nhất niệm khởi

Bản chất của con người, đó là một loại có tính “ưu sinh”… chúng ta cho rằng một số “chủng loại” là ưu việt hơn, nên ưu tiên phát triển nó. Như cây lúa hoang ngày xưa vốn dĩ chẳng có mấy chục hạt, hay cây bắp nguyên thủy chỉ có 5, 6 hạt trên một quả, thế rồi gieo trồng, lựa chọn, lai tạo, ưu tiên những giống “năng suất” mà ra được cây lúa, bắp ngày nay! Haiza, chỉ vì “nhất niệm khởi – 一念起” mà sinh ra mọi chuyện!

Cũng như ku Tom vậy, lúc thì khôn ranh, khi thì khờ khạo, lúc thì phụ thuộc, khi thì thấy độc lập! Thực chất nó không phải là những gì bạn nghĩ, nó chỉ là… con mèo! Nhìn nhận sự vật, và mọi người xung quanh cũng y vậy, nói đúng ra, chúng ta chỉ nhìn thấy những gì “tâm” chúng ta muốn thấy! Một đêm mất ngủ suy nghĩ linh tinh… con ngựa vằn (zebra) rút cuộc là màu trắng sọc đen, hay là màu đen sọc trắng!?

không tính, không tính!?

Xuất hiện nhiều sự việc quay lén, sử dụng hình ảnh cá nhân trái phép, sử dụng cho mục đích không trong sạch, số lượng vụ việc nhiều như thế, mà khắp cả các mặt báo, không thấy có bài nào nghe cho được. Về mặt luật pháp, chỉ có thể xử người vi phạm đến một mức độ nào đó, thứ nhất là xử phạt hành chính, thứ nhì là phạt tiền nếu chứng minh được hành động gây ảnh hưởng xấu đến cá nhân và xã hội. Nhưng đây cũng gần như là giới hạn của pháp luật. Đương nhiên cách diễn giải, mức độ ảnh hưởng thiệt hại sẽ khác nhau tùy từng người. Ví dụ như tôi, đàn ông, trên răng, dưới dép, tôi chả có gì phải sợ, kể cả khi hình ảnh riêng tư của mình rò rỉ đâu đó! Nhưng sâu xa hơn, đi qua ranh giới của pháp luật chính là đạo đức cộng đồng! Chính những thể loại bên trong trống hoác, không có gì khi tự soi rọi tâm hồn mình, nên họ sẽ luôn tìm cách đi soi người khác!

Người bình thường, trong một xã hội lành mạnh, sẽ dành phần lớn thời gian cho việc phát triển bản thân, chẳng ai rảnh hơi đi tìm sự “thỏa mãn” trong hành vi “soi mói”! Những gì chúng nó, đám lưu manh nhìn thấy, chỉ là cái mà “tâm” chúng nó muốn nhìn thấy mà thôi, chính là sự phản ánh của những cái tôi bệnh hoạn! Chúng nó không nhìn thấy được gì khác, những nhân cách đã “bần cùng hóa”, “lưu manh hóa”, “bị thối rữa”, chúng nó mắc cứng vào những cái bản năng máy móc như thế, phần “người” trong chữ “con người” vẫn chưa phát triển được mấy! Mạng xã hội là cái môi trường nơi ai ai cũng tranh thủ thể hiện, tôi là như thế này, tôi đã làm những điều này, v.v… Nhưng đạo đức xã hội, cái chúng ta cần, là những thứ ngược lại: tôi KHÔNG làm những điều này này, và tôi kiên định như thế! Mà để hiểu được cái tính KHÔNG này thì vô cùng khó, phi thường khó!

photography consent

Điều 32, Bộ luật Dân sự 91/2015/QH13: “Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.” Chỉ một câu này thôi là đủ để xử phạt hành chính tất cả những hành vi quay phim chụp ảnh một người rồi phát hành, xuất bản dưới bất kỳ dạng nào, kể cả trên mạng xã hội mà không được người đó đồng ý. Rất tiếc là ở phần thi hành, Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, không quy định cụ thể mức phạt, chỉ có thể phạt nếu kết luận được hành vi chia xẻ này là: “giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân”. Hiểu như vậy thì vẫn có thể cưỡng chế thi hành, bắt phải xóa phim, xóa hình ảnh được, chỉ là hơi khó định được mức xử phạt cụ thể mà thôi! Ví dụ như bạn đăng tấm ảnh đi uống bia với bạn bè lên mạng xã hội, thế nào cũng sẽ có thằng cóp lại cái ảnh, rồi giật dòng tít trêu ngươi: Tác hại của chứng nghiện rượu!

Đương nhiên, đây chỉ là tôi rảnh, tưởng tượng ra kịch bản thế thôi, nhưng phần lớn báo chí và mạng xã hội VN cũng giống y vậy! Nó thể hiện cái tâm thức xấu xí của cộng đồng Việt, bản thân không chịu vận động, chỉ la liếm khắp nơi, thấy cái gì lạ thì một là sợ, hai là ghét, và ba là tìm cách nói ra nói vào! Rồi dùng những nội dung sai lệch tìm cách gây “sóng”, anh A nói như thế này, anh B bảo anh C như thế kia, kích cho thiên hạ đánh nhau! Nên cái phần “hướng hạ” trong cộng đồng quá lớn, không thấy phần “hướng thượng” đâu, riết xã hội nó bị “quy đồng” về những “mẫu số chung” như thế! Chính những cái thành phần thiểu năng, không có khả năng suy nghĩ, trống hoác không có nội dung gì, hạ bút viết câu tiếng Việt cho suôn sẻ còn chưa được! Chính những thành phần đó là dạng la liếm khắp nơi, luôn luôn “ta đây biết rồi”, chính là những kẻ thêu dệt, bịa đặt tích cực nhất! Muốn “sáng tạo nội dung” á, chuyện không dễ thế đâu!

