vauban

Nhớ lại năm đó trên đường xuyên Việt, dừng xe ngồi uống cafe bên bờ hào phía Nam của Hạc thành (Thanh Hóa), tòa thành được xây năm 1804 thời Gia Long, kiến trúc kiểu Vauban hình lục giác. Tử tước Vauban (Sébastien Le Prestre) là một kiến trúc sư quân sự người Pháp sống ở thế kỷ 17, người đã thiết kế các công trình phòng thủ dạng hình ngôi sao (Bastion fort, star fort) đầy góc cạnh, nhiều răng cưa như thế là để không có một góc chết nào dọc theo tường thành. Bất kỳ vị trí nào dọc theo tường thành cũng có thể bị bắn bởi cung tên hay súng từ một vị trí khác!

Kiểu kiến trúc này tạo ra lợi thế rất lớn cho bên phòng thủ! Đã từng có một thời, Việt Nam đã từng rất mở cửa, học hỏi những tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới, từ đóng thuyền cho đến xây thành, đúc pháo, làm đường, etc… Thế rồi đùng một cái, không biết vì sao lại trở nên bế quan tỏa cảng, có lẽ là vì “Thố tử cẩu phanh, Điểu tận cung tàng兎死狗烹鸟尽弓藏“!!! Chiến thuyền kéo lên bờ, bỏ vào trong những nhà kho có mái che, năm nào cũng đem ra sơn son thếp vàng, càng sơn son thếp vàng càng không che giấu được các ván gỗ dần mục nát theo thời gian!

công nghệ quốc phòng

Thử nhìn lại 2 sự kiện: năm 1858 – 1859, liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng với 3000 quân, đội tàu 14 chiếc, soái hạm là chiếc Némésis tải trọng 2300 tấn, 50 pháo! Quân triều đình có khoảng 7 ngàn người, nhìn chung là đã phòng thủ hiệu quả, khiến cho liên quân Pháp – Tây Ban Nha chịu thiệt hại và phải rút lui. 15 năm sau, 1873, chỉ với 180 lính (!!!) do viên trung úy Francis Garnier chỉ huy cùng hai tàu pháo (tàu nhỏ, còn chưa được gọi là chiến hạm) tấn công thành Hà Nội, khoảng 7000 quân triều đình tan vỡ, tháo chạy! Có điều gì rất “không đúng” khi so sánh hai trận đánh cách nhau 15 năm này, dù cả hai trận, bên phía VN đều có cùng một người chỉ huy là Nguyễn Tri Phương! Điều gì khiến cho một bên chỉ có 180 lính lại dám tấn công một bên có đến 7 ngàn quân!?

Điều “không đúng” đó chính là… công nghệ! Năm 1858, tuy tàu Pháp to, pháo lớn, nhưng đa số vẫn là loại bắn đạn gang tròn, nạp từ phía trước, công nghệ cơ bản gần giống như thứ nhà Nguyễn sở hữu! Tại thời điểm 1873, đó đã là các loại hải pháo cỡ nòng lớn, nạp đạn đằng sau, dùng đạn trái phá (đạn có nhồi thuốc nổ)! Sau vài loạt đạn đầu tiên, với sức công phá khủng khiếp của nó thì bên phòng thủ đã kinh hoàng bỏ chạy hết cả! Đạn trái phá được người Nga dùng lần đầu tiên trong Hải chiến Sinop, 1853, nhưng phải mất một thời gian để công nghệ này trở nên phổ biến! Nửa cuối TK 19 chứng kiến sự thay đổi đến chóng mặt về công nghệ quốc phòng: tàu buồm vỏ gỗ (ship of the line), rồi tàu buồm vỏ gỗ có dùng phụ thêm động cơ hơi nước (paddle steamer, screw steamer)…

Rồi tàu buồm vỏ gỗ bọc sắt dùng động cơ hơi nước và đạn trái phá (ironclad), rồi tiến dần lên tàu vỏ sắt / thép dùng động cơ steam – turbine, không xài buồm nữa (Dreadnought), kèm theo đó là công nghệ súng đạn mới, tất cả thay đổi nhanh đến chóng mặt, một con tàu mới đóng ra chưa đến 10 năm đã thành lạc hậu. Nên nhiều khi chúng ta học lịch sử theo kiểu chỉ lặp lại một số sự kiện chứ không thật sự hiểu được các yếu tố kỹ thuật, công nghệ nền tảng bên dưới! Cũng trong thời gian đó, nhà Thanh ở Trung Quốc quả thực đã có nỗ lực cải cách, họ đã tự sản xuất được súng trường hiện đại và một vài loại pháo nhỏ, nhưng rút cuộc vẫn không thể cứu vãn được thời cuộc, vì cái sự thua sút về kỹ thuật công nghệ này quá lớn, phải mất nhiều thế hệ để vượt qua.

