vân hoành tần lĩnh

Xăm với tôi không phải là mê tín dị đoan, đơn giản chỉ là trò chơi chữ nghĩa mang tính giải trí. Hôm trước còn tự “sáng tác” ra trò gọi là “Cổ thi thiêm”, chọn ra 100 câu thơ Đường, đánh số từ 1 đến 100, rồi “randomize” – lấy ngẫu nhiên một số để đoán xem “hạn vận” thế nào. Bốc được ngay câu của Hàn Dũ: Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại, Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền.

Dịch nghĩa: Mây giăng ngang dãy núi Tần, nhà của ta ở đâu? Tuyết phủ đầy cửa ải Lam, ngựa không tiến lên được! Haiza, là điềm báo sự việc không suôn sẻ, cái gì là “nhà ở đâu”, thế nào là “ngựa không tiến”!? Nhưng nghĩ lại, mình đi bằng xuồng chứ có đi bằng ngựa đâu, nên thực ra cũng chẳng có can hệ gì, thôi kệ, xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều!

韓愈 – 左遷至藍關示姪孫湘

雲橫秦嶺家何在
雪擁藍關馬不前

serene – 3 vs. hello world – 3

A short paddling around with a friend, with Serene – 3 and Hello World – 3 along side each other. Hello World – 3 is more stable but slower, Serene – 3 is, by design, more nimble. For a very long time, I was just paddling alone and didn’t have a chance to observe my own boats in actions, very good feelings to see them from a 2nd person perspective!

serene – 3, part 29

First half of 2018 is kind of a huge mess for me, everything unsettled for quite a long period of time, and I could hardly find any times to go paddling at all. You could guess what the feelings were like, when the newly – built kayak has to stay dried for an extended period of time, and the paddler dwell into a rather prolonged fatigue mood. However, things got better gradually, most of my works has come back on the right track, and it is just so wonderful to get back onto water again!

There are so many things to be tried with the new kayak! But first, just some paddling around to wake up my muscles again after quite a long period of “hibernation”. And there are so many things that happens during my idle times, the 2 large bridges of Bình Khánh and Phước Khánh are being completed, crossing over the 2 waterways (Lòng Tàu and Soài Rạp) through which the Sài Gòn river flows to the sea. But what I worry most is the 3 large dams are being built, isolating a very large area.

All Nhà Bè and 7th districts would be isolated once the 3 dams are completed, no more rising and lowering tides, just but dead – flat water, that would be a very bad news, at least for a kayak – paddler like me, as boats crossing through the dams would only be allowed at certain times throughout a day. Yes, I certainly wouldn’t want to paddle in a large calm pool of static water, that’s no fun at all. But there’s still time (1 ~ 2 years) until all these big building projects got finished and put into uses.

nước mắt cá sấu

Một bài viết rất hay! Lại cái thói trí trá lặt vặt, muôn đời của người Việt, cứ hay lấy những giá trị cực đoan, cực hạn ra để thách đố người khác! Giáo dục là hướng con người đến những hành động đúng đắn, trong những tình huống bình thường hàng ngày, hướng đến một sự tiến bộ từ từ và thiết thực. Chứ không phải vẽ ra những mẫu hình đạo đức cao siêu không tưởng, thường chỉ xảy ra ở những tình huống cực đoan trong cuộc sống! Riết như thế một lúc sẽ trở thành những trò đạo đức giả!

Học sinh học cách khóc “nước mắt cá sấu” khi cần phải “diễn”, học cách vẽ ra những hình tượng đạo đức gương mẫu, nhưng thực tế thì ngược lại, sẵn sàng làm những trò lưu manh không nháy mắt trong các tình huống thực của cuộc sống! Thêm một bằng chứng về thói “đĩ miệng” và “lưu manh vặt” của người Việt, hai cái đó thường đi đôi với nhau! XH Việt vẫn luôn như thế, đa số vẫn bị lôi cuốn bởi những chuyện đạo đức giả đầy nước mắt cá sấu mà quên đi cách nhìn vào cốt lõi của vấn đề.

Ngay từ lúc còn rất nhỏ, cái bản chất bướng bỉnh của tôi vẫn luôn nhìn ra những chuyện như thế. Nói nghe có vẻ bất hiếu hay vô lễ, nhưng thực ra, chúng ta đang sống trong một xã hội mà cha mẹ không thực sự yêu con cái, họ chỉ yêu cái “vai” làm cha mẹ, thầy cô cũng không yêu học trò, họ chỉ yêu cái “vai” làm thầy, cô mà họ phải diễn. Tác hại của những điều ấy tưởng vô hình, khó thấy, nhưng thực rất khủng khiếp, nó đẻ ra những thế hệ mất niềm tin, nhưng lại rất giỏi diễn kịch!