Phải xem từ nhỏ học hành thế nào, phải có quá trình hàng chục năm thì mới hơi hơi có nội dung được, mà người không có công phu gì chỉ nói mấy câu là biết ngay! Phải sớm cụ thể, chi tiết hóa luật về chuyện này, quy định thành mức phạt cụ thể, như thế mới dẹp được đám du-tu-bơ, tíc-tốc-cơ, phây-búc-cơ và những dạng báo chí thiểu năng khác! Thường việc như thế này do chưa xảy ra với mình, hoặc có xảy ra thì cũng cho qua vì không quá quan trọng, nhưng vẫn phải hiểu rõ luật để tự bảo vệ. Còn đối với trường hợp ông Anh Tú – Minh Tuệ, có 2 khả năng có thể xảy ra. #1. Ông Anh Tú ủy quyền cho luật sư khởi kiện vụ án sử dụng hình ảnh cá nhân trái phép! #2. Viện kiểm sát, xét sự việc ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, quyết định khởi tố vụ án sử dụng hình ảnh trái phép! Cứ bốc ra 100 ku đầu têu, phạt mỗi ku 20tr, kiếm 2 tỷ trả án phí, cứ như thế cho chúng nó sợ, khỏi đăng hình ảnh, video gì cả, còn chữ á, muốn đăng bao nhiêu thì tùy, chỉ sợ là chúng nó không có nhiều chữ để mà đăng đâu!

thần quyền

Một trong những thuộc tính rất đặc trưng, cố hữu của Phật giáo, dù là tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, hay Việt Nam, xuyên suốt tất cả các giai đoạn lịch sử, đó là tính chất “tổ chức, hội đoàn yếu” của nó! Đây có thể xem vừa là nhược điểm, vừa là ưu điểm nổi bật của Phật giáo. Khác với những tôn giáo khác, Phật luôn là vấn đề rất cá nhân, mục tiêu cao nhất là đạt đến giác ngộ, những cái khác chỉ là phụ. Nên tính đoàn thể thì vẫn phải có, như bất kỳ một tổ chức nào khác, nhưng Phật giáo tập trung nhiều vào việc giáo dục con người, chứ không tập trung vào những chương trình hành động mang tính xã hội rộng lớn. Suốt mấy ngàn năm lịch sử, Phật giáo hiếm khi tự biến mình thành một tổ chức “Thần quyền” can thiệp vào “Thế quyền”, như đã xảy ra phổ biến với nhiều tôn giáo khác, ví dụ như Thiên Chúa giáo.

Thiên Chúa giáo, như tại Bùi Chu và Phát Diệm, vào thời của các giám mục Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi… chính là một kiểu Thần quyền và Thế quyền hợp nhất, các linh mục nắm toàn quyền sinh sát, thậm chí có cả quân đội vũ trang riêng. Tính tổ chức cao, hoạt động hiệu quả luôn là truyền thống của Thiên Chúa giáo Tây phương, điều này thể hiện rõ với các cha xứ theo chân đoàn quân thực dân đi xâm chiếm nước khác! Khi thực dân Pháp hoàn tất việc cai trị Việt Nam, các tri thức VN đương thời đều nhận ra tính hiệu quả của mô hình tôn giáo, tổ chức ngoại lai, và họ cũng nỗ lực làm giống như vậy! Như Cao Đài tổ chức thành các xóm đạo, họ đạo như Thiên Chúa giáo, xây các nhà thờ dạng 2 tháp hệt như Thiên Chúa giáo. Nhưng các quyết định quan trọng được đưa ra bởi một hình thức… “cầu cơ” (!!!) thay vì bỏ phiếu.

Ở miền Nam ngoài Cao Đài còn có Hòa Hảo, và nhiều hình thức tôn giáo “ngồ ngộ” khác. Mê tín dị đoan (như chữa bệnh bằng nước lã, tro than) là phổ biến, bùa chú, sấm ký là phổ biến, và nhiều hình thức khó tin khác theo như suy nghĩ hiện đại ngày nay, ví dụ như tuyên truyền rằng súng của Việt Minh sẽ không thể nổ được trước những tín đồ Hòa Hảo. Những điều này xảy ra nói thẳng là vì dân trí quá thấp! Mặc dù ở phần tư tưởng, Hòa Hảo tự nhận mình là một nhánh Phật giáo (Tịnh độ tông), nhưng ở phần thực hành, họ xa rời tôn chỉ của Phật giáo là giáo dục con người, mà tập trung vào tổ chức Giáo hội Thần quyền kiêm quản Thế quyền giống như các nhánh tôn giáo khác đương thời. Các chỉ huy Hòa Hảo như Năm Lửa, Ba Cụt… cai trị các vùng lãnh thổ riêng, không ai chịu ai, tàn bạo không khác gì lãnh chúa.

Trở lại với thời gian đầu chống Pháp, nỗ lực “toàn dân kháng chiến” của Việt Minh mâu thuẫn nghiêm trọng với tính cô lập, tự trị và lạc hậu của các giáo phái! Nhất là ở thời gian vài năm đầu, bất kỳ ai “tích cực kháng chiến” đều được chấp nhận, nên trong hàng ngũ Việt Minh xuất hiện một số kẻ “cơ hội chủ nghĩa” như Kiều Đắc Thắng, hay hành xử “tự tung tự tác” như Bửu Vinh. Đám Bình Xuyên mặc dù đi làm cách mạng nhưng vẫn có nhiều người, cung cách không khác với thời ăn cướp ngày trước là mấy! Thế nên khá nhiều sự việc đáng tiếc đã xảy ra! Theo dòng tiến bộ của lịch sử, ngày nay, tách biệt Thần quyền và Thế quyền là một nguyên tắc cần được thực hiện nghiêm nhặt, cũng nghiêm nhặt y như là bảo đảm quyền Tự do tôn giáo vậy, và các Tôn giáo nên trở lại đúng với vai trò của nó, đó là giáo dục con người!

hòa hảo

23/9/1945, Nam Bộ kháng chiến bùng nổ… Tình hình miền Nam lúc này, các lực lượng giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài, mỗi nhánh có khoảng 2000 ~ 3000 tay súng, nhưng chống Pháp theo kiểu nửa vời. Mạnh nhất là Việt Minh, bao gồm Thanh niên tự vệ và khoảng 2000 bộ đội Bình Xuyên (quân của Ba Dương, Tám Mạnh, tuy vẫn có một bộ phận Bình Xuyên không hoàn toàn quy phục Việt Minh như Bảy Viễn), tổng cộng không quá 5000 ~ 6000 tay súng! Bình Xuyên, những người trước đây là dân giang hồ, anh chị, ăn cướp, bảo kê, .v.v. nói cho đúng vẫn là lực lượng chiến đấu tương đối hiệu quả, ít nhất là vào thời gian đầu kháng chiến, nhờ cái máu “yêng hùng” của họ! Nhưng do đâu Việt Minh lại nắm được, sai khiến được đám giang hồ này, đó là từ một sai lầm của người Pháp!