Winchester 1866

“Cơm vua áo chúa hưởng bấy lâu, Đến khi có giặc phải thuê Tàu…” Câu thơ của Ông Ích Khiêm đó là nói về đội quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, “đánh thuê” cho nhà Nguyễn để chống lại thực dân Pháp! Mà cái yếu tố duy nhất khiến quân Cờ đen có thể đối chọi lại với người Pháp chính là… khẩu súng trường Winchester. Được xem là khẩu súng của miền viễn Tây, thường thấy trong các phim cao bồi Mỹ, có thể nạp đến 7 viên đạn trong một ống chạy song song dưới nòng súng, loại súng mà sự xuất hiện của nó khiến người ta phải thốt lên: nó bắn từ Thứ hai cho đến Chủ nhật!!!

Là ám chỉ cái khả năng nạp 7 viên đạn của nó, vô cùng tiên tiến nếu so với các loại súng hỏa mai mất cả phút vẫn chưa nhồi xong một viên đạn, chưa nạp xong đạn thì bên kia đã bắn 7 phát rồi! Nhưng vẫn chưa rõ phiên bản Winchester mà quân Cờ đen xài là loại đạn vỏ giấy, hay đã là loại đạn vỏ đồng hiện đại! Nhà Nguyễn trả lương cho quân Cờ đen, để họ cùng phối hợp chống Pháp! Nhưng hầu như chỉ có quân Cờ đen đánh thật mà thôi, lính VN… ở phía sau hò reo trợ chiến là chính, đơn giản là không thể tham chiến khi chỉ có đao kiếm và một ít súng hỏa mai cổ lỗ sĩ được.

Sự nhanh nhạy cộng với khả năng giao thương bằng thuyền buồm rộng khắp khiến cho người TQ mua được nhiều vũ khí hiện đại! Tuy không thể có thuyền to, pháo lớn như người Pháp, nhưng so với súng trường Chassepot của Pháp thì Winchester vẫn cùng một thế hệ, vẫn “bám thắt lưng địch mà đánh”, vẫn ở thế có thể cầm cự được! Nên phải hiểu các yếu tố kỹ thuật đóng một vai trò sống còn, khi thành Ninh Bình do 1700 quân Việt giữ lại… đầu hàng một nhóm lính Pháp chỉ có… 7 người, chiếm cả đồng bằng Bắc bộ, người Pháp dùng chưa đến 300 quân!

les miserables

Cafe sáng, bàn kế bên có một ku đang hăng say nói về những “Những người khốn khổ” – Victor Hugo, mà chuyện này nghe nó giống như “thời trang” vậy, tôi đã nghe lặp đi lặp lại vài ba lần, ở 2, 3 nơi khác nhau, chỉ trong mấy ngày gần đây thôi, nghe là biết “bài” chúng nó đang “diễn”, thế nên ngứa miệng hỏi một câu: “Anh có vẻ mê tác phẩm Những người khốn khổ nhỉ, vậy con gái nhân vật Jean Valjean tên là gì ấy nhỉ?!” Thế là ú ớ, không trả lời được, mình dự là nếu anh ta trả lời được sẽ hỏi tiếp: “Thế người yêu của cô con gái của ông Jean Valjean tên gì ấy nhỉ?”, nếu mà vẫn trả lời được sẽ hỏi tiếp: “Thế người con gái yêu đơn phương anh chàng người yêu của cô con gái của ông Jean Valjean tên là gì?” Giờ sao toàn người cứ muốn “kể chuyện”, nhưng lại không hề chịu đầu tư công sức đọc truyện, cứ nghĩ đọc được vài “câu kinh” là trở thành “Phật” được chăng!? Phật thì chắc chắn là không thành được rồi, còn em thì chỉ muốn làm rõ là đến cả vài “câu kinh” cũng chưa đọc cho nó đàng hoàng! “Ngứa miệng” hỏi ngang thế thôi, đúng ra nên để cho mọi thứ nhân quả vận hành theo lẽ tự nhiên!

