần, quen nhau trong tù, nhiều lần vượt ngục cùng nhau và kết nghĩa làm anh em.

CMT8 nổ ra, cả hai đều tổ chức những đơn vị vũ trang đầu tiên chống Pháp, cả 2 đều là đàn em dưới trướng của Dương Văn Dương, thủ lĩnh “nghĩa quân” Bình Xuyên, người ngay từ năm 1948 đã được truy phong Thiếu tướng! Nhưng Mười Trí đi kháng chiến đến cùng, còn Bảy Viễn như ta biết, trở về làm ông trùm Chợ Lớn. Không thuyết phục được người anh em kết nghĩa, Mười Trí bày tỏ nỗi lòng qua một bài thơ, lối văn dân dã Nam bộ. Hư hay là thực thì để cho người đọc suy nghĩ, nhưng lối văn này, dù người ta cũng đã tìm cách giả, nhưng tối hậu vẫn không thể nào mà giả cho được: Thế là hết, tôi với anh đành đoạn tuyệt, Vì anh ơi, đời hồ hải hết tung hoành. Anh giam mình vào lưới sắt, bả hư danh, Thân lồng chậu, anh mong nằm trên nệm ấm. Anh có biết tay quân thù còn đỏ thắm, Máu đồng bào ngùn ngụt lửa căm thù. Kiếp tôi đòi, anh nhớ lại mùa Thu, Mùa lịch sử đã mở tù cho dân tộc…

người bình xuyên

Thực ra ở VN, cũng có nhiều người viết văn theo lối “nửa thực, nửa hư” như thế (và họ nói rõ ràng đây là văn, không phải sử), viết để trình bày một dạng sử ít chính thức hơn. Ví dụ thú vị là nhà văn Nguyên Hùng, tác giả những cuốn Người Bình Xuyên, Nguyễn Bình – huyền thoại và sự thật, Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ… những sách nói cho độc giả biết về các nhân vật kháng chiến, tôn giáo, quân phiệt miền Nam 1945 ~ 1975, một giai đoạn cũng gần giống như thời Dân quốc bên TQ vậy! Sách của ông nói cho chúng ta về những góc ít biết của lịch sử: Huỳnh Phú Sổ, Phạm Công Tắc, Lê Văn Viễn, Dương Văn Dương, Nguyễn Bình…

Nhưng khác là Nguyên Hùng thực sự là người trong cuộc, tham gia kháng chiến từ đầu đến cuối! Vì là người trong cuộc nên Nguyên Hùng có khả năng phác họa chân dung con người với những hiểu biết sống động: ngôn ngữ, giáo dục, văn hoá, tâm lý, và nhiều chi tiết khác liên quan đến đời sống, xã hội đương thời! Còn với trường hợp Huy Đức, ông ấy chỉ là người đến sau, mãi về sau, tìm cách hình dung lại lịch sử qua những gì được nghe kể lại, hay qua những gì mình tưởng tượng ra, tìm cách lắp ghép, sắp xếp thông tin thu nhặt được theo những định kiến có sẵn, nên sách nghe rất khiên cưỡng, máy móc và vô hồn…

từ điệu

Nhiều ngàn năm trước thời không thể nói rõ, nhưng độ một ngàn năm đổ lại (kể từ thời Tống) thì trình độ thưởng thức âm nhạc của dân chúng (chính xác hơn là của tầng lớp văn nhân, tri thức, có học) dừng ở mức “từ điệu”. Như thế nào là một “từ điệu”, đó là những khúc ca có nhạc điệu cố định, được truyền lại qua nhạc phổ hay được giảng dạy tại các nhạc phường! Những điệu nhạc này thường có tên, ví dụ như: Bốc toán tử, Giá cô thiên, Niệm nô kiều, Hoán khê sa, Điệp luyến hoa, Giang thành tử, Thu phố ca, Đạp sa hành, Thái tang tử, Lãng đào sa, Ngọc lâu xuân, Bồ tát man, Thiếu niên du, Vũ lâm linh, Định phong ba, v.v… Chỉ có các ca nương được đào tạo tại các nhạc phường mới rành rẽ về các ca điệu này. Còn giới văn nhân, trừ một vài ngoại lệ, do quá trình giáo dục, đa số cũng chỉ biết rõ phần “lời – chữ” chứ không tường tận phần “âm – nhạc”! Hình thức nó gần giống như ca trù vậy (thực chất đây có lẽ chính là thủy tổ của ca trù). Mỗi khi giới văn nhân tụ tập lại với nhau, họ thường làm “từ”.

