bessarabia

Đế chế Ottoman, tại thời điểm cực thịnh của nó, bao gồm một phần hay toàn bộ lãnh thổ các nước Iraq, Iran, Ai Cập, Hy Lạp, Bulgaria, Romani, Croatia, Serbia, Moldova, Ukraine, etc… nhiều lần đe doạ Áo và miền Trung châu Âu! Châu Âu và đế chế Ottoman có một lịch sử mâu thuẫn ân oán lâu dài, xem như cuộc Thánh chiến, Thập tự chinh mở rộng. Muốn hiểu thêm về mấy trăm năm chiến tranh này, tìm đọc tiểu thuyết “Những ngôi sao Eger” – Gárdonyi Géza.

Đương thời, châu Âu, Nga và Thổ tạo thành thế vạc 3 chân! Một mặt châu Âu không ưa gì Thổ, và trong một chừng mực ít hơn, cũng không ưa gì Nga, nên muốn dùng 2 thế lực đó kiềm chế lẫn nhau và không muốn bên nào thắng hẳn! Người Nga thì trên danh nghĩa muốn đứng đầu liên minh Thiên chúa giáo chống lại Hồi giáo, trên thực tế, họ tìm đường ra Địa Trung Hải. Người Nga tấn công Thổ từ 2 hướng, một từ Ukraine tiến sang Moldova, Romania, một hướng về Caucasus, qua ngã Georgia, Armenia.

Đỉnh điểm của mâu thuẫn là chiến tranh Nga – Thổ (1768 ~ 1774), hạm đội của đô đốc Alexei Orlov từ biển Baltic ra Đại Tây Dương vòng vào lại Địa Trung Hải, đánh bại hạm đội Thổ, nhưng bao vây Constantinople không thành công! Trên bộ, cánh quân của Alexander Suvorov đánh bại Thổ tại trận Kozludzha. Suvorov là vị Nguyên soái bất bại của Nga, ông ta chưa từng thua một trận nào trong toàn bộ sự nghiệp rất nhiều trận chiến của mình! Người Nga họ có cả một bảng “Phong thần” liệt kê các anh hùng lịch sử!

Ở hạng mục tướng quân, Suvorov đứng đầu bảng, kế đến là Fyodor Ushakov, sau nữa mới đến Georgy Zhukov. Kết quả cuộc chiến, Thổ phải nhượng cho Nga vùng đất Bessarabia nằm giữa Moldova và Ukraine, là tiền thân của Transnistria ngày nay (dù đã bị thu hẹp hơn trước nhiều, nhưng sau hơn 250 năm vẫn “ một lòng hướng về đất mẹ”). Giờ nếu như Nga tấn công Odessa, thông với Transnistria là biến Ukraine thành quốc gia lục địa đúng nghĩa.

scarlet sails

Sa hoàng từ phía chiếc tàu bước nhanh tới; nhà vua mặc quần chẽn bằng nhung kiểu Hà Lan ngắn tới đầu gối, áo sơ-mi vải thô, ống tay xắn lên, đội mũ tròn bằng vải sơn, hất ra đằng sau. Sa hoàng dừng lại trước bục, kính cẩn bỏ mũ ra trước viên đô đốc Golovin to béo, đầu đội một bộ tóc giả to sù, tay cầm một cốc rượu nho Hungary: – Thưa ngài đô đốc, tôi hân hạnh được chào ngài! – Chào thợ cả Piotr Alekseevich, – Golovin nghiêm trang trả lời. – Thưa ngài đô đốc, tàu đã sẵn sàng hạ thuỷ. Ngài cho phép rút đòn kê. – Cầu Chúa phù hộ, làm đi! Ông quận công, ngừng xoắn bộ ria mép, kinh ngạc nhìn Sa hoàng: không khác gì một người thợ mộc bình thường dòng dõi thấp kém! Nhà vua cúi chào viên đô đốc, đội mũ vào rồi hấp tấp bỏ đi, chân dẫm lên đống vỏ bào.