Đạo lý nếu chỉ nói đằng mồm, chỉ “đĩ miệng” mà có được thì chúng ta đã ở “nước thiên đàng” lâu rồi! Về cô gái mang cái tên Eponine, người đơn phương yêu chàng thanh niên quý tộc nghèo Marius, chồng tương lai của Cosette, con gái ông Jean Valjean, đây có lẽ là nhân vật được xây dựng cá tính hấp dẫn nhất trong toàn bộ bộ tiểu thuyết đồ sộ 3 ngàn trang, 600 ngàn chữ này, không phải là nhân vật chính Jean Valjean, không phải viên thanh tra Javert, cũng không phải là ông giám mục Myriel! Mà là Eponine, con gái nhà Thenardiers, một gia đình tội phạm bất hảo, nhưng vì tình yêu với Marius mà cứu rỗi được tâm hồn! Cách mạng Pháp bùng nổ, chết trên chiến lũy dựng lên trên đường phố Paris ngày hôm đó, kỳ lạ thay là hai đứa con rất sáng giá của cái gia đình vô cùng hắc ám là Thenardiers. Cậu bé Gavroche chết khi đang gom nhặt đạn hỗ trợ các chiến sĩ cách mạng, còn người chị gái Eponine chết vì đỡ đạn thay cho Marius, hai tay chụp lấy nòng súng, đạn xuyên qua cả hai bàn tay và đi vào ngực! – Et puis, tenez, monsieur Marius, je crois que j’étais un peu amoureuse de vous!

olympic 2024

Chúng nó đang tìm cách biến sự lố lăng, dị hợm, bệnh hoạn thành một kiểu “bình thường mới”! Đến cả những người phương Tây phóng khoáng, tự do nhất cũng cảm thấy cái lễ khai mạc này tởm lợm, có nhiều vấn đề! Riêng người VN chúng tôi thì cảm thấy rằng: những người đàn ông Pháp đích thực cuối cùng là đã chết hết ở Điện Biên Phủ rồi!

Mà chưa hẳn là đàn ông Pháp đâu, hơn phân nửa trong các binh đoàn Lê-dương là lính Đức! Đây là những lính Đức từ thời Chiến tranh thế giới 2 bị kết tội, vì muốn được giảm án nên tình nguyện đi lính cho Pháp, một kiểu đưa phạm nhân ra chiến trường, ‘lấy máu để rửa cho sạch sự xấu hổ’, một truyền thống xa xưa chẳng của riêng nước nào!

les gitans – 2

D’où viens-tu, gitan? Je viens de Bohème. D’où viens-tu, gitan? Je viens d’Italie. Et toi, beau gitan? De l’Andalousie. Et toi, vieux gitan, d’où viens-tu? Je viens d’un pays qui n’existe plus. Les chevaux rassemblés le long de la barrière, le flanc gris de poussière, le naseau écumant. Les gitans sont assis près de la flamme claire, qui jette à la clairière leurs ombres de géants. Et dans la nuit, monte un refrain bizarre; Et dans la nuit, bat le coeur des guitares. C’est le chant des errants qui n’ont pas de frontière, c’est l’ardente prière, de la nuit des gitans.

Où vas-tu gitan? Je vais en Bohème. Où vas-tu gitan? Revoir l’Italie. Et toi beau gitan? En Andalousie. Et toi vieux gitan mon ami? Je suis bien trop vieux moi je reste ici. Avant de repartir pour un nouveau voyage vers d’autres paysages sur des chemins mouvants. Laisse encore un instant vagabonder ton rêve, avant que la nuit brève le réduise à néant. Chante gitan ton pays de Cocagne, Chante gitan ton château en Espagne. C’est le chant des errants qui n’ont pas de frontière, c’est l’ardente prière de la nuit des gitans, de la nuit des gitans!

les feuilles mortes

Lìa cành lá úa,
Tả tơi nhảy múa.
Rụng ngập đầy sân,
Gợi sầu thi nhân…

Chương trình âm nhạc cuối tuần… Thời tiết chớm vào thu, đã lâu không có được tâm trạng ấy, không đạt được đến tầng cảm xúc như vậy, phần lớn là vì ngập trong những nỗi bận tâm, lo âu thường nhật! Đôi khi là nhớ lại trong lời Việt qua giọng ca Thái Thanh.

Đôi khi tự hát bằng tiếng Pháp, nguyên bản Les Feuilles Mortes – Những chiếc lá úa: …Et la mer efface sur le sable, les pas des amants désunis… Muốn tìm lại một chút gì đó giống như La Bohème (Charles Aznavour) nhưng biết chắc là không thể nữa rồi!