Rút cuộc trở thành một cuộc thi ai “kể chuyện” hay hơn, ai lấy được nhiều nước mắt hơn, còn hơn cả… một lũ bán hàng đa cấp! Nguy hại là những điều ấy xâm nhập trường cấp 1, 2, tiêm nhiễm những đầu óc còn non nớt! Sự đổ vỡ tâm hồn là hậu quả hiển nhiên tất yếu, khi con người ta bị dồn nén mãi bởi những điều “có vẻ tốt đẹp nhưng lại không có thực”, nó phải tự giải thoát theo chiều hướng ngược lại: lưu manh, xảo trá, càng nguy hiểm hơn dưới những vỏ bọc “tốt đẹp” nguỵ tạo như đã nói trên!

operation frankton

Một tượng đài đẹp… để tưởng nhó chiến dịch được xem là can đảm và liều lĩnh nhất Thế chiến II của Thuỷ quân lục chiến Hoàng gia Anh, 10 biệt kích được thả từ tàu ngầm, chèo 5 chiếc kayak đôi trong 4 ngày để tiếp cận cảng Bordeaux, Pháp, đặt mìn và đánh chìm tàu Đức.

Mỗi chiếc kayak chở theo 50 kg thuốc nổ, lương thực nước uống cho 6 ngày, chưa kể súng đạn và các trang thiết bị khác. Thời tiết tháng 12 năm 1942 lạnh cóng, sóng lớn và dòng chảy ngược có lúc đến 14 knot. Chỉ 2 trong số 10 người tham gia chiến dịch sống sót trở về…

gymnasium

Rút cuộc, tại sao cây quất trồng ở phía nam sông Hoài thì cho quả ngọt, mà cũng cây ấy, đem sang trồng ở bờ bắc sông Hoài thì quả lại chua!?

Những “gymnasium”, nôm na giống như kiểu “trường chuyên lớp chọn” ở VN (nhưng “chất” hơn nhiều), không phải là một sản phẩm của một Liên Xô XHCN, mà thực ra, đã có từ thời các Sa hoàng. Khi người Nga tiếp xúc với văn minh châu Âu, cảm thấy mình lạc hậu, thua kém, nên đã học tập những mô hình giáo dục có tính hàn lâm rất cao, hoặc tính hướng nghiệp từ rất sớm (những mô hình xưa cũ của Đức, Áo). Trẻ ngay từ những năm 10 ~ 12 tuổi đã được tiếp cận và định hướng nghề nghiệp tương lai. Đó có thể là chuyên sâu về những ngành lý thuyết: toán, lý, hoá… hay học về những ngành nghề, kỹ nghệ, kỹ thuật đặc thù khác.

Nhưng không như người Việt, thường coi khinh lao động chân tay, người Nga đào tạo những nghề chuyên sâu như điện, hàn, cơ khí, etc… tạo nên những người thợ có “đôi bàn tay vàng” mà thiếu nó thì toán, lý, hoá… thuần tuý lý thuyết không thể đẻ ra máy bay, tên lửa được. Cũng bắt chước y như thế, nhưng hệ thống “trường chuyên lớp chọn” ở VN không đem lại một thành tựu đáng kể nào! Tại sao lại như thế!? Tại sao cây quất trồng ở phía nam sông Hoài thì cho quả ngọt, mà cũng cây đó, đem sang trồng ở bắc sông Hoài thì quả lại chua!? Câu hỏi tưởng chừng khó trả lời, nhưng thực ra lại rất dể hiểu khi tiếp cận ở tầng con người, tầng văn hoá!

Trước hết, trẻ em Nga được dạy “từ dưới lên” chứ không phải “từ trên xuống”, họ không dạy trẻ ngay các vấn đề thuần tuý lý thuyết. Ngay từ thời Sô Viết, hơn 1/3 số hộ gia đình Nga, vừa có nhà (hay căn hộ), vừa có “dacha”. “Dacha” là một nét văn hoá đặc trưng chỉ có ở người Nga, một kiểu nhà nhỏ, túp lều ở miền nông thôn, ngoại ô, nơi các gia đình nghỉ ngơi cuối tuần, xa căn nhà chính của họ ở thành phố! Một lối sống gần gũi thiên nhiên, nơi trẻ có thể làm vườn, tắm sông, chèo thuyền hay đi buồm trên sông, trên hồ. Lối sống “gần mặt đất”, vận động nhiều là phổ biến từ thời xa xưa, dù đó có là thời Sa hoàng, thời Sô Viết hay thời bây giờ.

Trẻ được khuyến khích chơi các trò thể thao mạo hiểm: kayak vượt thác, leo núi, tham gia các hoạt động dã ngoại, kích thích trí tò mò và niềm vui, sự hứng khởi của chúng với các hiện tượng của thiên nhiên, và sớm phát triển một ý thức về cách thức vận hành của vạn vật, cũng như ý thức về vai trò, nhiệm vụ, khả năng… của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Cần phải nói rõ rằng những điều này hướng trẻ vào việc tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh và cũng để hiểu rõ về chính bản thân, thay vì dây vào những điều nhảm nhí, xàm xí khác trong xã hội! Đây là yếu tố tiên quyết, rằng trẻ phải được dạy để “chơi”, chứ không được dạy để “học”.