Từ là một thể thơ đời Tống mà âm luật tự do hơn, để ráp vào các điệu ca cho dễ! Như thế, các văn nhân “phụ trách” phần lời, các ca nương “phụ trách” phần nhạc, và các bài từ được đặt tên theo tên điệu hát là như thế! Hình thức này có ảnh hưởng sâu đậm về sau, đến tận thời của “cải lương”, ví dụ như có vô số bài, nhạc điệu thì chỉ có một, nhưng có nhiều lời ca khác nhau được đặt ra để hát theo điệu đó. Mọi thứ nó là như thế, cho đến khi tiếp xúc với văn minh và âm nhạc phương Tây, người ta mới biết đến những loại âm nhạc phong phú và phức tạp hơn, còn trước đó, “nhạc” và “lời” được truyền tải qua những “format” cứng như vậy! Cũng vì trình độ của “đại chúng” đang ở mức đó, cứ phải lặp đi lặp lại những “định dạng” cố định! Xem ra “tân nhạc và thơ mới” đã trăm năm có dư rồi, mà trình thưởng thức âm nhạc của một bộ phận lớn thính giả Việt vẫn như ngàn năm trước, cứ phải vin vào những hình thức cố định và giản đơn thì mới hiểu nổi! Clip, từ điệu: Đãn nguyện nhân trường cữu – Vương Phi.

xuân tứ

Bữa hôm nọ, bỗng dưng nảy ra ý định viết một cuốn truyện, có thể là dạng truyện vừa, mà cũng có thể là dạng tiểu thuyết dài hơi. Và để bắt đầu, như nó thường phải bắt đầu từ đâu đấy, bỗng dưng nhớ đến mấy câu trong bài Xuân tứ của Lý Bạch: Yên thảo như bích ty, Tần tang đê lục chi… Vậy là đã có ý tưởng rồi… nữ chính của chúng ta sẽ đặt tên là Yên Thảo, vừa hay, Yên (Yến) là một cái họ, còn nam chính của chúng ta sẽ mang tên là Tần Tang (cũng vừa hay, Tần cũng là một cái họ)!

Mà nữ chính Yên Thảo chắc chắn phải có một con nha hoàn đi theo, đặt tên là Bích Ty, còn người hầu của nam chính Tần Tang đương nhiên sẽ là Lục Chi rồi. Mới dùng có 2 câu thơ cổ, tổng cộng 10 chữ, là đã đặt được tên cho 4 nhân vật rồi. Chỉ cần thêm vài chục bài Đường thi, độ một tá Tống từ, lại dặm ghém thêm đôi ba Nguyên khúc nữa, chắn chắn sẽ vẽ ra được một cái truyện kiếm hiệp hay ngôn tình “cẩu lương, cẩu huyết” ngay thôi! Viết văn là dễ, nào ta bắt đầu thôi… 😀

chữ

Đầu năm nói chuyện “chữ”… Trước em có biết một số vị làm việc liên quan đến cổ ngữ! Chữ của các vị ấy đương nhiên nhiều rồi, em không bằng được! Nhưng làm bộ hỏi vài câu Đường thi thông dụng, các vị ấy đều lơ ngơ, ướm thử vài câu Tống từ phổ biến, các vị ấy đều kiểu lấp lửng! Nên em tạm rút ra nhận định: tuy chữ của các bác ấy nhiều, nhưng lại không hàm thụ được vẻ đẹp của thi ca cổ, hay ít nhất là tâm trí các bác không quan tâm những điều ấy! Em băn khoăn tự hỏi tâm các bác ấy đặt ở chỗ nào!? Sau thì phát hiện ra, phần lớn thời gian các bác ấy dùng “chữ” để vừa khoe mẽ, vừa đấu tố nhau, kích động ghen ghét cá nhân, phân biệt vùng miền, thường khi là lồng ghép trong đó những đấu đá chính trị, tôn giáo, một số trường hợp rõ ràng là “bồi bút” được các thế lực ngoài giật dây, dùng “chữ” kích động mâu thuẫn, đánh vào cái tôi “vừa ghen ghét, vừa tự ti vặt của người Việt”, đánh vào cái dân trí lè tè không tự luận ra được. Nên với những người ấy, tốt nhất là cứ… “kính nhi viễn chi”.

Vấn đề quay lại điểm khởi đầu, học để làm gì!? Lịch sử Trung Quốc lâu dài như vậy, văn minh Hoa Hạ rực rỡ như vậy, họ làm ra biết bao nhiêu chuyện kỳ vĩ, từ văn hoá, thơ ca cho đến các công trình quốc kế, dân sinh, đào Vận hà, xây Trường thành, và biết bao nhiêu thành tựu khoa học, kỹ thuật, xã hội to lớn khác! Em chỉ cần nhìn vào một thoáng là em biết, họ học chữ để đấu đá và kèn cựa nhau, chứ trong tâm không có cái mộng học được cái đẹp, cái hay của thiên hạ! Nói nghe có vẻ to lớn, nhưng học chưa chắc đã làm được như người ta, trở thành sĩ phu kẻ sĩ, kinh bang tế thế, chuyện đời đâu có dễ thế! Nhưng ít nhất và đầu tiên, học có thể thay đổi tính cách, tâm hồn con người! Bản thân còn không thay đổi được, làm sao thay đổi ngoại giới!? Muốn xem công phu của một người tới đâu, đầu tiên hãy xem cách anh ta đối xử, nhìn nhận, đặt ra yêu cầu đối với… chính bản thân mình! Em lạy các bác, mở mắt ra xem người ta sống như thế nào, đừng bám vào mấy cái gốc tre làng mãi như thế nữa! 🙁