Quatorze Juillet

Hôm qua Quatorze Juillet, tức là ngày Quốc khánh Pháp 14/7… Như thường lệ dẫn đầu đoàn diễu binh là các đại diện của Binh đoàn Lê-dương, mang tạp dề da và vác rìu, trang phục gợi nhớ đến gốc gác thợ mộc xa xưa, thực ra nhìn giống đao phủ hơn! Có thể mọi người chưa biết, nhưng chính thức thì chỉ có 20 ngàn người bị kết án “phản cách mạng” và bị chặt đầu trong Cách mạng Pháp!

Còn con số “đơn thuần là tử vong” trong bạo loạn, chiến tranh thì lên đến hàng triệu! Trở lại với Binh đoàn Lê-dương, tất cả đều để râu quai nón, và đây là đơn vị duy nhất có được cái đặc quyền để râu trong quân đội Pháp! Tất cả giống như mô tả trong: Tháng bảy nóng bụi mờ và nắng ngập… vậy! Có một thời châu Âu cũng mạnh mẽ và dã man như ku Nga bây giờ, nhưng thời đó đã qua rồi… ;)

Au bord des pleurs

Tes yeux Lara, revoient toujours ce train, ce dernier train, partant vers le chagrin. Le ciel était couvert de neige, au loin déjà l’horizon brûlait. Le ciel était couvert de neige, au loin déjà le canon tonnait. Cette chanson, que chantaient les soldats. C’était si bon, serré entre tes bras. Au bord des pleurs, tu souriais Lara, oubliant l’heure, la guerre, la peur, le froid. Un jour Lara, quand tournera le vent…

Le temps du muguet

Il est revenu le temps du muguet, comme un vieil ami retrouvé. Il est revenu flâner le long des quais, jusqu’au banc où je t’attendais. Et j’ai vu refleurir, l’éclat de ton sourire, aujourd’hui plus beau que jamais.

Le temps du muguet ne dure jamais, plus longtemps que le mois de mai, quand tous ses bouquets déjà seront fanés. Pour nous deux rien n’aura changé, aussi belle qu’avant, notre chanson d’amour, chantera comme au premier jour.

Il s’en est allé le temps du muguet, comme un vieil ami fatigué, pour toute une année pour se faire oublier. En partant il nous a laissé, un peu de son printemps, un peu de ses vingt ans, pour s’aimer pour s’aimer longtemps.

vive le vent

Vive le vent, vive le vent, vive le vent d’hiver, Qui s’en va sifflant, soufflant, Dans les grands sapins verts, oh! Vive le temps, vive le temps, Vive le temps d’hiver. Boules de neige et jour de l’an, Et bonne année grand-mère…

semper idem

Nằm đây, tưởng chuyện ngàn sau,
Lung linh nến cháy hai đầu áo quan…

Một tựa đề quen quen thoáng hiện trên mặt báo, nghĩ mãi mà không nhớ ra, đành phải nhờ đến Mr. Google… Chỉ một phút, cả một trời ký ức hiện về, một tựa sách phiêu lưu viễn tưởng của Jules Verne từng thích thú thời còn bé tí: L’épave du Cynthia, tựa tiếng Anh: The waif of the Cynthia, tựa tiếng Việt: Chú bé thoát nạn đắm tàu. Thế là bỏ ra một nửa buổi tối ngồi đọc lại, từng câu chữ, từng đoạn văn lũ lượt kéo về trong trí nhớ, gần 30 năm mà tưởng đâu như mới ngày hôm qua.

Không khó cho một trí óc trưởng thành để phát hiện ra những chi tiết không logic, thiếu hợp lý và mạch lạc trong bố cục toàn bộ câu chuyện, và sau một hồi đọc lại, nhận ra truyện không hấp dẫn như những tác phẩm khác như: Đi tìm thuyền trưởng Grant, Bí mật đảo Lincoln, Hai vạn dặm dưới đáy biển, Từ trái đất đến mặt trăng, Cuộc du hành vào lòng đất etc… của cùng một tác giả. Và từ lúc nhỏ, dù rất thích các tác phẩm của Jules Verne nhưng không thực sự là đến độ mê mệt.

Truyện tôi thích nhất của Jules Vernes có lẽ là Bí mật đảo Lincoln. Từ góc độ khoa học, truyện rất hay vì nó dạy cho học sinh cấp 2, 3 những vấn đề thực tế: làm sao để chế tạo xà phòng từ chất béo (như dầu dừa), làm sao kiểm soát hàm lượng carbon khi luyện quặng sắt thành thép, những bài toán lượng giác dùng trong đo đạc, định vị, etc… (tất cả những điều nêu trên đều có trong chương trình PTTH VN), nhưng dưới các hình thức sống động thay vì chỉ lảm nhảm những kiến thức chết như trong SGK.