Học mà theo kiểu thành tích, bằng cấp thì chỉ vô ích! Bước tiếp theo là nền giáo dục chuyên sâu, dù về lý thuyết, hay về kỹ năng thực hành! Họ không coi khinh mặt nào cả! Một người thợ hàn những mối nối trên thân tàu ngầm là một dạng thợ bậc rất cao, cần nhiều chục năm rèn luyện tay nghề, và được trả lương cao hơn một kỹ sư bình thường khác. Từ các ông thầy cho đến các sinh viên, họ tập trung vào những vấn đề thiết thực trong cuộc sống, giải quyết những yêu cầu thực tế của xã hội, chứ không ngồi đó mà đánh đố nhau bằng các “kiến thức chết” như kiểu những trò lố “Đường lên đỉnh Olympia”, hay “SV” một thuở!

Nói về Olympia hay SV, tôi thấy không có gì nhảm nhí và lố bịch hơn thế, nói hoàn toàn thật lòng! Chưa bao giờ tôi xem được nhiều hơn 5, 10 phút! Như Olympia, khoảng 30% trường hợp đã thấy ngay từ cách đặt câu hỏi đã có vấn đề, chưa nói đến câu trả lời! Và những câu trả lời, toàn là những loại “kiến thức chết” (thực ra đúng hơn mới chỉ là những loại “đơn thuần là thông tin”, chưa hẳn là “kiến thức” thực sự). Nó đánh vào cái tôi ưa tỏ ra “hiểu biết”, “ưa hơn người” mà chỉ bằng những lời nói suông, một cách thô tục và gay gắt (nhưng rất đúng) phải nên gọi là “đĩ miệng” – hoàn toàn vô tích sự trước những vấn đề thiết thực của cuộc sống!

Giáo dục không phải chỉ giúp đào tạo kỹ năng hay kiến thức! Sâu xa hơn, giáo dục phải giúp nuôi dưỡng tâm hồn con người, làm cho nó chiều sâu và nhiều màu sắc, và đây là yếu tố quyết định những thành quả khác trong những giai đoạn lâu dài về sau trong cuộc đời trẻ. Nhưng “tâm hồn” ư, nói về “tâm hồn” trong một xã hội như Việt Nam hiện tại nghe có vẻ xa vời, vô ích và huyễn hoặc! Những gì chúng ta đang có là một thế hệ vô hồn, những tội ác vô hồn, những “quái thai ngâm giấm” của thời đại! Công bằng mà nói, không phải bây giờ mới có những điều ấy, có thể đã có từ rất sớm, hàng chục hay có thể là cả hàng trăm năm về trước!

the left ear

Yêu, nếu như đúng thì gọi là ái tình. Yêu, nếu như sai thì gọi là tuổi thanh xuân – When love lasts, it’s true love, when it doesn’t, it’s youth! 爱对了是爱情。爱错了是青春。。。

tiêu hạ khách

蕉下客

Giả Thám Xuân – “cô Ba hoa hồng” của phủ Vinh quốc công – Tiêu hạ khách của Hải Đường thi xã – 30 năm trước xem phim chỉ thích mỗi một nhân vật này! Không xinh đẹp như Tiêu Tương phi tử – Lâm Đại Ngọc, không thông minh như Hành Vu quân – Tiết Bảo Thoa, nhưng tài năng, phẩm hạnh đôi đường trọn vẹn, trong Kim Lăng thập nhị thoa chính sách vẫn là người có kết cục tốt đẹp nhất, phúc trạch được viên mãn về sau!

Đường xa mưa gió một chèo
Cửa nhà, ruột thịt thôi đều bỏ qua.
Con đành lỗi với mẹ cha,
Khóc thương chỉ thiệt thân già đấy thôi.
Cùng thông số đã định rồi,

Hợp tan âu cũng duyên trời chi đây.

Phân chia hai ngả từ nay,

Dám mong giữ được ngày ngày bình yên.

Con đi xin chớ lo phiền!

uổng ngưng mi

枉凝眉

Đàn cổ tranh và diễn xướng, bài Uổng ngưng mi, chính là bài nhạc giáo đầu phim Hồng lâu mộng phiên bản 1987. Càng nghe càng thấy “nể và sợ” gia tài văn hoá, thi ca, âm nhạc cổ điển Trung Hoa. Mặc dù với thời gian, chiến tranh, loạn lạc… nhạc phổ các thời Tống, Nguyên trở về trước hầu như đã tiêu tán, thất truyền hoàn toàn, nhưng nhạc phổ của các triều Minh, Thanh vẫn còn được bảo tồn khá nguyên vẹn cho đến ngày nay!