Từ nhiều năm trước đó, người Pháp nhốt chung tù chính trị với tù hình sự, hy vọng có thể dùng đám đầu gấu để trị các tay tù chính trị. Nhưng kết quả hóa ra ngược lại, vào tù rồi, anh chị cỡ nào đi nữa, nó đánh cho vài trận là khai hết, là phục tùng hết. Nhưng đám tù chính trị dù có chặt tay, chân thì vẫn không khuất phục. Kết quả là đám tù chính trị quay ngược lại cảm hóa, thuyết phục được đám du đãng, vì họ đã cho đám “cơ bắp” thấy được có loại sức mạnh nằm ngoài cơ bắp! Đến khi kháng chiến bùng nổ, các đơn vị “bộ đội” như của Ba Dương, Tám Mạnh đều rắp rắp nghe lệnh Việt Minh. Nhưng tổng số 5000, 6000 tay súng là quá ít, không đủ để đối đầu với quân Pháp! Miền Nam cho đến lúc đó vẫn là vùng đất mới, lòng người không vững, lại chia năm xẻ bảy không ai chịu ai! Ngay trong tháng 9-1945, các đơn vị Nam Tiến từ miền Bắc, Trung được thành lập để chi viện cho miền Nam…

Hải Phòng, Hà Nội mỗi nơi gởi một chi đội, Bắc Ninh, Bắc Giang gởi một chi đội, Thừa Thiên cũng gởi cỡ một chi đội, Quảng Nam gởi 3 chi đội… đặc biệt Quảng Ngãi gởi vào Nam 15 ngàn người! Cái gọi là “chi đội” lúc bấy giờ là những đơn vị không cố định quân số, thường khoảng 1000 ~ 1500 người! Đến tận giờ không thể biết chính xác bao nhiêu người đã Nam Tiến, ước tính ít nhất 30 ngàn người đã chi viện cho miền Nam trong vòng chưa đến 5 tháng! Nhưng tình hình miền Nam lại diễn biến vô cùng phức tạp! Những khúc mắc, ân oán giữa Việt Minh với Hòa Hảo, Cao Đài và những thành phần xã hội khác, đến tận ngày nay người ta vẫn tránh nói về những đề tài ấy, bởi vì muốn nói cho cùng thì phải nhìn vào bản chất lạc hậu, manh mún, nhìn vào dân trí, những điều vẫn chưa cải thiện mấy cho đến tận ngày hôm nay!

Quay ngược lịch sử trăm năm trước, khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, phong trào Nghĩa Hội bùng phát khắp Quảng Nam, cầm đầu bởi Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Nguyễn Tiểu La… xây căn cứ ở Quế Sơn tính chống Pháp lâu dài. Nhưng người Pháp không chỉ hơn ở khoa học, kỹ thuật, vũ khí mà họ hơn ở… tất cả mọi mặt: âm mưu, kế sách, thủ đoạn, mua chuộc, đe dọa, cài cắm, tin giả, ly gián, etc… Được khoảng 2 năm thì Nguyễn Duy Hiệu bị bắt, phong trào tan rã. Nói đến tinh thần yêu nước nhưng nhiều người không dám nói thẳng về kết quả của Nghĩa Hội Quảng Nam: giết được vài chục người Pháp, nhưng tự mình giết người mình vì nghi ngờ, phản bội, thanh trừng lẫn nhau, con số phải lên đến nhiều trăm. Và chuyện như thế kéo dài mãi đến về sau…

ma tăng

Quê hương của Đức Phật, tiểu quốc Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) ngày nay nằm ở Nepal, chồng lấn lên biên giới với Ấn Độ, là vùng cận nhiệt đới chịu ảnh hưởng bởi gió mùa, khí hậu có thể được xem là tương đối ôn hòa, và đất đai thì phì nhiêu màu mỡ. Đây là cơ sở khiến cho đời sống dân chúng không đến nổi quá khó khăn, việc xin một bát cơm, mỗi ngày ăn một bữa, là việc có thể chấp nhận được, để có thể dành thời gian cho việc tu tập! Nhưng khi Phật giáo truyền lên phía bắc, vào Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc… thì lại hoàn toàn khác, đây phần lớn là những nơi có khí hậu lạnh giá. Ở những xứ ôn đới, hàn đới, không có quần áo ấm thì chưa chắc sống được qua vài giờ, không có giày mũ bảo vệ đầy đủ thì khó sống qua vài ngày. Còn không có dự trữ lương thực thì không thể sống qua mùa đông.

Do điều kiện như thế nên hình thành văn hóa, người phương Bắc có “bản năng” tích trữ, phòng xa lớn hơn so với người phương Nam. Ở những nơi như thế, ngửa tay xin một bát cơm là người ta nhìn anh như kẻ từ trên trời rơi xuống vậy, đây không phải là chuyện đúng hay sai, chỉ là văn hóa nó thế! Nên khi Thiền tông thành lập ở TQ, họ chủ trương “bất tác bất thực – không làm thì không ăn”, sư cũng làm việc như những người khác! Tuy như vậy nghĩa là thời gian dành cho việc tu tập phải bớt lại, nhưng có thế thì Phật giáo mới hòa nhập được vào với xã hội! Nên khất thực hay không khất thực đều do điều kiện thực tế cụ thể, chứ không mang tính đúng sai gì cả! Còn cái thể loại đi khất thực mà chỉ nhận tiền, không nhận đồ ăn (khất: xin, thực: thức ăn) thì chỉ có thể là ma-tăng mà thôi!

mượn hoa kính Phật

Vài câu hỏi sơ khai về Phật giáo, nhân sự việc có quá nhiều người “mượn hoa kính Phật”, mà ở VN, thường là “Tá hoa hiến Phật” thì ít, mà “Tá đao sát nhân” (mượn đao giết người) lại nhiều! Em dự là sau cơn hả hê, tất cả vẫn hoàn u mê như cũ! Theo dõi các clip, quan tâm ông MT thì ít mà xem cách Nhà nước xử lý sự kiện này thì nhiều! Các anh CA chìm bao quanh ông MT xem cách ăn nói cho thấy phần lớn là người có học, ít nhất cũng hiểu sơ về Phật giáo, xem ra Nhà nước đã khổ tâm huy động lực lượng có trình độ, như thế mới sàng lọc, đấu tranh được với đám “Giả hành tôn” để mà bảo vệ cho “Tôn hành giả”! Ngày xưa thì Tôn hành giả bảo vệ Đường tăng khỏi đám yêu ma, nhưng với đám yêu ma ngày nay thì ngay đến cả Tôn hành giả cũng cần phải được bảo vệ!

