thần quyền

Một trong những thuộc tính rất đặc trưng, cố hữu của Phật giáo, dù là tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, hay Việt Nam, xuyên suốt tất cả các giai đoạn lịch sử, đó là tính chất “tổ chức, hội đoàn yếu” của nó! Đây có thể xem vừa là nhược điểm, vừa là ưu điểm nổi bật của Phật giáo. Khác với những tôn giáo khác, Phật luôn là vấn đề rất cá nhân, mục tiêu cao nhất là đạt đến giác ngộ, những cái khác chỉ là phụ. Nên tính đoàn thể thì vẫn phải có, như bất kỳ một tổ chức nào khác, nhưng Phật giáo tập trung nhiều vào việc giáo dục con người, chứ không tập trung vào những chương trình hành động mang tính xã hội rộng lớn. Suốt mấy ngàn năm lịch sử, Phật giáo hiếm khi tự biến mình thành một tổ chức “Thần quyền” can thiệp vào “Thế quyền”, như đã xảy ra phổ biến với nhiều tôn giáo khác, ví dụ như Thiên Chúa giáo.

Thiên Chúa giáo, như tại Bùi Chu và Phát Diệm, vào thời của các giám mục Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi… chính là một kiểu Thần quyền và Thế quyền hợp nhất, các linh mục nắm toàn quyền sinh sát, thậm chí có cả quân đội vũ trang riêng. Tính tổ chức cao, hoạt động hiệu quả luôn là truyền thống của Thiên Chúa giáo Tây phương, điều này thể hiện rõ với các cha xứ theo chân đoàn quân thực dân đi xâm chiếm nước khác! Khi thực dân Pháp hoàn tất việc cai trị Việt Nam, các tri thức VN đương thời đều nhận ra tính hiệu quả của mô hình tôn giáo, tổ chức ngoại lai, và họ cũng nỗ lực làm giống như vậy! Như Cao Đài tổ chức thành các xóm đạo, họ đạo như Thiên Chúa giáo, xây các nhà thờ dạng 2 tháp hệt như Thiên Chúa giáo. Nhưng các quyết định quan trọng được đưa ra bởi một hình thức… “cầu cơ” (!!!) thay vì bỏ phiếu.

Ở miền Nam ngoài Cao Đài còn có Hòa Hảo, và nhiều hình thức tôn giáo “ngồ ngộ” khác. Mê tín dị đoan (như chữa bệnh bằng nước lã, tro than) là phổ biến, bùa chú, sấm ký là phổ biến, và nhiều hình thức khó tin khác theo như suy nghĩ hiện đại ngày nay, ví dụ như tuyên truyền rằng súng của Việt Minh sẽ không thể nổ được trước những tín đồ Hòa Hảo. Những điều này xảy ra nói thẳng là vì dân trí quá thấp! Mặc dù ở phần tư tưởng, Hòa Hảo tự nhận mình là một nhánh Phật giáo (Tịnh độ tông), nhưng ở phần thực hành, họ xa rời tôn chỉ của Phật giáo là giáo dục con người, mà tập trung vào tổ chức Giáo hội Thần quyền kiêm quản Thế quyền giống như các nhánh tôn giáo khác đương thời. Các chỉ huy Hòa Hảo như Năm Lửa, Ba Cụt… cai trị các vùng lãnh thổ riêng, không ai chịu ai, tàn bạo không khác gì lãnh chúa.