Một bên hoa nở vườn tiên,
Một bên ngọc đẹp không hoen ố màu.
Bảo rằng chẳng có duyên đâu,
Thì sao lại được gặp nhau kiếp này?
Bảo rằng đã sẵn duyên may,

Thì sao lại chóng đổi thay lời nguyền?
Một bên ngầm ngấm than phiền,

Một bên đeo đẳng hão huyền uổng công!

Một bên trăng rọi trên sông,

Một bên hoa nở bóng lồng trong gương.

Mắt này có mấy giọt sương,

Mà tuôn chảy suốt năm trường, được chăng?

sơn pha dương

山坡羊

Coi mãi không chán, đoạn này, Quách Tĩnh cõng Hoàng Dung lên núi cầu xin Nhất Đăng đại sư trị thương, gặp người Tiều phu, một trong bốn đệ tử của Nhất Đăng. Đoạn phim không có đánh đấm gì, đơn giản chỉ là “khoe” kho tàng văn hoá cổ Trung Quốc! Người tiều phu thoạt tiên hát một điệu Sơn pha dương, bài Hàm Dương hoài cổ, rồi lại tiếp tục hát theo điệu đó, một bài Đồng Quan hoài cổ.

Hoàng Dung bèn đáp lại cũng bằng một bài theo điệu Sơn pha dương – Đạo tình. Phải hiểu cổ văn thì mới cảm nhận hết được cái hay tuyệt diệu của trường đoạn phim này, hai người đối đáp với nhau chỉ toàn dùng thơ và nhạc, trích dẫn ba bài thơ đời Nguyên và một điệu nhạc “Sơn pha dương”. Đồng thời cũng thấy rõ dụng tâm, công phu dàn dựng đoạn phim, giới thiệu đồng thời cả cổ văn và cổ nhạc Trung Quốc!

ngũ bách niên tang điền thương hải

五百年桑田滄海

Lại nói về phim Tây Du Ký. Những năm 80, xã hội TQ bắt đầu có chút cởi mở, người làm phim mượn hình ảnh Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành suốt 500 năm để khéo léo phản đối nhà cầm quyền: Ròng rã năm trăm năm, Ruộng dâu hoá bể xanh, Đá mòn rêu xanh bám, Nhưng trái tim vẫn lành. Vẫn hướng về tự do, Ngại chi ngày lửa đỏ… May mắn đây đã là những năm của “Lão Đặng” với cái lý luận “mèo đen, mèo trắng”…

Năm trăm năm, vật đổi sao dời,
Đá vô tri cũng ngậm ngùi rêu xanh.
Năm trăm năm! năm trăm năm!
Ngũ Hành Sơn nặng, giam cầm thân ta.
Bao ngày tuyết nổi, sương sa,
Cuối trời hút bóng, mắt nhoà cánh chim.
Còn đây rạo rực trái tim,
Thương về chốn cũ, mãi tìm tiêu dao.
Anh hùng ngang dọc trời cao,
Sá chi lửa đốt, sợ nào giá băng.
Vẫn nguyên chí hướng tung hoành,
Lòng tin ở lẽ công bằng vẫn nguyên.
Tiếc thay năm tháng triền miên,
Trách ta, thành kẻ than phiền, vô công.
Vì sao, vì sao? Chí tang bồng,
Thành thân cá chậu, chim lồng hỡi ai!?

thành ngữ 4 chữ

四个字的成语









Xưa xem phim Hoàn Châu cách cách, Tiểu Yến Tử sau khi học Tam tự kinh (kinh 3 chữ) thì tiếp tục học sử dụng thành ngữ 4 chữ. Đây là khởi đầu của vô số màn hài hước đặc sắc trong phim, vì Tiểu Yến Tử thì siêu dốt về chữ nghĩa, mà thành ngữ 4 chữ trong cổ văn TQ có đến hàng vạn vạn. Chỉ riêng những thành ngữ bắt đầu với chữ “nhất” cũng có đến 3 ngàn, học 1 chữ “nhất” này cả năm cũng chưa hết, ví dụ như:

Nhất ngôn vi định, nhất phàm phong thuận, nhất nhật tam thu, nhất phiến băng tâm, nhất tự thiên kim, nhất đao lưỡng đoạn, nhất bản vạn lợi, nhất bộ đăng thiên, nhất ngôn nan tận, nhất ngôn cửu đỉnh, nhất hô bách ứng, nhất diệp tri thu, nhất lộ bình an, nhất tiễn song điêu, nhất cử lưỡng tiện, nhất thạch nhị điểu, nhất thế chi hùng, nhất kiến như cố, nhất quốc tam công, nhất triêu nhất tịch, nhất tảo nhi không, nhất tự vi sư, etc…

Cái sự dốt của Tiểu Yến Tử được sử dụng làm yếu tố gây cười xuyên suốt phim, đồng thời với khán giả mà nói, cũng là một công cụ giáo dục. Thành ngữ 4 chữ rất phổ biến trong cổ văn TQ, đôi khi cả đoạn văn dài dùng toàn thành ngữ, nghe cân đối, nhịp nhàng, ngắn gọn, súc tích. Ngay cả khi không dùng thành ngữ thì thói quen dùng cụm 4 từ cũng rất phổ biến trong hành văn cổ, như thế nghe mới có vẻ “có học thức” và “sang trọng”.