+ Khổ hạnh không phải là con đường đúng, Trung đạo mới là điều Đức Phật đề nghị! ==> Hầu hết những lối tu hiện đại, kể cả hạnh đầu đà, đều chưa phải là khổ hạnh hiểu theo nghĩa như thời của Đức Phật!

+ Đi như thế ích gì, ở nhà phụng dưỡng cha mẹ mới là chân tu. ==> Đức Phật bỏ nhà vào rừng tu khổ hạnh đúng vào cái ngày con ông ta là La-hầu-la sinh ra đời, mặc cho bao nhiêu ngăn cản từ gia đình.

+ Ông ta tu thế chỉ ích mỗi ông ta thôi, lợi gì cho XH!? ==> Đúng vậy, Phật giáo đầu tiên và trên hết là vấn đề cá nhân, những cái khác chỉ là hệ quả. Đến mình còn chưa tự giúp được thì sẽ giúp được ai!?

+ Khất thực là ăn bám, không tạo ra của cải vật chất gì! ==> Chừng nào XH còn có người tự nguyện cúng dường thì đó không thể xem là ăn bám. Không phải ai cũng “ăn bám” được vậy đâu, số này rất ít!

+ Nếu ai cũng bỏ nhà đi như vậy thì lấy đâu ra người sản xuất, phát triển XH? ==> Đúng vậy, viễn cảnh mọi chúng sinh đều nhập Niết bàn cả rồi thì XH sẽ “giải tán”, nhưng việc này không biết đến bao giờ.

tâm bệnh

Về chuyện cuối cùng ông Minh Tuệ gì đó phải dừng “bộ hành, khất thực”… Cảm thấy thất vọng vô cùng, một cái dân tộc gì mà què quặt, khuyết tật, yếu đuối, nhược tiểu, cuối cùng rồi cũng chọn những giải pháp như thế! Nó làm tôi nhớ đến hồi còn ở ngoài quê, có cặp vợ chồng hàng xóm, thường xuyên xích mích với nhau, nhưng không công khai, không chửi bới, không đập chén bát, mà chỉ xích mích ngấm ngầm, một kiểu bạo hành gia đình kín cứ âm ỉ suốt hàng chục năm! Cứ hễ có việc gì xảy ra mà một bên không bằng lòng, là bắt đầu… đau, bịnh, ốm, nằm liệt giường! Mà cả vợ, cả chồng đều hành xử như thế, những “cái tôi” cứ mãi không chịu lớn. Ban đầu chỉ là một cách tỏ thái độ, nhưng mấy chục năm sống với nhau mà cứ diễn mãi cái vở kịch nhàm chán như thế, riết rồi thì bệnh giả nó… trở thành bệnh thật!

Mà đây là “tâm bệnh”, không cách nào trị khỏi! Cái nhà không có sinh khí, đụng đâu cũng mệt, bệnh, dỗi, từ đó đẻ ra tâm lý ghét bất kỳ thứ gì vận động! Và MXH bây giờ cũng là dạng “không chịu lớn” y như thế, luôn nói ra nói vào, anh thế này, tôi thế kia, cứ y như con nít vậy, chỉ có im lặng, suy nghĩ, làm việc để trưởng thành thì không làm được mà thôi! Nói về các phương thức rèn luyện trong Phật giáo thì vô chừng, người ta đã làm rất nhiều chuyện “dời non lấp bể”, nhưng quay về gốc, Phật luôn là vấn đề của cá nhân, là do chính ta, và vì chính bản thân ta, không liên quan ai khác! Nên ông MT làm gì thì đó là việc của riêng ổng, là sự rèn luyện mang tính chất rất cá nhân! Còn đám MXH đạp lên mồ mả để quay phim chụp ảnh (như trong truyện Số đỏ – Vũ Trọng Phụng) thì đó là vấn nạn của thời đại!

Về chuyện những người đi theo ông MT có người “tử vong”, có người “ngất xỉu” do sốc nhiệt, chuyện như thế này trong giới chơi thuyền xảy ra vô số! Thấy người ta chèo thuyền vượt thác đẹp quá mà, cũng thả thuyền qua ghềnh, kết quả là đập đầu vô đá chết! Thấy người ta chạy jet – ski sướng quá mà, cũng leo lên phóng hết ga, không kiểm soát được tốc độ, đâm vô xà lan chết! Thấy người ta chèo SUP điệu nghệ quá mà, cũng nhảy lên SUP rồi bị sóng cuốn trôi chết! Và những cái chết lãng xẹt trong giới chơi thuyền và thể thao dưới nước có thể nói là… không thể đếm hết, và nó cứ lặp đi lặp lại, từ năm này qua tháng khác! Nguyên nhân do đâu!? Là do ngay từ nhỏ đã lười vận động, thiếu hiểu biết sơ đẳng về bản thân và môi trường xung quanh, nhưng tâm thì lại vọng động không có điểm dừng

Nhìn muốn được như người ta, nhưng không muốn cố gắng rèn luyện, không hiểu rằng việc gì cũng phải có quá trình! Nôm na và thẳng thừng thì ta nói: ngu thì chết thôi, ai vẹ?! Đây mới là chuyện đi bộ bình thường, chưa phải là vận động gì ghê gớm, chưa phải là cái gì khó khăn không tưởng! Nên, cho đến khi dân trí có thể tự hiểu ra rằng người ta vận động vì tìm kiếm một sự đổi thay trong “thân & tâm”, chứ không phải vì vài tấm hình chỉ để đăng lên Facebook, cho đến lúc đó thì vẫn tiếp tục chết thôi! Những chuyện như thế này, này pháp luật nên phải xử lý ra làm sao? Trong chừng mực các hoạt động không cố ý gây ảnh hưởng đến người khác thì không thể cấm được, vẫn cứ phải để cho sự vận động diễn ra, cần thiết phải như thế! Còn nghiệp của ai thì người đó gánh, đơn giản là như thế!

tôn hành giả, giả hành tôn…

Trong vùng núi Bỉ Duệ (比叡山 – Hiei) Nhật Bản, có một nhánh Phật giáo Thiên Thai tông mang tên Hồi Phong Hành (回峰行 – Kaihōgyō). Họ có hình thức tu tập rất độc đáo: trong 7 năm, các “hành giả – người đi” sẽ phải làm 1000 ngày hành trình vòng quanh núi, 40 km mỗi ngày trong 100 ngày với năm đầu tiên, tăng dần lên 84 km mỗi ngày trong 100 ngày ở năm cuối cùng. Điều đáng nói là hành trình đi qua những vùng núi non hiểm trở, không phải 84 km trên đất bằng, trong mọi điều kiện thời tiết! Các hành giả không chỉ có đi mà vẫn phải tham gia hoạt động trong chùa, làm việc, học kinh sách, với chế độ ăn uống đạm bạc.