Rất nhiều tài liệu, thư từ, giấy tờ lịch sử còn lưu lại chứng thực điều này: Peter đóng rất nhiều vai trong cuộc đời mình, và diễn như thật! Với các tướng lĩnh, đô đốc, Peter vừa là Sa-hoàng, vừa là anh binh bét! Khi còn là một đứa trẻ chơi trận giả, Peter đã như thế, nhưng khi đã trưởng thành cũng vẫn như thế, xem cuộc sống như là sự tiếp diễn của những trò chơi lúc nhỏ! Người chỉ đọc thoáng qua thì sẽ nghĩ rằng Sa-hoàng là một kiểu… “đa nhân cách”, luân phiên diễn những vai rất khác nhau: có nhưng vai ngang bằng với lính tráng, uống rượu, cãi cọ, ẩu đả, nhưng cũng có những vai học thức, trầm ngâm trước các bản thiết kế, lại có những vai thực sự là Sa-hoàng tàn bạo, tự tay cầm rìu chặt đầu những kẻ nổi loạn… Ảnh: con tàu Rossiya (brig) tại lễ hội Cánh buồm đỏ thắm!

poltava, 1712

Poltava, 1712, được đặt tên theo trận đại thắng tại Poltava, Ukraine chỉ mới 3 năm trước đó! Con tàu 1200 tấn, 54 súng này cũng do Peter trực tiếp giám sát thi công và trong một vài dịp, làm thuyền trưởng. Những chiến hạm của nước Nga đương thời thường chỉ 50 ~ 60 súng, mãi hơn 50 năm sau mới bắt đầu đóng những chiến hạm hạng nhất 100 ~ 120 súng! Không phải vì họ không đóng được tàu lớn hơn mà đơn giản vì những vùng như biển Đen, biển Baltic thường cạn, địa hình đáy biển phức tạp, thời tiết thất thường, chiến hạm quá lớn không hoạt động hiệu quả, và trong tác chiến, điển hình như trận Hải chiến Gangut, dễ bị các tàu galley chèo tay, nhỏ, yếu nhưng đông hơn và linh hoạt hơn đánh bại!

Cần phải nói về các “vai diễn” khác nhau mà Peter đã đóng, đôi khi ông ấy đóng vai thuỷ thủ, đôi khi pháo thủ, đôi khi là thuyền trưởng! Điều này được những người thân cận với Peter như đô đốc Fyodor Apraksin tận dụng triệt để! Nếu thảo luận với thuỷ-thủ-Peter về thiết kế tàu, về chiến thuật trên biển thì Apraksin sẽ bảo vệ quan điểm của mình, cãi nhau đỏ mặt tía tai! Nhưng nếu bàn bạc với Sa-hoàng-Peter thì Apraksin sẽ ngoan ngoãn chấp hành! Cũng phải nói thêm rằng, Peter luân chuyển giữa những “vai” khác nhau, và “diễn” như thật: từ y phục, cách xưng hô cho đến ngôn từ trên giấy tờ, tất cả đều theo đúng “chức vụ & cấp bậc”! Điều này thường chỉ thấy ở “thiên tài” hoặc “điên loạn”!

goto predestinatsia

Sau khi ở Hà Lan học nghề mộc được vài tháng, Peter – 1 vượt biển sang Anh quốc, và được vua nước Anh, William – 3 đón tiếp nồng hậu nhưng không nghi lễ, vì Peter du hành ẩn danh – incognito! Động cơ lớn nhất của Peter khi sang Anh là… các bản thiết kế thuyền! Mặc dù ông rất hâm mộ tay nghề đóng thuyền của các nghệ nhân Hà Lan, Peter nhận thấy rằng nó vẫn thiếu tính hệ thống, chủ yếu vẫn dựa vào kinh nghiệm, thiếu bản vẽ chính xác và tài liệu kỹ thuật chuẩn hoá! Nhà vua Anh tặng Peter – 1 chiếc du thuyền nhỏ làm quà, và chính chiếc thuyền này đã chở về Nga cả trăm chuyên gia, kỹ sư mà Sa – hoàng thuê được, đương nhiên phải trả một mức lương hậu hĩnh thì người ta mới chịu sang Nga làm việc! Chỉ hai năm sau thì Peter hoàn thành con tàu 58 súng Goto Predestinatsia, được xem là ship – of – the – line đầu tiên của nước Nga, được đóng hoàn toàn bằng “công nghệ” nội địa, bây giờ là con tàu bảo tàng ở Voronezh!