Những câu chuyện của ông là sự xen lẫn của hai yếu tố: phiêu lưu và viễn tưởng. Nhưng thực sự tôi không thích viễn tưởng cho lắm, một con tàu phải có những cột buồm có thể trèo lên được, biển và mồ hôi phải có vị mặn, chèo thuyền trên những quãng đường dài thực sự là rất vất vả, gian nan… Chỉ thích những phiêu lưu có thật, cảm nhận hơi thở chân thật của cuộc sống, của sóng gió tự nhiên… Nó phải có gì giống như Moby Dick, một sự lãng mạn khắc kỷ mang màu sắc Puritan – Thanh giáo.

Semper Idem: câu châm ngôn (motto) tiếng Latin của nhân vật chính Erik, của gia đình Durrieu trong truyện, với nghĩa: trước sau như một.

Vẫn là một sự đáng tiếc thường thấy khi các thuật ngữ hằng hải, địa lý trong nguyên bản được dịch không chính xác hay không đầy đủ. Hơn nữa, bản dịch tiếng Việt (hầu như chắc chắn là được dịch lần 2 qua một bản tiếng Nga) đã lược bỏ nhiều tình tiết, làm giảm tính hấp dẫn của nguyên tác.

Lẽ dễ hiểu vì lối hành văn với rất nhiều chi tiết, nhiều cách diễn đạt tinh tế, nhiều logic phức tạp đan xen vào nhau thường nằm ngoài khả năng tiêu hoá cũng như khẩu vị của đa số độc giả Việt, những người thường chỉ muốn một cốt truyện ngắn gọn đơn giản có thể lĩnh hội chóng vánh!

holidays

Une autre vieille chanson Française de temps en temps, j’aime particulièrement des percusions, et aussi de guitar, dans un tempo très modéré… La mer comme une preface, avant le desert, que la mer est basse, holidays! Tant de ciel et tant de nuages, tu ne sais pas a ton age, toi que la vie lasse, que la mort est basse, holidays!

paroles

Des mots faciles, des mots fragiles, c’était trop beau, bien trop beau… Des mots magiques, des mots tactiques, qui sonnent faux, oui tellement faux… Merci, pas pour moi, mais tu peux bien les offrir à une autre… Paroles et encore des paroles, que tu sèmes au vent!

– C’est étrange, je n’sais pas ce qui m’arrive ce soir. Je te regarde comme pour la première fois.
Encore des mots toujours des mots, les mêmes mots.
– Je n’sais plus comment te dire.
Rien que des mots.
– Mais tu es cette belle histoire d’amour, que je ne cesserai jamais de lire.
Des mots faciles, des mots fragiles, c’était trop beau.
– Tu es d’hier et de demain.
Bien trop beau.
– De toujours ma seule vérité.
Mais c’est fini le temps des rêves. Les souvenirs se fanent aussi quand on les oublie.
– Tu es comme le vent qui fait chanter les violons et emporte au loin le parfum des roses.
Caramels, bonbons et chocolats.
– Par moments, je ne te comprends pas.
Merci, pas pour moi, mais tu peux bien les offrir à une autre, qui aime le vent et le parfum des roses. Moi, les mots tendres enrobés de douceur se posent sur ma bouche mais jamais sur mon cœur.
– Une parole encore.
Paroles, paroles, paroles,
– Ecoute-moi.
Paroles, paroles, paroles,
– Je t’en prie.
Paroles, paroles, paroles,
– Je te jure.
Paroles, paroles, paroles, paroles, paroles et encore des paroles que tu sèmes au vent.
– Voilà mon destin te parler, te parler comme la première fois.
Encore des mots toujours des mots, les mêmes mots.
– Comme j’aimerais que tu me comprennes.
Rien que des mots.
– Que tu m’écoutes au moins une fois.
Des mots magiques, des mots tactiques, qui sonnent faux.
– Tu es mon rêve défendu.
Oui tellement faux.
– Mon seul tourment et mon unique espérance.
Rien ne t’arrête quand tu commences, si tu savais comme j’ai envie d’un peu de silence.
– Tu es pour moi, la seule musique qui fait danser les étoiles sur les dunes.
Caramels, bonbons et chocolats.
– Si tu n’existais pas déjà, je t’inventerais.
Merci pas pour moi, mais tu peux bien les offrir à une autre, qui aime les étoiles sur les dunes. Moi, les mots tendres enrobés de douceur se posent sur ma bouche mais jamais sur mon cœur.
– Encore un mot, juste une parole.
Paroles, paroles, paroles,
– Ecoute-moi.
Paroles, paroles, paroles,
– Je t’en prie.
Paroles, paroles, paroles,
– Je te jure.
Paroles, paroles, paroles, paroles, paroles et encore des paroles que tu sèmes au vent.
– Que tu es belle.
Paroles, paroles et paroles,
– Que tu es belle.
Paroles, paroles et paroles,
– Que tu es belle.
Paroles, paroles et paroles,
– Que tu es belle.
Paroles, paroles, paroles, paroles, paroles et encore des paroles, que tu sèmes au vent.