Trở lại với thời gian đầu chống Pháp, nỗ lực “toàn dân kháng chiến” của Việt Minh mâu thuẫn nghiêm trọng với tính cô lập, tự trị và lạc hậu của các giáo phái! Nhất là ở thời gian vài năm đầu, bất kỳ ai “tích cực kháng chiến” đều được chấp nhận, nên trong hàng ngũ Việt Minh xuất hiện một số kẻ “cơ hội chủ nghĩa” như Kiều Đắc Thắng, hay hành xử “tự tung tự tác” như Bửu Vinh. Đám Bình Xuyên mặc dù đi làm cách mạng nhưng vẫn có nhiều người, cung cách không khác với thời ăn cướp ngày trước là mấy! Thế nên khá nhiều sự việc đáng tiếc đã xảy ra! Theo dòng tiến bộ của lịch sử, ngày nay, tách biệt Thần quyền và Thế quyền là một nguyên tắc cần được thực hiện nghiêm nhặt, cũng nghiêm nhặt y như là bảo đảm quyền Tự do tôn giáo vậy, và các Tôn giáo nên trở lại đúng với vai trò của nó, đó là giáo dục con người!

hòa hảo

23/9/1945, Nam Bộ kháng chiến bùng nổ… Tình hình miền Nam lúc này, các lực lượng giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài, mỗi nhánh có khoảng 2000 ~ 3000 tay súng, nhưng chống Pháp theo kiểu nửa vời. Mạnh nhất là Việt Minh, bao gồm Thanh niên tự vệ và khoảng 2000 bộ đội Bình Xuyên (quân của Ba Dương, Tám Mạnh, tuy vẫn có một bộ phận Bình Xuyên không hoàn toàn quy phục Việt Minh như Bảy Viễn), tổng cộng không quá 5000 ~ 6000 tay súng! Bình Xuyên, những người trước đây là dân giang hồ, anh chị, ăn cướp, bảo kê, .v.v. nói cho đúng vẫn là lực lượng chiến đấu tương đối hiệu quả, ít nhất là vào thời gian đầu kháng chiến, nhờ cái máu “yêng hùng” của họ! Nhưng do đâu Việt Minh lại nắm được, sai khiến được đám giang hồ này, đó là từ một sai lầm của người Pháp! Từ nhiều năm trước đó, người Pháp nhốt chung tù chính trị với tù hình sự, hy vọng có thể dùng đám đầu gấu để trị các tay tù chính trị. Nhưng kết quả hóa ra ngược lại, vào tù rồi, anh chị cỡ nào đi nữa, nó đánh cho vài trận là khai hết, là phục tùng hết. Nhưng đám tù chính trị dù có chặt tay, chân thì vẫn không khuất phục.

Kết quả là đám tù chính trị quay ngược lại cảm hóa, thuyết phục được đám côn đồ, du đãng, vì họ đã cho đám “cơ bắp” thấy được có loại sức mạnh nằm ngoài cơ bắp! Đến khi kháng chiến bùng nổ, các đơn vị “bộ đội” như của Ba Dương, Tám Mạnh đều rắp rắp nghe lệnh Việt Minh. Nhưng tổng số 5000, 6000 tay súng là quá ít, không đủ để đối đầu với quân Pháp! Miền Nam cho đến lúc đó vẫn là vùng đất mới, lòng người không vững, lại chia năm xẻ bảy không ai chịu ai! Ngay trong tháng 9-1945, các đơn vị Nam Tiến từ miền Bắc, Trung được thành lập để chi viện cho miền Nam, Hải Phòng, Hà Nội mỗi nơi gởi một chi đội, Bắc Ninh, Bắc Giang gởi một chi đội, Thừa Thiên cũng gởi cỡ một chi đội, Quảng Nam gởi 3 chi đội… đặc biệt Quảng Ngãi gởi vào Nam 15 ngàn người! Cái gọi là “chi đội” lúc bấy giờ là những đơn vị không cố định quân số, thường có khoảng 1000 ~ 1500 người! Đến tận giờ không thể biết chính xác bao nhiêu người đã Nam Tiến, ước tính ít nhất 30 ngàn người đã chi viện cho miền Nam trong vòng chưa đến 5 tháng! Nhưng tình hình miền Nam lại diễn biến vô cùng phức tạp!