Nhân tiện nói về thuật ngữ ship – of – the – line, line ở đây là line – of – battle, đội hình hải chiến phổ biến nhất là một hàng dọc, hai bên tiếp cận nhau bằng hai hàng song song và đấu súng! Chiến thuật một hàng dọc là phổ biến nhất trong hải quân, thậm chí đến cả thời hiện đại, Hải chiến Hoàng Sa, 1974 cũng bày đội hình một hàng dọc! Không có định nghĩa rõ ràng một con tàu như thế nào là được xem là ship – of – the – line, nhưng thường là phải trên 50 súng! Đội hình hàng dọc bảo đảm một điều là nếu tàu nào không chịu nổi hoả lực của đối phương thì có thể… bỏ hàng và… chạy! Nhưng cũng vì vậy mà các trận đấu theo chiến thuật này thường có kết quả không rõ ràng vì các tàu có xu hướng bỏ, dạt hàng! Để khắc phục điều này, ở trận Trafalgar, đô đốc Nelson đã sử dụng đội hình hai hàng dọc, để khoá các tàu của đối phương và của chính bản thân mình vào thế trận đan xen, bắt buộc phải đấu tới bitter – end, thắng bại rõ ràng mới thôi!

shtandart

Đoàn xe đến Koenigsberg vào buổi chiều tà, bánh xe lăn ầm ầm trên mặt đường lát đá sạch bong. Không có rào giậu gì cả, thật là kỳ lạ! Nhà cửa trông thẳng ra phố; từ đường, có thể với tay tới những khung cửa sổ dài, có ô kính nhỏ. Khắp nơi sáng ngời một thứ ánh sáng niềm nở. Cửa ngõ đều bỏ ngỏ. Người đi lại không chút sợ hãi. Người ta những muốn hỏi họ: làm sao mà các ngươi lại không sợ mất trộm nhỉ? Có thể nào ở thành phố các ngươi lại không có trộm cướp ư? Trong ngôi nhà thương nhân họ đến ở, cả ở đấy nữa người ta cũng không cất giấu thứ gì, đồ vật quý giá để ngay trước mặt. Phải là một thằng ngốc mới không lấy gì. Vua Piotr ngắm nhìn những bức tranh, bát đĩa và sừng bò rừng, nói thầm với Alexaska:

Hãy cảnh cáo tất cả mọi người thật nghiêm khắc rằng hễ đứa nào táy máy dù chỉ là một trang sức nhỏ ta sẽ sai treo cổ nó ngay ở cổng.Bệ hạ nói đúng. Myn Herz, chính thần cũng lo. Trong khi chờ cho họ quen dần, thần sẽ cho khâu kín tất cả các túi áo quần của họ lại! Vì, cầu Chúa che chở, khi họ mà đã rượu vào thì biết thế nào được… Trích đoạn tiểu thuyết Pie đại đế – tác giả Aleksey Tolstoy! Ảnh bên dưới: Shtandart, con tàu đầu tiên của hạm đội Baltic, do Sa-hoàng Peter trực tiếp giám sát thi công và đồng thời cũng là thuyền trưởng đầu tiên (ảnh thực ra là con tàu replica, 1999, đóng mới theo mẫu cũ). Con tàu chọn trang phục màu đỏ để tới dự dạ hội “Scarlet sail” trên sông Neva, St. Petersburg.

treasure island

Cuốn tiểu thuyết mê ly thời còn nhỏ, tôi đọc bản NXB Văn học, 1987, nhưng thực ra đây là tái bản của bản 1944 – Vũ Ngọc Phan – Tự lực văn đoàn, nên tiếp cận văn hoá phương Tây ở VN là khá sớm, có lẽ từ thời Đông kinh Nghĩa thục. Khi nhỏ đã đọc cả trăm truyện thế này, nhưng hay nhất là “Bí mật đảo Lincoln” của Jules Verne! Cuốn sách này chứa đầy ắp các kiến thức về thiên văn, địa lý, vật lý, khoa học tự nhiên: từ cách xác định góc phương vị (azimuth) của mặt trời để đo kinh vĩ.