Đến năm cuối cùng, cuộc marathon trường kỳ này tăng lên đến mức chỉ có thể ngủ khoảng 2 tiếng mỗi ngày, liên tục như thế 100 ngày! Tổng hành trình hơn 40 ngàn km, hơn một vòng quanh quả đất! Người tham gia sẽ phải tự ép mình đến giới hạn của thể chất… Chạm đến ranh giới giữa sự sống và cái chết! 100 ngày đầu tiên, hành giả có quyền bỏ cuộc, nhưng kể từ ngày 101 trở đi, những ai bỏ cuộc, theo luật sẽ phải tự sát. Dọc theo con đường mà các hành giả đã đi trong suốt mấy trăm năm, rải rác hàng chục ngôi mộ những người đã tham gia nhưng thất bại, không thể kết thúc hành trình! Và họ cứ đi như thế, trên người dắt sẵn một con dao và một dải lụa trắng, chọn kết thúc theo cách nào là tùy ý!

Mãi đến sau này, một sắc lệnh Hoàng gia mới chấm dứt cái giới luật tự sát khắc nghiệt đó. Cho đến ngày nay, có chưa đến 50 người đã hoàn tất thử thách 1000 ngày này! Nên các nhà sư Phật giáo trên thế giới (và cả VN, như Thích Quảng Đức) đã từng làm nhiều chuyện vượt qua sự tưởng tượng của con người, đi bộ vài ngàn km đã là gì!? Nên khi ta thấy cái Báo Bồn Cầu – BBC bỗng dưng xưng tụng nhảm nhí “là người được chọn” này nọ… Ta lại bỗng thấy nó giống hệt như ngày xưa, mấy chục năm trước, tờ Times giật tít: “Thích Trí Quang, người làm rung chuyển thế giới”, v.v. và v.v. thì ta biết rằng chúng nó lại đang tìm cách ném ra một cái “bánh vẽ”!

Có những nỗ lực của đám truyền thông bẩn, sự giật dây của các thành phần tuyên truyền nước ngoài tìm cách biến một sự việc, một hoạt động mang tính cá nhân bình thường trở thành dậy sóng, siêu phàm, được khuếch đại lên qua cái lăng kính của sự vô minh, của dân trí thấp lè tè! Xưng tụng giả tạo, hão huyền là chúng nó, rồi tìm cách vấy bẩn, dàn cảnh, gán ghép, chụp mũ… cũng chính là chúng nó, cũng một đám, tự phân chia thành các “vai” chứ không ai khác! Ở đây ta sẽ thấy có đủ các thể loại “hành giả”: Tôn hành giả, Hành giả tôn, Giả hành tôn, Hành tôn giả, .v.v. truyện Tây du ký, đoạn viết về các loại “hành giả” này thật là thú vị!

Đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa

Haizza, do dân trí quá thấp nên mới dẫn đến tình trạng như vậy, chuyện không có gì lại trở thành những thanh âm vang vọng qua lại giữa những cái tôi “trống hoác” giống như nhau, cứ như là gió lùa qua hang trống vậy! Chuyện này phải nói làm sao cho rõ… Một mặt, tinh thần Phật giáo chính là không chấp nhất vào bất kỳ một con đường, một phương thức nào, một vị hòa thượng 50 năm tu hành chưa chắc đã được công đức như một đệ tử tục gia bình thường. Nhưng mặt khác, đã là con người thì phải có đoàn thể, luật lệ, và những giới luật của Tăng đoàn đã được đặt ra ngay từ thời Đức Phật còn sống chứ không phải bây giờ mới có, một số là do chính Đức Phật đặt ra! Sâu xa hơn, cái tranh luận giữa “đốn ngộ” và “tiệm ngộ” là một sự tranh luận xưa nay chưa có điểm dừng. Sự giác ngộ có thể đến, tại bất kỳ một giây phút nào, nhưng cũng có thể là phải trên căn bản của tinh tấn, của kỷ luật, cũng phải có một quá trình “hóa duyên” nào đó! Nên Đại thừa và Tiểu thừa, tuy khác nhau chút đỉnh về hình thức và phương pháp, nhưng tinh thần chung thì vẫn là… “bất nhị”! Quay trở lại với cái xã hội đã bị lưu manh hóa thời Mạt Pháp, chính vì không thể đánh đồng tất cả, nên cần phân biệt ra các kiểu lưu manh khác nhau! Em xin lỗi, nhưng cứ phải dùng đúng từ, đúng nghĩa, thẳng thắn như thế!

Kiểu lưu manh lớn: tổ chức thành công ty, kinh doanh vì lợi nhuận, đi theo con đường mê tín, tà đạo! Cái này vô cùng dễ thấy, ai ai cũng có thể nhìn thấy! Nhưng ở hướng ngược lại, có vô số sự lưu manh nhỏ mà người ta khó thấy hơn! Phần nhiều ở Nam tông, do giới luật lỏng lẻo, nên có vô số thành phần lười lao động, cũng bày đặt khoác y cầm bát, khất thực qua ngày, ở chùa rảnh rỗi nhàn cư sinh ra vô số tệ nạn! Đây là thực trạng khá phổ biến của Nam tông mà có vị từng thú nhận: suốt mấy chục năm đã tìm mọi cách nhưng vẫn không thể nào chấn chỉnh được! Trở lại một quan điểm trung dung, đã là người thì đều phải có hội đoàn, luật lệ, đều phải có quá trình! Như xưa mà dưới 10 năm hành trì thì chỉ gọi là “chú Tiểu”, 10 ~ 20 năm mới gọi là Đại Đức, từ 20 ~ 50 năm mới gọi là Thượng Tọa, và trên 50 năm tuổi Hạ mới mang danh Hòa Thượng! Chứ không phải bất kỳ một đứa thần kinh, tay cầm cái nồi cơm điện nào cũng có thể gọi là Sư được! Hoàn toàn không có ý phê phán ông Minh Tuệ gì đó, ông ta có đủ mọi quyền làm những gì mình muốn theo pháp luật! Chỉ là ở đây thấy rõ: những sự lưu manh nhỏ (của một xã hội dân trí thấp lè tè) đang tìm cách “mượn” ông ấy, “leo” sự kiện để bất mãn với những lưu manh lớn, nói một cách nôm na, hài hước thì chính là: đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa!