Những khúc mắc, ân oán giữa Việt Minh với Hòa Hảo, Cao Đài, nhóm Trotskist và những thành phần xã hội khác, đến tận ngày nay người ta vẫn tránh nói về những đề tài ấy, bởi vì muốn nói cho cùng thì phải nhìn vào bản chất lạc hậu, manh mún, nhìn vào dân trí, tư duy, những điều vẫn chưa cải thiện mấy cho đến tận ngày hôm nay! Quay ngược lịch sử trăm năm trước, khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, phong trào Nghĩa Hội bùng phát khắp Quảng Nam, cầm đầu bởi Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Nguyễn Tiểu La… xây căn cứ ở Quế Sơn tính chống Pháp lâu dài. Nhưng người Pháp không chỉ hơn ở khoa học, kỹ thuật, vũ khí mà họ hơn ở… tất cả mọi mặt: âm mưu, kế sách, thủ đoạn, mua chuộc, đe dọa, cài cắm, tin giả, ly gián, etc… Được khoảng 2 năm thì Nguyễn Duy Hiệu bị bắt, phong trào tan rã. Nói đến tinh thần yêu nước nhưng nhiều người không dám nói thẳng về kết quả của Nghĩa Hội Quảng Nam: giết được vài chục người Pháp, nhưng tự mình giết người mình vì nghi ngờ, phản bội, thanh trừng lẫn nhau, con số phải lên đến nhiều trăm. Và chuyện như thế kéo dài mãi đến về sau…

nguyên hùng

Lại nói về văn và sử, sử và văn, hư và thực, thực và hư… Có nhưng thứ văn chương nghe có vẻ hư cấu, nhưng lại cực kỳ thực. Và có những thứ sử tưởng chừng thực, kỳ thực lại rất hư. Văn mà mô tả đầy đủ chi tiết về văn hóa, cuộc sống đương thời, từ địa lý, sắc tộc cho đến ngôn ngữ, ẩm thực, ăn mặc, v.v. thì đó là lối văn cực kỳ thực, không có hiểu biết, từng trãi thực tế cuộc sống thì không thể nào viết ra như vậy được. Sử mà chỉ gồm toàn những cái gạch đầu dòng giản đơn, tìm cách máy móc kết nối các điểm lại với nhau, kỳ thực là một lối sử rất là hư! Lại nói về những nhân vật trong các cuốn sách của nhà văn Nguyên Hùng: Lê Văn Viễn có cha là người Triều Châu, mẹ người Việt, là một tướng cướp lừng danh. Huỳnh Văn Trí cũng là một tay anh chị khét tiếng, cả 2 vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần, quen nhau trong tù, nhiều lần vượt ngục cùng nhau và kết nghĩa làm anh em.

CMT8 nổ ra, cả hai đều tổ chức những đơn vị vũ trang đầu tiên chống Pháp, cả 2 đều là đàn em dưới trướng của Dương Văn Dương, thủ lĩnh “nghĩa quân” Bình Xuyên, người ngay từ năm 1948 đã được truy phong Thiếu tướng! Nhưng Mười Trí đi kháng chiến đến cùng, còn Bảy Viễn như ta biết, trở về làm ông trùm Chợ Lớn. Không thuyết phục được người anh em kết nghĩa, Mười Trí bày tỏ nỗi lòng qua một bài thơ, lối văn dân dã Nam bộ. Hư hay là thực thì để cho người đọc suy nghĩ, nhưng lối văn này, dù người ta cũng đã tìm cách giả, nhưng tối hậu vẫn không thể nào mà giả cho được: Thế là hết, tôi với anh đành đoạn tuyệt, Vì anh ơi, đời hồ hải hết tung hoành. Anh giam mình vào lưới sắt, bả hư danh, Thân lồng chậu, anh mong nằm trên nệm ấm. Anh có biết tay quân thù còn đỏ thắm, Máu đồng bào ngùn ngụt lửa căm thù. Kiếp tôi đòi, anh nhớ lại mùa Thu, Mùa lịch sử đã mở tù cho dân tộc…