Con đường đào tạo từ một cô gái mãi võ giang hồ trở thành một công chúa quý tộc phải trãi qua rất nhiều chông gai, đầu tiên là những bước giáo dục cơ bản này. Mặc dù chưa bao giờ thật sự thích xem những kiểu phim drama như Hoàn Châu cách cách, nhưng vẫn xem để học thêm về cổ văn (tốt nhất nên xem phụ đề tiếng Trung). Dưới đây là một số thành ngữ 4 chữ phổ biến thường sử dụng trong phim kiếm hiệp, cổ trang:

牛嚼牡丹 – Ngưu tước mẫu đơn – Bò ăn hoa mẫu đơn
猫哭老鼠 – Miêu khốc lão thử – Mèo khóc chuột già
笑里藏刀 – Tiếu lý tàng đao – Dấu dao trong nụ cười
海里捞针 – Hải lý lao châm – Mò kim đáy bể
班门弄斧 – Ban môn lộng cân – Múa rìu trước cửa Lỗ Ban
借刀杀人 – Tá đao sát nhân – Mượn đao giết người
冤家路窄 – Oan gia lộ trách – Ngõ hẹp gặp oan gia
水中捞月 – Thủy trung lao nguyệt – Mò trăng đáy nước
打草惊蛇 – Đả thảo kinh xà – Đánh cỏ động rắn
对牛弹琴 – Đối ngưu đàn cầm – Đàn gảy tai trâu
过河拆桥 – Quá hà sách kiều – Qua cầu rút ván
落叶归根 – Lạc diệp quy căn – Lá rụng về cội
亡羊补牢 – Vong dương bổ lao – Mất bò mới lo làm chuồng
守株待兔 – Thủ chu đãi thố – Ôm cây đợi thỏ
顺水推舟 – Thuận thuỷ thôi chu – Thuận nước đẩy thuyền
以卵击石 – Dĩ noãn kích thạch – Lấy trứng chọi đá
走马观花 – Tẩu mã quan hoa – Cưỡi ngựa xem hoa
斩草除根 – Trảm thảo trừ căn – Nhổ cỏ tận gốc
一箭双雕 – Nhất tiễn song điêu – 1 mũi tên trúng 2 đích
半斤八两 – Bán cân bát lượng – Kẻ tám lạng, người nửa cân
不共戴天 – Bất cộng đái thiên – Không đội trời chung
不可思谊 – Bất khả tư nghì – “Không thể giảng cho hiểu được”
闭月羞花 – Bế nguyệt tu hoa – Hoa nhường nguyệt thẹn
甘拜下风 – Cam bái hạ phong – Cam chịu nhận thua
指腹为婚 – Chỉ phúc vi hôn – Hứa hôn từ trong bụng mẹ
孤掌难鸣 – Cô chưởng nan minh – 1 bàn tay vỗ không thành tiếng kêu
强词夺理 – Cưỡng từ đoạt lý – Nguỵ biện, nói xàm xí
造极登峰 – Tạo cực đăng phong – Đạt tới đỉnh cao
同归于尽 – Đồng quy vu tận – Cả 2 cùng chết
一帆风顺 – Nhất phàm phong thuận – Thuận buồm xuôi gió
拔刀相助 – Bạt đao tương trợ – Rút đao giúp đỡ
衣锦还乡 – Y cẩm hoàn hương – Áo gấm về làng
掩耳盗铃 – Yểm nhĩ đạo linh – Bịt tai trộm chuông
恒河沙数 – Hằng hà sa số – Nhiều như số hạt cát bên bờ sông Hằng
木已成舟 – Mộc dĩ thành chu – Ván đã đóng thuyền
锦衣夜行 – Cẩm y dạ hành – Áo gấm đi đêm
饮水思源 – Ẩm thuỷ tư nguyên – Uống nước nhớ nguồn
流沙掌中 – Lưu sa chưởng trung – Cát chảy trong lòng bàn tay
望子成龙 – Vọng tử thành long – Mong con thành tài
传宗接代 – Truyền tông tiếp đại – Nối dõi tông đường
反复无常 – Phản phục vô thường – Thường xuyên thay đổi
了如指掌 – Liễu như chỉ chưởng – Rõ như trong lòng bàn tay
幸灾乐祸 – Hạnh tai lạc hoạ – Cười trên nỗi đau của người khác
狐假虎威 – Hồ giả hổ uy – Cáo mượn oai hùm
两全其美 – Lưỡng toàn kỳ mỹ – Vẹn cả đôi đường
措手不及 – Thố thủ bất cập – Trở tay không kịp
望梅止渴 – Vọng mai chỉ khát – Trông mơ giải khát, ăn bánh vẽ
一刀两断 – Nhất đao lưỡng đoạn – Chém 1 đao thành 2 khúc
夜长梦多 – Dạ trường mộng đa – Đêm dài lắm mộng
炉火纯青 – Lô hoả thuần thanh – Lửa trong lò toàn 1 màu xanh
同床异梦 – Đồng sàng dị mộng – Chung giường nhưng khác mộng
失之毫厘,差之千里 – Thất chi hào ly, sai chi thiên lý
宁为玉碎,不为瓦全 – Trữ vi ngọc toái, bất vi ngoã toàn
良药苦口,忠言逆耳 – Lương dược khổ khẩu, trung ngôn nghịch nhĩ
道高一尺,魔高一丈 – Đạo cao nhất xích, ma cao nhất trượng
处女守身,处士守名 – Xử nữ thủ thân, xử sĩ thủ danh
英雄气短,儿女情长 – Anh hùng khí đoản, nhi nữ tình trường
近朱者赤,近墨者黑 – Cận chu giả xích, cận mặc giả hắc
近在眼前,远在天边 – Cận tại nhãn tiền, viễn tại thiên biên
龙生九子,各不相同 – Long sinh cửu tử, các bất tương đồng
永结同心,百年好合 – Vĩnh kết đồng tâm, bách niên hảo hợp
江山异改,本性难移 – Giang sơn dị cải, bản tính nan di
白刀子进,红刀子出 – Bạch đao tử tiến, hồng đao tử xuất
君子报仇,十年不晚 – Quân tử báo cừu, thập niên bất vãn
十年树木,百年树人 – Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân
狗口里生,不出象牙 – Cẩu khẩu lý sinh, bất xuất tượng nha
老鼠看书,咬文嚼字 – Lão thử khán thư, giảo văn tước tự
青山不改,泉水长流,后会有其 – Thanh sơn bất cải, tuyền thuỷ trường lưu, hậu hội hữu kỳ