Viết tiếp ý, vì ngôn từ vắn tắt, nên có thể tạo ra cái nhận định thiên lệch là mình có thành kiến với ông Minh Đức gì đó! Đầu tiên nói rõ là việc “hành thiền” như thế này là một bài tập phổ biến trong Phật giáo, đã từng có rất nhiều người làm, thậm chí có người từng làm theo kiểu đau khổ hơn nhiều: đi 2 bước, lạy 1 bước, lạy đến khi sấp toàn bộ cơ thể xuống mặt đường, và lặp lại như thế suốt nhiều năm cho đến hết hành trình! Đây là 1 hình thức tu tập tương đối phổ biến, nhưng do các con ranh trên MXH chưa từng thấy, nên lấy đó làm điều kỳ diệu rồi tán tụng này nọ! Ma chướng xem ra vẫn còn nhiều lắm, kiếp nạn không phải chỉ có 72 lần! Mà ma chướng đến từ đâu!? Đầu tiên chính những thành phấn xưng tụng, bốc thơm là một dạng ma chướng, mục đích là tạo sự kiện, là câu view trên MXH! Tiếp nữa là vô số dạng ma chướng khác, vài năm trước, với 1 vị “hành giả” khác, từng xảy ra hiện tượng có nhóm người xăm trổ, hò hét dẹp đường cho “sư phụ”, thậm chí đánh người khác bị thương! “Hành giả” vẫn im lặng không nói, không thanh minh bất kỳ điều gì cho đến khi người ta hiểu ra đám “đệ tử” dẹp đường đó không biết là phường lưu manh ở đâu, chả có liên hệ gì với vị “hành giả”, nhưng dàn cảnh như đúng rồi vậy! Vụ việc tuy không đáng gì, nhưng xem ra lại là 1 phép thử đối với dân trí! Phải hành xử làm sao cho đúng với tinh thần: Bồ đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài!

nhân quả

Một trong vô số vấn đề của xã hội Việt… Đôi khi ta cứ phải đứng nhìn sự việc xảy ra như thế, vì nhiều lý do khác nhau: nói trước không ai tin, người ta còn cho rằng mình đạo đức giả. Và cũng phải xem xem, nhiều chuyện không phải nói là được, con người mà, không có “định lực”, không có “giá trị” bên trong nâng đỡ, rồi cũng như đám bầy nhầy ngoài kia! Chúng nó sẽ không từ một mánh khoé nào kéo bạn xuống bằng những trò lưu manh, cho ngang với chúng nó! Và cũng phải có thời gian để cho “nghiệp” nó tích tụ và hình thành…

Dù chỉ bằng suy nghĩ trong đầu thôi cũng đã trở thành “ý nghiệp” rồi! Có nhiều việc mà sự “thiện ý” đôi khi hoàn toàn bất lực, vì cái tâm vô minh của con người nó hoạt động theo một cách hoàn toàn khác, không dễ thay đổi, và đôi khi cách duy nhất để là để mặc cho sự việc diễn tiến! Yêu ai thì để cho họ sống theo cách mà họ muốn, mà ghét ai thì… cũng để cho họ sống theo cách mà họ muốn! Cứ để tự nhiên cho “nhân quả” hoàn thành vai trò của mình! Mượn một chuyện để nói, nhưng những chuyện khác cũng tương tự như thế!

công đức

Cứ phải “chính danh” như thế, nên làm thành luật, phải gọi đúng tên sự vật và sự việc, phải gọi đúng là “khu du lịch”, chứ không được dùng chữ “chùa”, tương tự cho những thứ như Ba Vàng, Bái Đính, Tam Chúc và vô số những “khu du lịch” khác… Đó là dành cho những người vừa thích đi du lịch, vừa ăn nhậu, vừa “cúng dường”, vừa chụp ảnh khoe Facebook, cứ rõ ràng minh bạch như thế! Còn chùa thật sự, đôi khi chỉ là một thảo đường nhỏ nhoi không ai biết đến, nhưng có lịch sử lâu đời, có học vấn công phu, sản sinh ra nhiều thế hệ cao tăng…

Như chùa Từ Hiếu – Huế vốn là nhánh Liễu Quán, phái Lâm Tế, Thiền tông, Đại thừa, lịch sử truy về gốc hàng trăm năm! Chứ không phải sáng muốn, chiều đổi ngay hệ phái, thay mặt nạ còn nhanh hơi show – biz lật mặt! Lịch sử chép rằng: Đạt Ma tổ sư từ Ấn Độ sang Trung Quốc, đến gặp Lương Vũ đế, người vốn rất hâm mộ đạo Phật và đã cho xây vô số chùa chiền, bảo tháp. Lương Vũ đế hỏi: Trẫm từ lúc lên ngôi đến nay, đã cho xây chùa, chép kinh, không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không? – Bồ đề Đạt ma đáp: Chẳng có công đức gì!

minh kính

Bồ đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài…
菩提本無樹,明鏡亦非臺。。。

Hiểu theo một nghĩa nào đó, sách là một tấm gương, người ta đọc sách chẳng qua là một hình thức tự phản chiếu tâm hồn mình! Cách nói: “một tấm gương để noi theo” là sai hoàn toàn về ngữ nghĩa, vì khi soi gương, người ta chỉ thấy chính mình trong đó mà thôi! Có nhiều người cũng có đọc, có soi đấy, nhưng không có sự vận động, biến đổi nội tâm, rút cuộc cũng chỉ trở thành một dạng máy photocopy! Nếu hiểu theo nghĩa đó, soi một tấm gương xấu, gương méo có thể gây ảo giác, loạn thị, loạn thần! Và khoe nhà có hàng ngàn cuốn sách cũng giống như kiểu nói rằng: tôi đẹp là vì trong nhà có hàng ngàn cái gương vậy!