người bình xuyên

Thực ra ở VN, cũng có nhiều người viết văn theo lối “nửa thực, nửa hư” như thế (và họ nói rõ ràng đây là văn, không phải sử), viết để trình bày một dạng sử ít chính thức hơn. Ví dụ thú vị là nhà văn Nguyên Hùng, tác giả những cuốn Người Bình Xuyên, Nguyễn Bình – huyền thoại và sự thật, Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ… những sách nói cho độc giả biết về các nhân vật kháng chiến, tôn giáo, quân phiệt miền Nam 1945 ~ 1975, một giai đoạn cũng gần giống như thời Dân quốc bên TQ vậy! Sách của ông nói cho chúng ta về những góc ít biết của lịch sử: Huỳnh Phú Sổ, Phạm Công Tắc, Lê Văn Viễn, Dương Văn Dương, Nguyễn Bình…

Nhưng khác là Nguyên Hùng thực sự là người trong cuộc, tham gia kháng chiến từ đầu đến cuối! Vì là người trong cuộc nên Nguyên Hùng có khả năng phác họa chân dung con người với những hiểu biết sống động: ngôn ngữ, giáo dục, văn hoá, tâm lý, và nhiều chi tiết khác liên quan đến đời sống, xã hội đương thời! Còn với trường hợp Huy Đức, ông ấy chỉ là người đến sau, mãi về sau, tìm cách hình dung lại lịch sử qua những gì được nghe kể lại, hay qua những gì mình tưởng tượng ra, tìm cách lắp ghép, sắp xếp thông tin thu nhặt được theo những định kiến có sẵn, nên sách nghe rất khiên cưỡng, máy móc và vô hồn…

bên thắng cuộc

Giữa trưa 7-1-1979, khi nghe con rể là Giáo sư Hồ Ngọc Đại đánh thức báo tin quân ta đã vào Phnom Penh, ông Lê Duẩn chỉ ừ rồi ngủ tiếp… Đọc đến đây là tôi vất cuốn truyện qua một bên, không cần phải đọc nữa, vì những tình tiết kiểu như thế nó xuất hiện quá quá nhiều! Tác giả viết giống như thể lúc đó, ông ta đang nằm dưới gầm giường của ông Lê Duẩn nên biết được sự việc vậy! Mặc dù một số tình tiết trong truyện tôi cũng muốn tin lắm, nó giống những truyền khẩu dân gian người ta thường kể cho nhau nghe lúc trà dư tửu hậu! Nhưng lịch sử mà viết theo lối “tiểu thuyết dã sử, giả sử” như thế không hề ổn tí nào!

Lần cuối cùng người ta làm như thế có lẽ là từ thời của Homer (Trường ca Iliad và Odyssey) kia! Mà tất cả những kiểu như Đèn cù, Đêm giữa ban ngày, Bên thắng cuộc, etc… đều cùng một kiểu, cùng một giọng văn, cùng một phong cách: nói giống như là đúng rồi vậy, đưa tin theo kiểu “từ trên trời rơi xuống”, tìm cách nhào nặn những sự thật nhiều người biết, trộn thêm vào đó những tình tiết tưởng tượng theo cảm tính, tìm cách tô màu mức tranh theo ý của mình, hư hư thực thực đan xen vào nhau! Và có cơ sở để tin rằng tất cả những thủ pháp “sáng tác văn chương” như thế đã được đúc kết để dạy thành bài bản!