thanh mai trúc mã

青梅竹马

Đọc truyện, xem phim thường thấy sử dụng thành ngữ “thanh mai trúc mã”, nhưng không để ý lắm đến xuất xứ của nó, hôm nay chợt nghĩ ra, “bụng đầy thơ” như mình sao bây giờ mới nhận ra chính là từ trong bài Trường Can hành của Lý Bạch hay đọc hồi nhỏ: Thiếp phát sơ phú ngạch, Chiết hoa môn tiền kịch, Lang kỵ trúc mã lai, Nhiễu sàng lộng thanh mai, Đồng cư Trường Can lý, Lưỡng tiểu vô hiềm sai, Thập tứ vi quân phụ…

Dịch nghĩa: Tóc em khi mới xoã ngang trán, Bẻ hoa trước cửa nhà chơi, Chàng cưỡi ngựa tre lại, Chạy quanh giường nghịch ném quả mơ xanh. “Trúc mã” chính là cây gậy trúc mà mấy cậu nhóc hay đóng giả làm ngựa, “thanh mai” là quả mơ chế biến thành món ô mai mà các cô bé hay ăn. Bài thơ mô tả chuyện tình của 2 đứa bé lớn lên bên nhau, từ nhỏ đến khi thành niên. Haizza, ai xui ngày xưa cụ Lý Bạch viết “ngôn tình” vậy ta!?

Trường Can hành – Lý Bạch

Trán em tóc mới chấm ngang,
Bẻ hoa trước ngõ, ngoài đàng đứng chơi.
Ngựa tre, chàng cỡi tới nơi,
Vui đùa ném trái mơ chơi quanh giường.
Trường Can, cùng chỗ náu nương,
Trẻ thơ chẳng có vấn vương ý gì.
Lấy chàng, mười bốn, biết chi!
Thẹn thùng, nên chẳng mấy khi ra ngoài.
Cúi đầu, quay mặt vách hoài,
Nghìn lần chàng gọi, không quay một lần.
Mười lăm, mày mới nở dần,
Nguyện cùng gian khổ quây quần bên nhau.
Tin nhau từ thuở ban đầu,
Có đâu nghĩ chuyện lên lầu ngóng trông.