Thực chất, bạn chỉ cần 1, 2 cái mà thôi, có khi chả cần cái nào! Ấy nhưng thời buổi tiêu dùng, chúng nó cố gắng bơm vào đầu bạn cái suy nghĩ rằng mua càng nhiều gương càng tốt! Đã có rất nhiều người mua thật nhiều gương và sau đó tìm cách… chịu đựng nó, tìm cách vẽ nên vô số khuôn mặt biến ảo và phản chiếu lấp lánh trong những cái gương đó! Đến lúc chịu đựng hết nổi rồi thì sẽ biết là… đập mịa nó gương đi sẽ tốt hơn, nhất là tình trạng hàm lởm, hàng chợ, hàng độc hại, nhảm nhí tràn lan như hiện nay! Ảnh: đến tận giờ tôi vẫn đọc, chủ yếu là trên Kindle cho đỡ hại mắt, và mỗi năm chỉ đọc 1, 2 cuốn thôi, không nhiều hơn!

chánh niệm

Để tưởng nhớ bậc thầy “chánh niệm”, chi Từ Hiếu, nhánh Liễu Quán, phái Lâm Tế, Thiền tông, Đại thừa… người vừa rời cõi tạm! Giờ ai cũng nhắc như vẹt “chánh niệm”, cái “chánh” áp cuối trong “Bát chánh đạo”.

Chữ “niệm” này, chiết tự ra, trên là chữ “kim” – – hiện tại, dưới là chữ “tâm” – . Nên “niệm” có phải là cái tâm của bản thân, ngay tại đây, ngay lúc này không!? Nói thì dễ, nhưng làm siêu khó…

thiên kinh vạn quyển

Phật giáo tóm tắt qua những con số, khởi đầu trực tiếp từ số 2 (không tính từ 1, từ 1 lên 2 bỏ qua, không trả lời những thứ siêu hình, những phạm trù “bất khả tư nghì”, không thể hiểu được với người-trần mắt-thịt). Kinh Phật chứa đầy những danh sách và con số, chúng thường mang ý nghĩa tập hợp và biểu tượng, ví dụ như 8 vạn 4 ngàn (84.000) là biểu trưng cho một đại lượng rất lớn, vì đương thời chưa có khái niệm, ký hiệu “inf – vô tận”. Một vài con số cơ bản: 2. Nhân quả và duyên khởi, 3. Tam pháp ấn, 4. Tứ diệu đế, 5. Ngũ uẩn, 6. Lục căn, 7. Thất tình, 8. Bát chính đạo, etc…

Đi sâu vào là cả một hệ thống “ma trận” chằng chịt các khái niệm phức tạp về tâm lý và nhận thức! Người mới đọc Phật thường choáng vì không biết bắt đầu từ đâu, vì sách vở Phật giáo đúng nghĩa là “thiên kinh vạn quyển”, hiểu theo đúng nghĩa đen, số lượng kinh văn hiện còn lại qua những biến động lịch sử là trên 1 ngàn (!!!), ngắn thì vài chục dòng, kinh dài thì… vài chục ngàn dòng. Không một tôn giáo nào khác có khối lượng văn bản đồ sộ đến như vậy, chỉ nói loanh quanh về một chữ “tâm”. Nên nói Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là “cognitive science – khoa học nhận thức” là như thế!

tathāgata

Tathāgata… trong các kinh Phật, thường thấy xuất hiện chữ Tathāgata – 如來 – Như Lai, chữ này là đại từ nhân xưng tự thân, do đức Phật tự gọi mình, chứ không phải do người khác gọi! Hiểu như thế đọc kinh văn sẽ thấy dễ hiểu hơn. Tatha: do đó, như thế, và gata: đã vượt qua. Có một chút nhập nhằng chỗ này, vì “Tathāgata” (tatha + gata) cũng có thể được chiết tự thành “tatha” và “agata”, mà “agata” là phản nghĩa của “gata”, tức là đến, chứ không phải là đi, Hoa văn hiểu như thế nên dịch thành “lai” (Như Lai). Có nhiều cách hiểu: đã đến hay đã đi, hay đã vượt qua, là vượt qua cái gì? Thật ra ngôn ngữ Phật giáo chỉ trở nên trừu tượng và đầy tính lý luận trong các kinh điển về sau!

Đương thời, Phật dùng từ một cách bình dân, có tính vừa gợi mở, vừa thực tế, tránh các câu hỏi siêu hình hay lý luận hình thức! Một tên hiệu thường gặp nữa của Phật là “Sugata”, ở đây ta bắt gặp cái động từ mà đức Phật rất “thích” dùng: “gate – tiếng Anh: to go”, đi, vượt qua, tiếng Hoa thường dịch “Sugata” thành “Thiện thệ – 善逝” hay “Hảo khứ – 好去”, dịch khá hay, nhưng “lai” hay “khứ” đều không thể hiện chính xác lắm, nên có một chút hàm ý chủ động trong đó! Tathāgata theo tôi, nên hiểu là: người đã vượt qua đến bờ bên kia (của bể khổ)! Về chữ “khổ” – Duḥkha, nó không mang nghĩa “khổ đau, bất hạnh” như chúng ta thường nghĩ, sẽ đề cập đến trong 1 post khác!

tự tính

Bạn có thể đem khỉ ra khỏi rừng, nhưng không thể đem rừng ra khỏi khỉ! Với khỉ, rừng là bản năng, là lẽ sống, hiểu tương đối là một dạng “tự tính – 自性 – svabhāva”! Đốn đến cái cây cuối cùng sẽ nhận ra, hoá ra chúng ta vẫn là những con khỉ nhớ rừng, cần có rừng!