Chả cần phải học hoá cấp 2 cũng biết được thuỷ phân dầu tạo ra xà phòng và glycerine, chả cần học hoá cấp 3 cũng hiểu quy trình Bessemer để luyện gang thành thép… Spoiler: không khó để nhận ra trong bản dịch này nhiều lỗi chuyên môn về địa lý, hằng hải và nhiều kiến thức tổng quát! Vì thực ra các cụ thời đó cũng không có biết nhiều lắm đâu! Nhưng nói cho đúng, nó vẫn tốt hơn các bản dịch hiện tại, sách vở bây giờ hành văn căn bản còn chưa nên thân, câu cú lộn xộn cứ như “cơm sống”!

the pandora box

Đảo giấu vàng (treasure island), vịnh cướp biển (pirates’ bay), và vô số từ vựng có nguồn gốc hàng hải khác khác, đã đi vào kho từ vựng của loài người, với những nghĩa phái sinh, những ẩn dụ vô cùng thâm thuý! Nhưng cũng đừng quên, cái hộp Pandora đó vẫn luôn còn chứa đựng một thứ cuối cùng còn sót lại cho loài người!

whaler

Một chút lịch sử hàng hải phương Tây, nghề đánh bắt cá voi, loại sinh vật khổng lồ nặng đến vài chục (thậm chí cả trăm) tấn, loài mà ngư dân VN kính ngưỡng và thờ phụng, gọi là “Ông”, còn bọn Tây thì xem như những thùng dầu khổng lồ di động. Trong ảnh là Charles W. Morgan, con tàu 350 tấn, giờ là một phần của bảo tàng Mystic Seaport. Ai từng đọc Moby-Dick – Herman Melville, một trong những cuốn tiểu thuyết mà tôi say mê lúc nhỏ, sẽ không lạ gì những chuyện thế này! Một chuyến săn cá voi có thể kéo dài vài tháng, hay vài năm, nhiều tàu đi vòng quanh thế giới, đi theo mùa và theo những đàn cá.

Thuỷ thủ trực trên cột buồm để tìm “tia nước cá voi”, luồng khí & nước vọt lên trời khi cá thở. Phát hiện ra, vài chiếc xuồng con được hạ thuỷ từ tàu mẹ, bắt đầu truy đuổi! Các tay chèo đuổi theo con cá, người đứng mũi, nhân vật xuất sắc nhất, lãnh nhiệm vụ phóng lao! Cá trúng lao sẽ kéo vài chiếc xuồng chạy băng băng trên mặt biển cho đến khi kiệt sức! Cũng có khi cá lặn xuống vài trăm mét, phải liên tục xả dây, nếu không sẽ kéo chiếc xuồng xuống biển! Toàn bộ quá trình siêu nguy hiểm, chỉ cần cá quẫy đuôi trúng là xuồng tan tành! Cuộc chiến đấu với cá voi là một đề tài “lãng mạn” trong văn hoá Anh, Mỹ.

Theo quan điểm hiện đại, điều đó không được “đúng đắn & nhân văn” cho lắm, nhưng chỉ khác với con rồng trong thần thoại là không thể phun lửa thôi, chứ cá voi là loại động vật to lớn nhất lịch sử tự nhiên, lớn hơn cả những loại khủng long to nhất, chúng có thể nặng đến hơn 170 tấn! Cá đánh bắt về được xẻ thịt, lò than trên tàu sẽ biến mỡ cá voi thành những thùng dầu! Chiếc Charles W. Morgan trở về cảng năm 1845 sau 3 năm đi biển, đem về 2,400 thùng dầu! Dầu cá thường dùng làm dầu thắp đèn (lửa sáng mà không có mùi), làm nến! Dầu cá voi là loại bôi trơn cho máy móc của Kỷ nguyên Công nghiệp hoá.