Mới năm mười sáu, xa chồng,
Cù Đường, Diễm Dự, xót trông xa vời.
Tháng năm, chẳng đến được nơi,
Mãi nghe tiếng vượn bên trời bi ai.
Trước sân, dấu bước in dài,
Giờ rêu xanh phủ, đều phai mờ rồi.
Rêu dầy, khó quét, đành thôi,
Gió thu sớm thổi, lá rơi rụng đầy.
Bướm vàng tháng tám, lượn bay,
Từng đôi trên cỏ vườn tây chập chờn.
Lòng em chua xót, cô đơn,
Má hồng thấy đã già hơn trước rồi.
Tam Ba, chàng sẽ xuống thôi,
Gửi thư báo trước về nơi quê nhà.
Đón chàng chẳng quản đường xa,
Trường Phong Sa đến, thế là gặp nhau.

tháng năm vội vã

匆匆那年

Tháng năm vội vã – Thông thông na niên – 匆匆那年, một phim hay cho độ tuổi trung niên (và cho cả những người đã lớn muốn soi lại quãng đời tuổi trẻ đã qua). Tuy không phải là một phim quá xuất sắc trong cảm nhận của tôi, nhưng phim có một bản nhạc cùng tên tuyệt vời, với giọng hát như mây bay, nước chảy, như gió thổi của Vương Phi, và cái tiết tấu vội vàng của nó, như những hình ảnh mau chóng lướt qua, những hồi ức đẹp đẽ về những tháng năm tuổi trẻ say mê và khờ dại. Trong con mắt khán giả phương Tây, những nhân vật chính trong phim hiện ra có chút nông nổi, thiếu kiềm chế và nhẫn nại trước những sóng gió trong cuộc đời, để rồi cuộc tình có nhiều hệ luỵ đau thương.

Nhưng đó chính là những gì diễn ra trong một xã hội đang trên đà thị trường hoá, những khủng hoảng “giá trị cá nhân”, ai cũng mãi chạy theo “một điều gì đó”. Cũng là những gì tuổi trẻ chưa thể có, chưa hiểu thấu chính mình, chưa lường hết những ngã rẽ cuộc đời. Ca từ viết rất hay, có thể gián tiếp nói lên những điều vốn rất khó thành từ ngữ: Đừng trách mối tình không có thời gian để tập luyện, chính là tháng năm đã khoan dung ban tặng thời gian để chúng ta quên đi lời hẹn ước. Đừng trách ai cũng không thể có một lần yêu trọn vẹn, chính là thời gian đã thiện ý lưu lại những vấn vương vụn vỡ. Bởi chúng ta đã không hiểu rằng những lời hứa mãi bên nhau cố chấp ấy chỉ là những lời báo trước chia tay.

kon tiki

Biên giới ư, tôi chưa thấy nó bao giờ,
chỉ nghe nói rằng nó có tồn tại trong
tâm trí của một số người…

Phía bên kia quảng trường, một tấm bảng chữ Hoa đề: 民天藥房 – Dân Thiên dược phòng, à thì ra là một tiệm thuốc bắc, cả dãy phố này, có đến 3, 4 tiệm như thế. Rồi chợt nhớ lại cái không gian này, một vài tiệm đề: “hiệu buôn X”, “hiệu buôn Y” (không dùng chữ “cửa hàng” hay “shop” như bây giờ). Một vài tiệm may, hiệu thuốc tây, một tiệm đóng giày, một tiệm sửa đồng hồ với những chiếc đồng hồ quả lắc vàng choé tinh xảo, phức tạp, lồng trong những chuông thuỷ tinh lóng lánh, sang trọng, thật là những “kỳ quan cơ giới” cuốn hút sự tò mò của một cậu bé đang lớn…

Tôi đang hồi tưởng lại một thành phố Đà Nẵng nhỏ xíu của gần 30 năm về trước, dans la chaleur immobile, la ville blanche – thành phố trắng toát trong cái nóng bất động. Học sinh ríu rít tan trường ra về, bên hông nhà hát lớn, bức phù điêu làm từ những mảnh gốm ghép rườm rà, xấu xí, có một sân banh mini, các chàng trai trẻ cởi áo trắng mãi miết đá bóng. Cách chỉ vài chục mét có một thư viện cộng đồng nhỏ, đến tận bây giờ vẫn chưa biết là do ai lập ra. Có một thằng ôn con đang chăm chỉ đọc sách, thư viện bé xíu chỉ có độ 1, 2 trăm đầu sách, trong đó có cuốn dưới đây.

lý tính thuần tuý

Nhớ lại thi học kỳ môn học gì quên mất tên, bộ môn Trí tuệ Nhân tạo, khoa Công nghệ Thông tin, Đại học Khoa học tự nhiên, tp. HCM quãng năm 2000… Lần đầu tiên thấy đề thi của một trường học XHCN lại có một câu đầy tính siêu hình học (metaphysics) như thế này: Triết gia Immanuel Kant có câu: Không có bản chất, chỉ có hiện tượng. Anh chị hãy bình luận, phân tích về câu trên và đường hướng áp dụng vào trong ngữ cảnh môn học Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence).