hạnh hoa thôn

Đêm qua ngủ, nằm mơ thấy câu: Tá vấn tửu gia hà xứ hữu? Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn – 借問酒家何處有?牧童遙指杏花村。 – Hỏi thăm quán rượu nơi đâu? Mục đồng chỉ hướng thôn đầu Hạnh Hoa! (Thanh minh – Đỗ Mục). Sáng dậy lên net tìm tư liệu thẩm tra lại, hoá ra, Trung Quốc có cả vài chục cái “Hạnh hoa thôn” khác nhau, nhưng không thể khẳng định “Hạnh hoa thôn” mà Đỗ Mục nhắc tới chính xác là chỗ nào! Nhưng chỉ cần vin vào một câu thơ như thế mà ngày nay, Hạnh hoa thôn – Phần Dương – Sơn Tây đã trở thành kinh đô của ngành công nghiệp rượu TQ, danh tiếng thậm chí có phần còn vượt qua cả Mao Đài. Cũng tương tự như bài Đào Nguyên hành – Vương Duy vậy: Cư nhân cộng trú Vũ Lăng nguyên, Hoàn tùng vật ngoại khởi điền viên – 居人共住武陵源,還從物外起田園。。。

Không ai có thể khẳng định chắc chắn Đào nguyên – Vũ Lăng nguyên mà Vương Duy nói đến là ở đâu, là địa danh có thật hay chỉ là nơi chốn tưởng tượng! Nhưng lại vin vào câu đó thơ nên ngày nay, Trương Gia giới – Vũ Lăng nguyên có được cái tên rất đẹp! Rất lâu về trước, mới nghe đến khu du lịch nổi tiếng này là tôi đã luận ra được tên được lấy từ đâu ra! Nên cái quan trọng của văn chương, văn hoá viết nó là như thế, lịch sử, cư dân biến đổi, thành quách, thiên nhiên đều có thể hư hoại, nhưng chữ nghĩa thì còn đó! Và đôi khi những thứ tưởng tượng, hư cấu lại trở ngược lại thành hiện thực! Nên bảo Trung Quốc nó bẻ một vài chữ cũng ra tiền, quả không sai, văn hoá nó đẻ ra tiền, điều ngược lại chưa chắc đã đúng! Chỉ có thiểu năng mới nghĩ rằng có thể cứ đầu tư tiền để đẻ ra văn hoá, làm điều ngược ngạo, bất khả!

thuyền sắp đắm

Trí nhớ, ký ức của “người già” ấy mà, đôi khi không thể nào lý giải cho tỏ tường được. Đây là một truyện rất hấp dẫn, khi còn nhỏ xíu mê truyện này lắm! Nhưng lớn lên rồi thì chẳng còn nhớ được mấy, thậm chí còn không nhớ tác giả là ai! Mấy lần cố ý lần mò các hàng sách cũ tìm lại, nhưng chả có cách nào tìm được!

Mà trên internet thì những truyện như thế này không có đâu, thật đúng là mò kim đáy bể! Ấy thế mà nay tìm được, chẳng phải người hoài cổ gì, đôi khi còn cố tình quên quá khứ, nhưng có nhiều cái đọc rồi không quên! Và cái tên Bùi Đức Ái thực ra là một bút danh khác của nhà văn Anh Đức, tác giả tiểu thuyết Hòn Đất! ❤️

believe

Peter-the-great, khi hãy còn rất trẻ, có lần tham gia một nghi lễ triều đình và… quên lời thoại, những lời có tính công thức, khuôn mẫu một đức vua phải nói, mà thời đó thì không có máy nhắc chữ! Thế là ông ta cứ đứng đó ấp a ấp úng: Ta, ta sợ rằng… Vị tổng giám mục đứng bên cạnh liền nhắc rằng:

Thưa, ngài không sợ điều gì cả, ngài tin tưởng… (Sir, you don’t fear anything, you believe…) Thế là Peter nhớ ra và nói hết câu mang tính nghi lễ đó! Trích đoạn tiểu thuyết Pie đệ nhất – Aleksei Tolstoi! 🙂 Hơn 30 năm sau, vẫn nhớ từng sự kiện, từng diễn biến trong cuốn tiểu thuyết rất hay từng đọc lúc nhỏ!

hồng lâu mộng

Đầy trang những chuyện hoang đường,
Tràn trề nước mắt bao nhường chua cay.
Đừng cho tác giả là ngây,
Ai hay ý vị chứa đầy bên trong!

Chương trình âm nhạc cuối tuần… Khi xưa cực kỳ thích nghe bài này, Hồng Lâu Mộng phiến đầu khúc, nhưng không cách nào biết chính xác trong đó xài những nhạc cụ gì, âm thanh phức tạp, nghe ra được: đàn nhị, sáo, tì bà, cổ tranh, cổ cầm, và dương cầm, có thể còn những nhạc cụ khác (dương cầm tiếng Trung là cây đàn tam thập lục, còn piano tiếng Trung gọi là “cương cầm”). Post ở đây để lâu lâu nghe lại…