bluing

Nhân một số tranh luận trên các diễn đàn kỹ thuật, nghe các bác ấy giải thích như gà mắc tóc, loanh quanh không hiểu bản chất vấn đề, em thấy phát mệt! Chuyện rất đơn giản, ở đây nói về “bluing”, một kỹ thuật bảo vệ thường dùng cho các thiết bị làm bằng sắt thép, nhất là súng! Sắt thép thường được sơn để bảo vệ khỏi bị oxy hóa, nhưng các chi tiết chuyển động (moving part) không sơn được! Nó được xử lý bằng cách cố tình làm gỉ – oxy hóa trước, tạo ra một loại gỉ đen – Fe3O4, đây là loại gỉ bền, không dễ bị bong tróc thành từng mảng như gỉ đỏ – Fe2O3 thường thấy trong quá trình oxy hóa tự nhiên. Cái này ai học hóa cấp 3 kỹ là sẽ nhớ!

Các chi tiết súng làm ra xong sẽ được ngâm vào một hỗn hợp muối Kali nitrite (KNO2), Natri hydroxite (NAOH), cho thêm một số loại dầu, và nung nóng, kết quả là một lớp gỉ màu đen xám – Fe3O4 dày vài micrometre hình thành trên bề mặt! Có nhiều quy trình thi công “bluing” khác nhau, có quy trình dùng Hydro peroxide, cũng có quy trình dùng các loại acid khác nhau! Ngày xưa, do có lẫn nhiều tạp chất nên bề mặt sau khi bluing không có màu đen mà có ánh xanh, vì lý do này mà quy trình được gọi là blue-ing, ngày nay, sản phẩm tạo thành chỉ xám đen, không hề có màu xanh nào cả! Ảnh chụp trên đồi A1 – Điện Biên cách đây vài năm!

chiều tây bắc

Nhớ năm đó chạy xe máy qua đèo Pha Đin – Sơn La – Điện Biên… con đường đèo mới vừa làm xong, tráng nhựa rộng rãi, phẳng phiu, chạy song song với con đường cũ! Xe thì mạnh và đường thì tốt, chạy cái vèo, mới có chút xíu đã qua hết con đèo. Giật mình vì kiểu “Trư Bát Giới ăn nhân sâm”, còn chưa kịp thưởng thức cái gì, chưa thấy được cảnh nào đẹp thì đã hết mịa nó con đèo. Bèn quay ngược xe lại, rẽ vào con đường cũ, đi chậm, thong thả, dừng xe, leo lên các ngọn đồi chụp mấy kiểu ảnh, cứ như thế chạy qua đèo cả thảy 3 lần! Các đèo lớn ở miền Bắc thì mình đi hết cả rồi, nên Pha Đin cũng không phải là ấn tượng lắm, nhưng không phải vì thế mà nó không lớn!

Khi nhỏ ở Sơn Trà, Đà Nẵng, chỉ là mấy cục đá cao mấy chục mét, nhưng leo cũng trầy vi tróc vẩy chứ không đùa. Mà không leo mấy chục mét, thì làm sao hiểu được độ cao vài trăm mét, không tự mình leo vài trăm mét, thì làm sao hiểu được con số ngàn!? Giờ công nghệ hiện đại rồi, cơ giới hóa lớn, xe ủi, xe xúc, nên đường làm ra cứ gọi là rộng rãi, thông thoáng! Đám trẻ chạy xe hơi qua dừng lại dè bỉu: tưởng thế nào, chỉ có thế thôi à!? Nhưng sẽ là chuyện khác nếu như không có đường làm sẵn, cứ bắt gùi 30kg, vạch cây, bám đá mà đi, thì sẽ tự hiểu, tự ngộ ra được núi cao bao nhiêu ngay thôi! Tranh: Nhớ một chiều Tây Bắc – sơn mài – Phan Kế An – 1955.

tuổi thơ dữ dội

Có chút thời gian để đọc lại cuốn này: Tuổi thơ dữ dội – Phùng Quán, lần trước đọc đã cách hơn 10 năm ở một quán cafe Sách khá đẹp! Tiếc là không được đọc cuốn này từ nhỏ. Đọc, nhưng sao cứ cảm thấy những chuyện trong đó cứ như là đã nghe ai đó đã kể rồi, đọc xong thì mới hiểu ra rằng, họ chính là lặp lại những gì đã đọc trong sách này!