Chính cái ngộ nhận bản thân mình cao cấp hơn nên dẫn đến kiểu suy nghĩ lầm lạc đó! Chừng nào mà cái ham muốn “hơn người bất chấp” còn lớn hơn cái ham muốn “thay đổi bản thân”, thì mọi lý luận vẫn chỉ là nguỵ biện, con người vẫn chỉ là những kẻ phá hoại!

shakya

Về cái mà tôi hay gọi là “sự diễn dịch, phân tích lịch sử theo chiều ngược”, một “lỗi tư duy” phổ biến của 99% con người, tìm cách mô tả lại sự việc từ vị trí mình đang đứng, hay rất thường khi, diễn dịch lại quá khứ theo cách có thể đáp ứng (có lợi cho) các nhu cầu của cuộc sống hiện tại! Đó là một lỗi tư duy phổ biến, cố hữu, và hết sức nguy hiểm! Về đức Thích-ca Mâu-ni, thường được xem là “hoàng-tử” của dòng họ, “vương-quốc” Thích-ca (Shakya). Nhiều ý kiến cho rằng Shakya chính là Scythia, một nhánh người Aryan cổ! Theo các nghiên cứu hiện đại, thể chế chính trị của Shakya là Cộng-hoà (Republic) và nghị-viện, chứ không phải là Phong-kiến quân-chủ.

Cũng như nhiều quốc gia khác đương thời, hình thức chính quyền là Cộng-hoà, y hệt như La Mã trước thời Caesar, từ sau Caesar mới là đế chế, Caesar là Hoàng-đế đầu tiên! Trong tiếng Sanskrit, chữ Raja (Royal) chỉ người đứng đầu, người cầm quyền, chứ không mang nghĩa Hoàng-gia như sau này! Thực tế, thể chế phong kiến đầu tiên ở Ấn Độ cổ chỉ bắt đầu với Maurya, Bindusara và Ashoka, những Hoàng-đế mãi hơn 300 năm sau thời của đức Phật. Chính vì không có kiến thức về các thể chế Cộng-hoà thời cổ đại nên các sử gia (phong kiến) đời sau lần ngược trở lại, giải thích lịch sử “từ vị trí mình đang đứng”: Shakya trở thành vương-quốc và đức Phật trở thành hoàng-tử!

pali

Về Pali, và các ngôn ngữ khác của kinh Phật như: Sanskrit, chữ Phạn, etc… Sinh thời, đức Phật thuyết giảng bằng tiếng Prakrit, người anh em “bình dân” của Sanskrit. Vốn gốc đều là chung một ngôn ngữ, nhưng Prakrit là phần dễ hơn, bình dân hơn, phổ biến rộng rãi trong đại chúng, trong khi Sanskrit được ngữ pháp hoá chặt chẽ bằng các quy luật và trở thành ngôn ngữ chính xác của “tầng lớp trên”. Tuy vậy nhiều nghiên cứu cho rằng 2 nhánh ngôn ngữ này thông hiểu được với nhau chứ chưa đến mức trở thành các ngôn ngữ riêng biệt như sau này! Đã có lúc, có đệ tử đề nghị đức Phật truyền dạy giáo pháp bằng Sanskrit, nhưng đức Phật kiên quyết phản bác, đơn giản ông ấy muốn nói bằng thứ ngôn ngữ bình dân mà đại chúng có thể nghe và hiểu được! Càng về sau, Sanskrit càng trở nên chuẩn hoá, hàn lâm hoá, được dùng trong các nghi lễ tôn giáo Hinduism, Jainism, và Phật giáo!

Những lời dạy của đức Phật vốn được thể hiện bằng ngôn ngữ Prakrit! Vậy còn Pali là cái gì!? Cái tên Pali nhằm mô tả loại ngôn ngữ được sử dụng trong các kinh văn Theravada – Phật giáo nguyên thuỷ, nhưng cái tên đó chưa từng bao giờ được lịch sử ghi nhận! Người ta biết đến Pali, gọi bằng tên Pali thực chất chỉ qua các kinh văn của Theravada. Pali với Sanskrit có một mối liên hệ tương đối gần, tập từ vựng gần như tương đương, nhưng ngữ pháp Pali đơn giản hơn! Hiểu nôm na, Pali chính là một cái “hoá thạch”! Hoá thạch của một sinh vật cổ thực ra là cục đá mang hình dạng con sinh vật đó, chứ bản thân cục đá đó không phải là sinh vật! Tương tự như vậy, Pali chính là Prakrit thời kỳ đức Phật hoằng pháp, nhưng trong khi Prakrit tiếp tục phát triển, trở thành nhiều ngôn ngữ khác (sinh ngữ), còn Pali dừng lại, bất động với thời gian (tử ngữ), trở thành một ngôn ngữ kinh viện để lưu truyền hậu thế!

ananda

Về A-nan, người thị giả của đức Phật… khi Phật đã bắt đầu có tuổi, người muốn chọn một người hầu cận gần gũi phục vụ cho các công việc hàng ngày, lo ăn uống, sinh hoạt, lo tổ chức và truyền đạt các chỉ dạy cho Tăng-đoàn. Ca Diếp (và nhiều người khác) là các đại đệ tử của đức Phật, về học vấn đứng vào hàng đầu, nhưng lúc đó cũng đã có tuổi, người được chọn là A-nan vì nhiều lý do khác nhau. A-nan là em họ của đức Phật, bố của A-nan là anh em với bố của đức Phật, về quan hệ họ hàng là gần gũi. Kế đến nữa là A-nan còn trẻ, nhanh nhẹn phù hợp với công việc. A-nan với đức Phật một lòng tôn sùng, thành kính, chu đáo, và đặc biệt A-nan nổi tiếng với khả năng ghi nhớ siêu phàm, hàng vạn lời đức Phật nói ra, nói lúc nào, ở đâu, nói như thế nào, A-nan có thể lặp lại không sai sót.

Đại hội Kết-tập lần thứ nhất sau khi đức Phật nhập diệt, các đệ tử họp lại để “chuẩn hoá” những lời dạy, hội nghị này do Ca Diếp tổ chức! Hội nghị phụ thuộc rất nhiều vào A-nan, vì cái trí nhớ siêu phàm của ông ấy! Các kinh điển Phật giáo thường bắt đầu bằng câu: Evaṃ mayā śrūtaṃ, 如是我聞, Như thị ngã văn, Tôi nghe như vầy…, được cho là lời thuật của A-nan, A-nan thuật lại từng lời một, nếu tất cả 500 vị A-la-hán của Tăng-đoàn đều đồng ý thì lời đó trở thành kinh văn chính thức! Nhưng có một điều, A-nan là người duy nhất, trong số 500 thành viên hội đồng chưa… đắc quả A-la-hán! Chính bởi cái trí nhớ siêu phàm, cái gì cũng nhớ đó nên A-nan chưa thể đắc pháp, ít nhất là cho đến sau khi đức Phật khứ thế, những người khác, vì ít vướng bận vào ngôn ngữ, nên lại dễ thành công hơn!