bambino

Il ya toujours un sourire de plaisance sur mon visage en écoutant cette vieille (1956) chanson de Dalida. Et c’est deja très longtemps que nous étions comme ça, un(e) petit(e) Bambino / Bambina, naïvement (et profondément) tombé amoureuse… Regardez la vidéo pour voir la vraiment vivante, aimable Dalida… Je peux seulement dire: Ta musique est plus jolie que tout le ciel de l’Italie…

il pleut sur… sài gòn

Mais lui il s’en fout bien, mais lui il dort tranquille
Il n’a besoin de rien, il a trouvé son île
Une île de soleil et de vagues et de ciel…

Une vieille mais très très belle chanson sur les marins qui ne reviendras plus jamais, et sur les filles, les femmes, qui seraient toujours l’attendre: Les marins d’Amsterdam, s’mouchent plus dans les étoiles. La Marie qu’a des larmes a noyé un canal… Seules Titine et Madeleine croient qu’il est encore là, elles vont souvent l’attendre au tram 33… Peut-être un peu trop tôt, mais lui il est content, il n’a pas entendu que des milliers de voix, lui chantait “Jacky ne nous quitte pas!”…

Chez ces gens-là (Dalida, Jacques Brel etc…), on n’est jamais parti!

prepositive vs. postpositive

Đến bây giờ anh đã là cánh trắng chim bay xa chân trời
Đến bây giờ em đã là bóng dáng cô liêu trong ngậm ngùi…

One miscellaneous linguistic notice, except for things borrowed from Chinese, which is largely unpopular to most people in daily, pragmatic uses, the Vietnamese language, in essence, is strictly postpositive, that is an adjective must be placed after a noun / pronoun that it modifies. So the following examples which are prepositive, are extremely rare, to the point of… bizzare, but they’re also very interesting, note the underlined, bold phrases. Add more examples to the list if you would find one!

Chuyện tình yêu - Ngọc Lan (nguyên tác: Histoire d'un amour) 

Đến bây giờ anh đã là cánh trắng chim bay xa chân trời. Đến bây giờ em đã là bóng dáng cô liêu trong ngậm ngùi

Khúc ca muôn thủa - Thái Thanh (nguyên tác: Granada) 

Rằng từ sau khóe mắt xanh bồ câu xâm chiếm tim anh, quên lãng sao đành

Rừng xưa đã khép - Khánh Ly 

Ta thấy em trong tiền kiếp, với cọng buồn cỏ khô.

voiliers d’indochine, 3

Some texts quoted from the book, the English translation can only partially convey this old, romantic French writing style: if there is one region in the world where the picturesque ancient sailboat has sheltered and prevailed in its multiple facets, it is on the coasts of Indochina. A vast array of colours, the old scent of wood from the past… Nautical Indochina shows contrast especially in its fishing boats: each province has its own type of boat, all shapes of hulls, all the varieties of sails do their utmost to give us an image constantly renewed of maritime culture too regrettably ignored by the French and the Indochinese themselves. Very few are those who attempted to preserve their images, to describe their shapes, to speak of their poetry!

voiliers d’indochine, 2

Mr. Piétri was a biologist, and a biologist in the old days was trained in pen, ink anatomical drawing. His skill came into great uses for boats illustration. His writing style is that of a romantic, nostalgic, old – school sailor, he was describing something that would soon pass away in Indochina, as it already had in the Western world: large fleet of sailboats in their daily activities: fishing, cargo transporting… He provided various information into a beautiful world that has now gone, even today we still can find wood – workers who possess the knowledge of building traditional hulls in VN (the number of them can be counted with fingers on your hands), some in – depth details like blocks, tackles, shackles, lines, sails, rigging… can only be found in his book.