Nhớ lại chính tôi, những năm 19, 20 tuổi, suốt ngày đọc Kant và Nietzsche, cực kỳ say mê: Phê bình lý tính thuần tuý (Critique of pure reason). Thậm chí muốn học tiếng Đức để đọc được Kant nguyên bản! Bây giờ đã gấp đôi tuổi đó, chỉ thích chèo thuyền vượt biển. Đôi khi ta phải biết ơn tất cả những đổi thay, thăng trầm, dù là “thăng” hay “trầm” của cuộc sống! Cũng bởi vì “Trí tuệ nhân tạo” (Artificial Intelligence) chả thế éo nào mà thắng nổi “Ngu xuẩn tự nhiên” (Natural Stupidity)!

stoic romanticism

To look back a few beautiful moments in my life, well, for me, that’s a kind of Stoic Romanticism – một kiểu chủ nghĩa lãng mạn khắc kỷ: những người theo trường phái khắc kỷ quan tâm về mối quan hệ giữa vũ trụ và sự tự do của con người, họ có niềm tin rằng con người có thể đạt được đến đạo đức bằng cách duy trì ý chí hòa hợp với tự nhiên.

Lưu ý rằng, mấy chục năm về trước, stoicism – chủ nghĩa khắc kỷ, hay ít nhất định nghĩa của nó trong tiếng Việt được hiểu theo một nghĩa khá khác biệt. Quan điểm hiện đại về “stoicism” cho nó một nội hàm mang tính chiết trung, tích cực hơn, đơn giản nhấn mạnh đến tính kỷ luật của hành động, ngày xưa, khắc kỷ mang hàm nghĩa khổ hạnh rõ rệt!

Đoạn 1: cắm trại trên bãi bồi giữa cửa Tiểu và cửa Đại, 2 cửa đầu tiên trong 9 cửa sông Cửu Long, một ngày cực kỳ yên tĩnh, cắm trại, nấu cơm, nằm lắng nghe những tiếng bọt nước li ti vỡ tan, tiếng động rất khẽ khi con nước thuỷ triều len lén dâng cao, tiếng những con cua, con còng thò thụt đầu ra khỏi hang, tiếng mưa rơi tí tách trên mái lều.

Đoạn 2: vượt 2 cửa biển Cổ Chiên và Cung Hầu, bên kia là Trường Long Hoà, Duyên Hải, Trà Vinh, một ngày âm u, mưa dông lớn, sóng trắng xoá và gió lồng lộng cả một dãi bờ biển dài, vài chú chim bồ nông lớn lặn hụp, bắt cá kiếm ăn trong sóng nước. Bác chủ nhà người Khmer hiền từ tốt bụng ngoài dự tính sẵn lòng cho phép tá túc qua đêm.

Đoạn 3: từ cửa Trần Đề, khởi hành từ khoảng 3 giờ sáng, bốn bề là bóng tối, hoàn toàn chèo “mù” dựa vào la bàn và các chi tiết bản đồ đã nhớ trong đầu. Rồi cứ thế sáng dần, cửa sông Mỹ Thạnh dần hiện ra trong ánh bình minh hồng rạng rỡ. Suốt cả chặng đường hướng về Vĩnh Châu chỉ có mỗi chú chuồn chuồn ớt đỏ chói làm bạn đồng hành.

tỉnh để chi oa

張三豐
無根樹

道法流傳有正邪
入邪背正遍天涯
飛騰罕見穿雲鳳
陷溺多成落井蛙

Về thành ngữ “ếch ngồi đáy giếng”… hôm nay đọc được một bài thơ rất hay của Trương Tam Phong đạo trưởng, đề ở đầu tập thơ Vô căn thụ (Cây không gốc). Ai đọc Kim Dung hay xem kiếm hiệp Hồng Kông thì hẳn biết Trương chân nhân Quân Bảo là tổ sư của Võ Đang, nhưng cũng là một nhân vật lịch sử có thật, để lại nhiều tác phẩm văn thơ Đạo giáo.

Trương Tam Phong – Vô căn thụ

Đạo pháp lưu truyền hữu chính tà,
Nhập tà bội chính biến thiên nhai.
Phi đằng hãn kiến xuyên vân phụng,
Hãm nịch đa thành lạc tỉnh oa…

Dịch nghĩa: Đạo học lưu truyền có chính, có tà, Theo tà phản bội lại chính đâu đâu cũng có. Bay lên trời xuyên qua mây như chim phượng thì rất ít thấy, Mà rơi xuống thành con ếch ngồi đáy giếng thì lại rất nhiều. Chú thích: “Lạc tỉnh oa” – 落井蛙, lạc là rơi xuống, tỉnh là cái giếng, oa là con ếch, “lạc tỉnh oa” hay “tỉnh để chi oa” tức là “ếch ngồi đáy giếng” vậy.