từ điệu

hiều ngàn năm trước thời không thể nói rõ, nhưng độ một ngàn năm đổ lại (kể từ thời Tống) thì trình độ thưởng thức âm nhạc của dân chúng (chính xác hơn là của tầng lớp văn nhân, tri thức, có học) dừng ở mức “từ điệu”. Như thế nào là một “từ điệu”, đó là những khúc ca có nhạc điệu cố định, được truyền lại qua nhạc phổ hay được giảng dạy tại các nhạc phường! Những điệu nhạc này thường có tên, ví dụ như: Bốc toán tử, Giá cô thiên, Niệm nô kiều, Hoán khê sa, Điệp luyến hoa, Giang thành tử, Thu phố ca, Đạp sa hành, Thái tang tử, Lãng đào sa, Ngọc lâu xuân, Bồ tát man, Thiếu niên du, Vũ lâm linh, Định phong ba, v.v… Chỉ có các ca nương được đào tạo tại các nhạc phường mới rành rẽ về các ca điệu này. Còn giới văn nhân, trừ một vài ngoại lệ, do quá trình giáo dục, đa số cũng chỉ biết rõ phần “lời – chữ” chứ không tường tận phần “âm – nhạc”! Hình thức nó gần giống như ca trù vậy (thực chất đây có lẽ chính là thủy tổ của ca trù). Mỗi khi giới văn nhân tụ tập lại với nhau, họ thường làm “từ”.

Từ là một thể thơ đời Tống mà âm luật tự do hơn, để ráp vào các điệu ca cho dễ! Như thế, các văn nhân “phụ trách” phần lời, các ca nương “phụ trách” phần nhạc, và các bài từ được đặt tên theo tên điệu hát là như thế! Hình thức này có ảnh hưởng sâu đậm về sau, đến tận thời của “cải lương”, ví dụ như có vô số bài, nhạc điệu thì chỉ có một, nhưng có nhiều lời ca khác nhau được đặt ra để hát theo điệu đó. Mọi thứ nó là như thế, cho đến khi tiếp xúc với văn minh và âm nhạc phương Tây, người ta mới biết đến những loại âm nhạc phong phú và phức tạp hơn, còn trước đó, “nhạc” và “lời” được truyền tải qua những “format” cứng như vậy! Cũng vì trình độ của “đại chúng” đang ở mức đó, cứ phải lặp đi lặp lại những “định dạng” cố định! Xem ra “tân nhạc và thơ mới” đã trăm năm có dư rồi, mà trình thưởng thức âm nhạc của một bộ phận lớn thính giả Việt vẫn như ngàn năm trước, cứ phải vin vào những hình thức cố định và giản đơn thì mới hiểu nổi! Clip, từ điệu: Đãn nguyện nhân trường cữu – Vương Phi.

xuân tứ

ữa hôm nọ, bỗng dưng nảy ra ý định viết một cuốn truyện, có thể là dạng truyện vừa, mà cũng có thể là dạng tiểu thuyết dài hơi. Và để bắt đầu, như nó thường phải bắt đầu từ đâu đấy, bỗng dưng nhớ đến mấy câu trong bài Xuân tứ của Lý Bạch: Yên thảo như bích ty, Tần tang đê lục chi… Vậy là đã có ý tưởng rồi… nữ chính của chúng ta sẽ đặt tên là Yên Thảo, vừa hay, Yên (Yến) là một cái họ, còn nam chính của chúng ta sẽ mang tên là Tần Tang (cũng vừa hay, Tần cũng là một cái họ)!

Mà nữ chính Yên Thảo chắc chắn phải có một con nha hoàn đi theo, đặt tên là Bích Ty, còn người hầu của nam chính Tần Tang đương nhiên sẽ là Lục Chi rồi. Mới dùng có 2 câu thơ cổ, tổng cộng 10 chữ, là đã đặt được tên cho 4 nhân vật rồi. Chỉ cần thêm vài chục bài Đường thi, độ một tá Tống từ, lại dặm ghém thêm đôi ba Nguyên khúc nữa, chắn chắn sẽ vẽ ra được một cái truyện kiếm hiệp hay ngôn tình “cẩu lương, cẩu huyết” ngay thôi! Viết văn là dễ, nào ta bắt đầu thôi… 😀

chữ

ầu năm nói chuyện “chữ”… Trước em có biết một số vị làm việc liên quan đến cổ ngữ! Chữ của các vị ấy đương nhiên nhiều rồi, em không bằng được! Nhưng làm bộ hỏi vài câu Đường thi thông dụng, các vị ấy đều lơ ngơ, ướm thử vài câu Tống từ phổ biến, các vị ấy đều kiểu lấp lửng! Nên em tạm rút ra nhận định: tuy chữ của các bác ấy nhiều, nhưng lại không hàm thụ được vẻ đẹp của thi ca cổ, hay ít nhất là tâm trí các bác không quan tâm những điều ấy! Em băn khoăn tự hỏi tâm các bác ấy đặt ở chỗ nào!? Sau thì phát hiện ra, phần lớn thời gian các bác ấy dùng “chữ” để vừa khoe mẽ, vừa đấu tố nhau, kích động ghen ghét cá nhân, phân biệt vùng miền, thường khi là lồng ghép trong đó những đấu đá chính trị, tôn giáo, một số trường hợp rõ ràng là “bồi bút” được các thế lực ngoài giật dây, dùng “chữ” kích động mâu thuẫn, đánh vào cái tôi “vừa ghen ghét, vừa tự ti vặt của người Việt”, đánh vào cái dân trí lè tè không tự luận ra được. Nên với những người ấy, tốt nhất là cứ… “kính nhi viễn chi”.

Vấn đề quay lại điểm khởi đầu, học để làm gì!? Lịch sử Trung Quốc lâu dài như vậy, văn minh Hoa Hạ rực rỡ như vậy, họ làm ra biết bao nhiêu chuyện kỳ vĩ, từ văn hoá, thơ ca cho đến các công trình quốc kế, dân sinh, đào Vận hà, xây Trường thành, và biết bao nhiêu thành tựu khoa học, kỹ thuật, xã hội to lớn khác! Em chỉ cần nhìn vào một thoáng là em biết, họ học chữ để đấu đá và kèn cựa nhau, chứ trong tâm không có cái mộng học được cái đẹp, cái hay của thiên hạ! Nói nghe có vẻ to lớn, nhưng học chưa chắc đã làm được như người ta, trở thành sĩ phu kẻ sĩ, kinh bang tế thế, chuyện đời đâu có dễ thế! Nhưng ít nhất và đầu tiên, học có thể thay đổi tính cách, tâm hồn con người! Bản thân còn không thay đổi được, làm sao thay đổi ngoại giới!? Muốn xem công phu của một người tới đâu, đầu tiên hãy xem cách anh ta đối xử, nhìn nhận, đặt ra yêu cầu đối với… chính bản thân mình! Em lạy các bác, mở mắt ra xem người ta sống như thế nào, đừng bám vào mấy cái gốc tre làng mãi như thế nữa! 🙁

hạnh hoa thôn

êm qua ngủ, nằm mơ thấy câu: Tá vấn tửu gia hà xứ hữu? Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn – 借問酒家何處有?牧童遙指杏花村。 – Hỏi thăm quán rượu nơi đâu? Mục đồng chỉ hướng thôn đầu Hạnh Hoa! (Thanh minh – Đỗ Mục). Sáng dậy lên net tìm tư liệu thẩm tra lại, hoá ra, Trung Quốc có cả vài chục cái “Hạnh hoa thôn” khác nhau, nhưng không thể khẳng định “Hạnh hoa thôn” mà Đỗ Mục nhắc tới chính xác là chỗ nào! Nhưng chỉ cần vin vào một câu thơ như thế mà ngày nay, Hạnh hoa thôn – Phần Dương – Sơn Tây đã trở thành kinh đô của ngành công nghiệp rượu TQ, danh tiếng thậm chí có phần còn vượt qua cả Mao Đài. Cũng tương tự như bài Đào Nguyên hành – Vương Duy vậy: Cư nhân cộng trú Vũ Lăng nguyên, Hoàn tùng vật ngoại khởi điền viên – 居人共住武陵源,還從物外起田園。。。

Không ai có thể khẳng định chắc chắn Đào nguyên – Vũ Lăng nguyên mà Vương Duy nói đến là ở đâu, là địa danh có thật hay chỉ là nơi chốn tưởng tượng! Nhưng lại vin vào câu đó thơ nên ngày nay, Trương Gia giới – Vũ Lăng nguyên có được cái tên rất đẹp! Rất lâu về trước, mới nghe đến khu du lịch nổi tiếng này là tôi đã luận ra được tên được lấy từ đâu ra! Nên cái quan trọng của văn chương, văn hoá viết nó là như thế, lịch sử, cư dân biến đổi, thành quách, thiên nhiên đều có thể hư hoại, nhưng chữ nghĩa thì còn đó! Và đôi khi những thứ tưởng tượng, hư cấu lại trở ngược lại thành hiện thực! Nên bảo Trung Quốc nó bẻ một vài chữ cũng ra tiền, quả không sai, văn hoá nó đẻ ra tiền, điều ngược lại chưa chắc đã đúng! Chỉ có thiểu năng mới nghĩ rằng có thể cứ đầu tư tiền để đẻ ra văn hoá, làm điều ngược ngạo, bất khả!

thuyền sắp đắm

rí nhớ, ký ức của “người già” ấy mà, đôi khi không thể nào lý giải cho tỏ tường được. Đây là một truyện rất hấp dẫn, khi còn nhỏ xíu mê truyện này lắm! Nhưng lớn lên rồi thì chẳng còn nhớ được mấy, thậm chí còn không nhớ tác giả là ai! Mấy lần cố ý lần mò các hàng sách cũ tìm lại, nhưng chả có cách nào tìm được!

Mà trên internet thì những truyện như thế này không có đâu, thật đúng là mò kim đáy bể! Ấy thế mà nay tìm được, chẳng phải người hoài cổ gì, đôi khi còn cố tình quên quá khứ, nhưng có nhiều cái đọc rồi không quên! Và cái tên Bùi Đức Ái thực ra là một bút danh khác của nhà văn Anh Đức, tác giả tiểu thuyết Hòn Đất! ❤️

believe

eter-the-great, khi hãy còn rất trẻ, có lần tham gia một nghi lễ triều đình và… quên lời thoại, những lời có tính công thức, khuôn mẫu một đức vua phải nói, mà thời đó thì không có máy nhắc chữ! Thế là ông ta cứ đứng đó ấp a ấp úng: Ta, ta sợ rằng… Vị tổng giám mục đứng bên cạnh liền nhắc rằng:

Thưa, ngài không sợ điều gì cả, ngài tin tưởng… (Sir, you don’t fear anything, you believe…) Thế là Peter nhớ ra và nói hết câu mang tính nghi lễ đó! Trích đoạn tiểu thuyết Pie đệ nhất – Aleksei Tolstoi! 🙂 Hơn 30 năm sau, vẫn nhớ từng sự kiện, từng diễn biến trong cuốn tiểu thuyết rất hay từng đọc lúc nhỏ!

hồng lâu mộng

Đầy trang những chuyện hoang đường,
Tràn trề nước mắt bao nhường chua cay.
Đừng cho tác giả là ngây,
Ai hay ý vị chứa đầy bên trong!

hương trình âm nhạc cuối tuần… Khi xưa cực kỳ thích nghe bài này, Hồng Lâu Mộng phiến đầu khúc, nhưng không cách nào biết chính xác trong đó xài những nhạc cụ gì, âm thanh phức tạp, nghe ra được: đàn nhị, sáo, tì bà, cổ tranh, cổ cầm, và dương cầm, có thể còn những nhạc cụ khác (dương cầm tiếng Trung là cây đàn tam thập lục, còn piano tiếng Trung gọi là “cương cầm”). Post ở đây để lâu lâu nghe lại…

thời xa vắng

âu lắm rồi mới cầm lại cuốn sách này, tác giả của nó vừa mới ra đi hôm qua. Phải lật cẩn thận, vì sách đã rất cũ, cuốn này xuất bản năm 1986, giấy vừa đen vừa xấu, các trang sách như muốn rời vụn ra từng mảnh. Nói chung, sức đọc của em khá là lớn, và cũng từng thích đọc rất nhiều thể loại khác nhau, nhưng giờ có tuổi chút rồi, ai mà nói đến chuyện “đọc sách” là em cứ “chửi phủ đầu” cái đã 😃 mọi người thông cảm…

Nói cho ngay, sách vở không phải là thứ gì “tốt đẹp”!!! Em đã từng chứng kiến vô số người “tẩu hoả nhập ma” vì sách, huyên thuyên một mớ từ ngữ tào lao, vô nghĩa, sáo rỗng mà lại cứ cho rằng mình hay. Ở một khía cạnh khác, tất cả những thứ thuộc về thức ăn tinh thần, âm nhạc, sách vở, etc… là chuyện rất cá nhân, người ta lẳng lặng đọc, lẳng lặng nghe, éo có cái học thức nào oang oang như “bolero” và ầm ĩ như mạng xã hội!

bạch mã – 3

Sông thu lồng bóng nhạn bay,

Lên non cùng bạn, rượu cay một bầu.

Chuyện đời cười có dể đâu,

Hái hoa cúc dại cài đầu về thôi…

huyện hơn 20 năm trước, nhóm 6 thanh niên trẻ tuổi leo lên ngọn núi này, gần 2 ngày mới leo tới đỉnh. Ngày giáp Tết, thời tiết xuống 8 độ, gió bão vần vũ, cái lạnh của nơi mưa nhiều nhất VN thật khủng khiếp, vũ lượng hàng năm của Bạch Mã lên đến 10,000mm (vâng, chính là 10 mét nước chồng lên theo chiều cao ấy). Ai còn nhớ bài học địa lý cấp 2: nơi mưa nhiều nhất thế giới khoảng 8 ~ 9000mm, thông tin cũ lắm rồi nhé.

Trở lại với chuyện leo núi, 6 người là 6 thái độ khác nhau, 6 kiểu tính cách bộc lộ rõ trong 1 hành trình cực nhọc, người nhất định phải lên đỉnh cho bằng được, người nhất quyết phải quay về, kẻ về cũng được, nhưng đi hay hơn, người đi cũng được nhưng về hay hơn… 😃 江涵秋影雁初飛,與客攜壺上翠微。Giang hàm thu ảnh nhạn sơ phi, Dữ khách huề hồ thướng thuý vi, Trần thế nan phùng khai khẩu tiếu, Cúc hoa tu tháp mãn đầu quy…

timur và đồng đội

imur và đồng đội, tác phẩm ưa thích lúc còn là một cậu bé… tiểu thuyết khởi thảo năm 1939 và phát hành năm 1940, thật trùng hợp là ngay trước thềm chiến tranh thế giới lần 2. Một “hội kín” của những cậu bé 13, 14 tuổi, chuyên làm những việc tốt trong vùng, giúp đỡ người già, người khốn khó, đấu tranh chống lại các phần tử lưu manh. Dần dà hình thành nên một “tổ chức”, tổng hành dinh (Stavka – nghĩa đen là “cái lều”, “hành” (di động) dinh”, sở chỉ huy trong các chiến dịch quân sự) đặt trên một cái gác xép, có hệ thống quan sát và đường dây điện thoại tự thiết kế riêng để huy động, điều phối lực lượng lúc cần!

Truyện phát hành dưới dạng kịch nói qua sóng radio, tinh thần của nó đã góp phần huy động hàng triệu thiếu niên nhỏ tuổi tham gia các công việc có ích trong vùng, để người lớn nhập ngũ chống Phát – xít. Có thể một số người cho rằng văn học Xô – viết có phần giáo điều, những tôi lại thấy khác. Qua cuốn sách này để hiểu thêm về văn hoá và tâm hồn Nga, hiểu tại sao một đất nước chỉ có 85 đàn ông trên 100 phụ nữ, vì đàn ông họ làm quá nhiều việc khó khăn, điên rồ, liều lĩnh! Không như ở cái xứ Vịt kia, dư dôi ra đến gần 115 đàn ông trên 100 phụ nữ, suốt ngày chỉ có ăn nhậu, bolero và làm mấy cái trò lưu manh lặt vặt! 😢