Và chính những chuyện được mô tả trong sách là dựa trên những sự kiện lịch sử có thật đã xảy ra và vẫn được lưu truyền theo kiểu “văn hoá dân gian” đến tận ngày nay, những hoạt động của các cậu bé “Vệ út” 13, 14 tuổi trong thành phần Trung đoàn Trần Cao Vân (sau là trung đoàn 101, sư 325), mặt trận Trị Thiên những ngày đầu chống Pháp!

cuộc chiến xa lạ

Giải trí cuối tuần, phim Nga làm mới sau này về cuộc chiến VN, chính là cái phim “tràn ngập cảnh nóng” do cô “hoa hậu Nga” gì gì đó đóng! Đúng là đám nhà báo “nói láo ăn tiền”, chưa thực sự xem phim bao giờ, chứ đã xem thì biết chỉ có đúng một cảnh, và cũng chỉ hơi nóng một tí thôi! Dành cho những ai muốn xem ngay “cảnh nóng”, kéo đến tập 3, phút 45 ~ 55… đoạn đó lại để bài nhạc sến làm nền: ngày xưa tôi có yêu một người em gái nhỏ, tuổi trăng tròn mái tóc chớm ngang vai… đúng là rất hợp! 😅 Phim xem giải trí là chủ yếu, xem để thấy rằng thật ra người Nga cũng không hiểu nhiều lắm về văn hoá Việt Nam.

Thực tế lịch sử, đã có khoảng hơn 20 nhóm GRU (tình báo quân sự) Nga hoạt động ở VN, nhưng chắc chắn không chiến đấu trực tiếp! Vì với sự khác biệt về chủng tộc, ngoại hình, người dân phát hiện ra ngay, nên trong phim giả định là: đặc nhiệm Nga sẽ… giả trang làm đặc nhiệm Mỹ, quần áo, súng ống Mỹ, để khi cần có thể đổi vai cho nó chuẩn! Kịch bản chính của phim là: phối hợp với các lực lượng VN, làm sao để đánh cắp một chiếc trực thăng Mỹ đưa về Nga nghiên cứu! Diễn biến phim đan xen khá phức tạp vì ngoài nhiệm vụ khó khăn, người Nga còn phải đối phó, xử lý với những âm mưu, phản bội từ chính trong nội bộ…

https://www.youtube.com/watch?v=Fqfm8F_Obi8

viet kong

Trước, có một thời bàng – dân bàn – tán sôi nổi về cái phim này, nhất là về cái nhân vật “Viet – Kong”, với vẻ châm biếm mang màu sắc chính trị! Vâng, đó chính thực… là một con quái vật, nhưng trong số những con quái vật trên Đảo – đầu – lâu, thì đó vẫn là một con mang “tính người” nhiều nhất, vẫn có thể thấy rất nhiều “tính thiện, tình cảm và lý trí” bên trong con Kong, tất cả những loại khác, như con Skullcrawlers, chỉ là súc – vật, phi – nhân – tính, không hơn không kém!

Rất tiếc là đánh nhau bao lâu, hao tổn biết bao nhiêu mới nhận ra sự thật ấy! Và còn sẽ mất rất rất lâu nữa để mọi người nhận ra “thiện, ác, tốt, xấu” nằm bên trong mỗi con người chúng ta, chứ không nằm trong ý thức hệ hay quan điểm tôn giáo, chính trị, xã hội, không phân biệt vùng miền… Trong lúc đó thì đám lưu manh rẻ tiền vẫn cứ gán ghép, chụp mũ, đánh vào “cái-tôi trắng-đen nhị – nguyên” cố – hữu, tố – hữu của con người, giả mạo, kích động cho bên này, bên kia đánh nhau! 🙂