Dầu cá được dùng làm margarine, loại thực phẩm thay thế bơ. Dầu cá là nguyên liệu vô cùng quan trọng trong Chiến tranh thế giới lần 1 & 2, nó được thuỷ phân thành xà phòng và glycerine, mà glycerine là nguyên liệu chính tạo nên các loại thuốc súng không khói & thuốc nổ! Đánh cá voi từng là một ngành công nghiệp lớn và một phần quan trọng của văn hoá phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Mãi cho đến những năm 198x, thoả thuận cấm đánh bắt cá voi mới có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu, vì dầu cá đã được thay thế bằng các sản phẩm dầu mỏ! Trước đó, con người giết cả vài chục ngàn con cá voi mỗi năm để lấy dầu!

some marine arts

Đây là bức hoạ hiện đại, có thể được vẽ gần đây, tái hiện lại lịch sử ngày xưa. Cái góc nhìn của nó rất mới, giống như được quay từ drone vậy, hội hoạ cổ điển có nằm mơ cũng khó có được những góc phối cảnh – perspective thế này. Ở phương Tây, có những nhánh hội hoạ chỉ chuyên đề tài hàng hải, phải bỏ ra hàng chục năm đọc mọi thứ, từ lịch sử, địa lý, kỹ thuật đóng tàu, kỹ thuật buồm, 1001 thứ để có thể vẽ được một bức tranh đúng, chưa nói chuyện đẹp!

hms resolute

Con tàu Resolute tham gia tìm kiếm đoàn thám hiểm không bao giờ trở về của John Franklin trong 2 năm 1848 ~ 1850, sau đó về Anh, rồi quay lại tiếp tục tìm kiếm trong 2 năm nữa, 1852 ~ 1854. Suốt những mùa đông bị vây hãm trong băng giá, thuỷ thủ đoàn toả ra các hướng, đi bằng xe chó kéo để tìm vết tích của Franklin, nhưng không tìm được gì, họ chỉ tìm và cứu được đoàn đi trên chiếc HMS Investigator. Về sau, cũng phải bỏ tiếp chiếc Resolute bị kẹt trong băng giá, đoàn người trở về Anh năm 1854 trên các con tàu khác của đoàn thám hiểm!

Một năm sau đó, Resolute được tìm thấy trôi dạt trên biển bởi một tàu đánh cá voi Mỹ, cách 1900 km so với nơi ban đầu. Quốc hội Mỹ mua lại con tàu và gởi nó về Anh như món quà tặng cho nữ hoàng Victoria! Đến lúc này, Bộ Hải quân đã hết hy vọng việc tìm đoàn Franklin nên dừng các cuộc tìm kiếm. Chỉ riêng có Lady Jane, vợ của Franklin quá cố, vẫn tiếp tục tìm kiếm… 20 năm nữa, tài trợ tất cả 7 đoàn thám hiểm chỉ để tiếp tục tìm! Lady Jane đi vào văn hoá đại chúng Anh với bài hát “Lady Jane’s Lament” – nỗi đau khổ của quý bà Jane!

hms investigator

Năm 1848, Investigator và Enterprise, 2 con tàu do James Clark Ross chỉ huy, khởi hành đi tìm vết tích của John Franklin. Ross lúc này đã 72 tuổi, đành đứng ra nhận nhiệm vụ vì không còn ai có đủ uy tín cũng như kinh nghiệm! Ross từng thề với vợ là sẽ không bao giờ đi thám hiểm nữa, sau vụ này 2 vợ chồng giận nhau cho đến cuối đời. Sau 5 năm tìm kiếm vô vọng, con tàu Investigator bị đông cứng trong băng suốt 3 năm.

Cho đến khi họ được phát hiện và giải cứu bởi HMS Resolute, một trong 3 nhánh tìm kiếm gọng kìm được tổ chức bởi Bộ Hải quân. Resolute sau đó cũng không thoát ra được khỏi vùng băng giá, lại phải bỏ tàu, sau đó lại được cứu bởi một tàu khác! Nhiều hành trình theo vết đoàn thám hiểm của Franklin, lúc này đã trở thành một cuộc “Thập tự chinh” thần thánh đúng nghĩa, liên tục nhiều năm, với vô số kỳ tích!

hms terror

Sau chuyến thám hiểm Nam cực của James Clark Ross, 2 con tàu Terror và Erebus lần nữa được trang bị lại, chuẩn bị cho chuyến thám hiểm của John Franklin, lại là mục tiêu muôn thủa: Con đường Tây Bắc (the North West Passage), tìm ra một thuỷ lộ ngắn nối liền Đại Tây Dương và Thái Bình Dương mà không phải đi vòng xuống Mũi Sừng xa xôi! Cho đến ngày nay người ta vẫn biết rất ít về số phận bi thảm của cuộc thám hiểm này, toàn bộ 129 người không ai trở về! Bộ Hải quân tổ chức một vài đoàn tìm kiếm. Jane Franklin, vợ của John Franklin, nhà thám hiểm quá cố, con gái một nhà đại tư sản là tiếp tục vận động, tài trợ, bỏ tiền tổ chức thêm nhiều cuộc tìm kiếm nữa suốt 25 năm sau đó! Họ đem về được 2, 3 mảnh giấy, chôn dưới những cột đá xếp đánh dấu, để lại một số ít ỏi thông tin!

Đến ngày nay, người ta chỉ biết đại khái là cả 2 con tàu bị chôn vùi trong băng giá suốt một năm rưỡi, nhiều người lần lượt chết trước khi số còn lại bỏ tàu, tìm cách trở về bằng đường bộ nhưng không một ai về tới đích! Rất nhiều giả thiết được đưa ra, kể cả giả thiết ngộ độc botulinum trên loại đồ hộp thế hệ đầu tiên mà đoàn sử dụng! Hai cuộc thám hiểm thất bại, một của Franklin, một của Robert Scott khiến người ta phải nghĩ lại về cách tiếp cận, rõ ràng việc sử dụng những đoàn thám hiểm lớn cả trăm người là không phù hợp! Roald Amundsen người Na Uy, hơn 50 năm sau, là người đầu tiên hoàn thành cả 3 mục tiêu: đến Nam cực, đến Bắc cực, và đi hết con đường Tây Bắc, dĩ nhiên là với những trang thiết bị hiện đại hơn, và chỉ dùng những nhóm nhỏ 5 ~ 15 bao gồm những cá nhân đặc biệt xuất sắc!

hms discovery

Discovery, 1789 là con tàu được đặt theo tên của chiếc Discovery trước đó, 1774, một tàu trong đoàn thám hiểm của James Cook. Hải quân Hoàng gia liên tiếp có rất nhiều thế hệ tàu Discovery khác nhau! Discovery, 1789 do George Vancouver làm thuyền trưởng. Vancouver cũng tham gia đoàn thám hiểm của Cook với vị trí midshipman. Cũng giống như Nelson vậy, từ đội ngũ của Nelson nảy sinh nhiều sĩ quan tài năng, thì từ đội ngũ của Cook, cũng nảy sinh nhiều nhà thám hiểm tài năng.

Discovery làm nhiều chuyến đo đạc, vẽ bản đồ ở Thái Bình Dương suốt 5 năm, nhất là vùng Tây Bắc lục địa châu Mỹ! Để đi vào các vùng nước nông, thuỷ thủ đoàn thường rời tàu mẹ, chèo xuồng con xa cả trăm km, sâu vào bên trong các vịnh biển, sông suối thì mới vẽ bản đồ chính xác được! Hòn đảo Vancouver, Canada chính là đặt theo tên nhà thám hiểm này! Những bản đồ của Vancouver chính xác đến nỗi, chúng được dùng đến gần 200 năm sau, đến khi có phương pháp đo đạc bằng GPS mới!

hms eagle

Sự kiện tai nạn hàng hải năm 1707 ở quần đảo Scilly, đoàn tàu chiến Anh trở về sau cuộc chiến với Pháp. Suốt nhiều ngày liền, thời tiết rất xấu, không thấy mặt trời để đo kinh-vĩ, nhiều tính toán toạ độ sai lầm dẫn đến việc đoàn tàu chiến hơn 20 chiếc đâm vào đảo! 4 tàu chìm hoàn toàn, ước tính gần 2000 người đã chết! Sau vụ này, nữ hoàng Anne ban hành Đạo luật Kinh tuyến – 1714, quy định sẽ thưởng 20.000 bảng cho ai tìm ra được cách xác định kinh độ chính xác. Người thắng cuộc là John Harrison, nhưng đó là một câu chuyện rất dài và phức tạp! John Harrison, thợ làm đồng hồ, người đã bỏ cả cuộc đời mình để làm ra chiếc đồng hồ chính xác – chronometer đầu tiên trên thế giới.

Ở đây nói một từ tiếng Anh là watch, watch nguyên nghĩa là “phiên gác”, gác tàu hay các cơ sở quân sự, định kỳ phải đổi gác nên cần có một cái đồng hồ đo thời gian! Cùng là đo thời gian, nhưng watch khác với clock, clock cố định tại một vị trí, trong khi watch là portable! Câu chuyện những chiếc đồng hồ này là một đề tài kỹ thuật hấp dẫn, có thể viết nhiều ngàn trang giấy. John Harrison bỏ ra 50 năm ròng rã để hoàn thành công trình, nhưng Uỷ ban Kinh độ từ chối trao giải thưởng. Ở tuổi 80, ông ấy kiện lên vua George III nhờ can thiệp đòi danh dự, vì thực ra giá trị của giải thưởng không còn quan trọng! Đến khi vua George doạ “đến tận nơi xử lý” thì vụ việc mới được giải quyết!

hms dominica

Bermudan-rig là kiểu buồm phổ biến ở Bermuda, vùng biển Đông Nam nước Mỹ cho đến Caribe, kiểu buồm thường thấy trên các con tàu giải trí ngày nay! Bermudan-rig phù hợp với các con tàu nhỏ, dễ điều khiển, cần ít người vận hành, và thường đi sát gió tốt hơn square-rig. Thế nên nhiều người có cái cảm giác là nó “ưu việt” hơn square-rig! Nên nhớ square-rig được dùng trên những con tàu siêu lớn hàng ngàn tấn, phải chở nhiều hàng hoá nặng nề, và đi trong những vùng biển ôn đới, vốn thường sóng gió dữ dội hơn là các vùng biển nhiệt đới!

Square-rig mạnh hơn, bền hơn, và có thể tuỳ-biến tốt hơn bermudan-rig, nhưng nó cũng cần nhiều kỹ năng, kinh nghiệm hơn! Trong tranh là HMS Dominica, con tàu quốc tịch Pháp đóng ở Mỹ, cũng là con tàu “đổi chủ” 4 lần, hết bị Anh đến Pháp chiếm qua chiếm về! Tranh thể hiện sự kiện Dominica bị con tàu privateer Mỹ – Decatur bắt năm 1813. Trên cột buồm sau của con tàu Decatur, có lá buồm skyscraper, loại buồm tam giác gắn trên cùng (skysail), về sau chữ skyscraper mang nghĩa phái sinh – toà nhà chọc trời như chúng ta biết ngày nay!

hms java

Trong tranh là USS Constitution, một trong 6 chiếc tàu hộ vệ – frigate đầu tiên của Hải quân Mỹ non trẻ, đối đầu với HMS Java, nguyên gốc là một tàu chiến Pháp bị Anh bắt được. HMS Java nhỏ và nhanh nhẹn hơn, USS Constitution lớn và có hoả lực mạnh hơn. