từ nguyên: dạ

ừ nguyên – dạ – – âm Hán Việt: tra. Trước, đọc thấy một số ngôn luận kiểu “kẻ Nam người Bắc” cho rằng kiểu miền Nam “dạ” mới là lịch sự các kiểu! Không buồn tranh luận, chỉ muốn nói chút về từ nguyên, xem phim cổ trang, lịch sử thì TQ thấy rất nhiều, dùng trong trường hợp biểu thị sự xác nhận, khẳng định khi nhận lệnh từ thượng cấp, giống từ “rõ” hiện đang dùng trong quân đội vậy!

Ngôn ngữ, nó là 1 quá trình biến động rất dài, và đôi khi mang tính võ đoán! Ví dụ như trong tiếng Trung hiện đại, chữ tương đương với tiếng Việt “toán học – mathematics” là: 数学 – âm HV: số học, và chữ tương đương với “số học – Arithmetic” thì lại là: 算学 – âm HV: toán học. Tại sao lại có sự “tréo cẳng ngỗng” này?! Có phải là người Trung Quốc hiện đại “ngu” nên mới dùng từ như thế!? 😀

từ nguyên: ảo não

ừ nguyên: ảo não – 懊惱 – âm Hán Việt: áo não, chỉ tâm trạng buồn bực, rầu rĩ. Cuồn cuộn – 混混 – âm HV: cổn cổn, một âm khác là “cút” (không rõ du nhập vào Việt Nam tại thời điểm nào, có nghĩa là: lặn, biến đi). Lao đao, lảo đảo – 潦倒 – âm HV: lạo đảo. Rất nhiều lúc chợt nhận ra, hoá ra chữ Hán, tiếng Hoa thâm nhập vào ngôn ngữ Việt sâu đến như vậy, rất nhiều từ nghĩ chắc chắn là “thuần Việt” nhưng hoá ra là gốc Hán tự.

Chỉ đọc một bài Đăng cao – Đỗ Phủ là đã thấy mấy chữ rồi: Bất tận trường giang cổn cổn lai… Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi. Cảm giác tiếng Việt như cái thùng rỗng, chỉ được cái kêu to thôi, chứ nội dung trống hoác, cái gì cũng phải đi vay, mượn! Về mặt ngôn ngữ học, có nhiều câu hỏi chưa có lời giải đáp, những từ đó thâm nhập lúc nào, bằng những cách thức nào? Vì thường văn viết không thể có ảnh hưởng đến văn ngôn nhiều đến như thế!

từ nguyên: tự do

ừ nguyên: Tự do – 自由 – Freedom, Liberty. Giải thích theo Hán ngữ thì tức là: “vì nguyên do tự thân”, “tự dàn xếp ổn thoả với các lý do nội tại”, “tự mình điều phối được tâm ý, suy nghĩ, hành động của bản thân”, hay nôm na nghĩa là “tự do mình mà ra”. Từ mang hàm nghĩa con người có được “tự do” khi có thể sống ổn thoả với chính bản thân mình, ngữ nghĩa hướng nội một kiểu rất “duy tâm” nhé! 🙂

Giải nghĩa như thế hình như chẳng có liên hệ gì với “freedom – liberty” của phương Tây, những khái niệm mang hàm ý: con người thoát ra khỏi những ràng buộc của môi trường, của xã hội xung quanh. Một đằng chỉ liên hệ ngoại giới, ngoại thân, một đằng chỉ nội tình nội tại bên trong, nhưng bị cưỡng ép về cùng một nghĩa. Vậy lâu nay, các anh dùng từ “tự do” nhưng có thật sự hiểu nghĩa nó không?

từ nguyên: giả dụ, rút cuộc & sốt

ừ nguyên: giả dụ (假如, âm Hán Việt: giả như) & rút cuộc (如果, âm Hán Việt: như quả). Để ý hiện tượng 1 chữ “như” (âm Hán Việt) nhưng có đến hai cách đọc (dụ, rút), chứng tỏ từ ngữ du nhập vào VN tại nhiều thời điểm, thậm chí là từ nhiều nguồn (địa phương) khác nhau.

Sốt: (âm Hán Việt: thiêu) từ này nhiều người cho rằng bắt nguồn từ tiếng Pháp “chaud” có nghĩ là nóng, nhưng tôi lại cho rằng 1 từ rất cơ bản như thế không phải mượn từ Pháp ngữ muộn đến vậy! Dĩ nhiên, lần nữa cũng chỉ “propose” như thế, không dài dòng giải thích!

từ nguyên: chủ tịch, chủ xị

hủ tịch, chủ xị (主席), “chủ tịch” là đọc theo âm HV cũ, đọc theo âm Bắc Kinh hiện đại thì sẽ là “chủ xị”, nên “chủ tịch” hay “chủ xị” thì chỉ là một từ, một nghĩa mà thôi. Nhưng du nhập vào VN tại những thời điểm khác nhau…

Nên ý nghĩa ngữ dụng học (pragmatics) hơi khác nhau! “Tịch” là cái chiếu (Nguyễn Du: tịch mạt nhất nhân phát bán hoa – 席末一人髮半華), ngày xưa ở ngoài hội đồng làng, ai ngồi đầu chiếu tức là nhân vật quan trọng nhất vậy!

từ nguyên: cùn & quýt

ùn (, âm Hán Việt: độn): nghĩa là không sắc bén, cùn (dao), nghĩa thứ 2 là chậm chạp, ngu dốt (đần độn, trì độn). Quýt (, âm Hán Việt: quất), trong tiếng Việt, quýt và quất là 2 thứ quả khác nhau, trong tiếng Hoa chỉ có một chữ! Như vậy có hiện tượng một chữ nhưng có 2 cách đọc (âm cổ và âm mới), du nhập vào tiếng Việt tại những thời điểm khác nhau, và dùng để chỉ 2 thứ khác nhau, nhưng trong tiếng Hoa nguyên gốc chỉ có một chữ!

từ nguyên: giá cả

ừ nguyên: giá cả (价格, âm Hán Việt: giá cách). Chữ “cách” (cùng một chữ cách như trong: nhân cách, phẩm cách, tư cách, etc…) nguyên nghĩa là mức, vạch dùng trong các thiết bị đo lường, nên “giá cả” sẽ hiểu như là thang giá, mức giá, bảng giá… Lần nữa, chỉ ghi chú lại ở đây, không giải thích nhiều 🙂 nhưng đặt câu hỏi là: tại sao nhân *cách*, phẩm *cách*, nhưng lại là giá *cả* !?

từ nguyên: hoảng hồn

ừ nguyên: hoảng hồn (惶恐, âm Hán Việt: hoàng khủng). Đôi khi âm Quan Thoại qua các thời kỳ và âm Hán Việt rất khác nhau, tiếng Hoa du nhập vào VN tại rất nhiều giai đoạn khác nhau, suốt từ Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, etc… lúc nào cũng du nhập thêm từ mới! Nên việc truy về từ nguyên rất khó khăn, nhưng cũng chính vì thế nên không muốn bàn cãi cũng như giải thích rõ, chỉ note lại như thế..

từ nguyên: ba hoa

ừ nguyên: ba hoa (八卦, âm Hán Việt: bát quái). Từ điển tiếng Việt giải thích “ba hoa” bắt nguồn từ “bavard” trong tiếng Pháp, Anh có nghĩa là “lắm lời”. Tôi ngờ rằng cách giải thích này không đúng, thực sự bắt nguồn từ chữ “bát quái”, ngoài nghĩa “âm dương, bát quái” trong Văn ngôn, với Bạch thoại còn có nghĩa là người nói chuyện tào lao, buôn dưa lê! Đúng hay sai thì tôi không muốn giải thích, chỉ note ở đây!

nha đầu

ừ nguyên, nha đầu – 丫頭. Trẻ con TQ ngày xưa (không phân trai gái), tóc cột rẽ sang 2 bên như chữ nha () nên gọi là nha đầu, tức là đầu hình chữ Y. Trong ảnh: 2 tiên đồng của Trấn Nguyên đại tiên (phim Tây Du Ký, 1986), tên là: Thanh Phong (gió mát) và Minh Nguyệt (trăng thanh) đoạn này, Tề Thiên ăn trộm quả nhân sâm… 😀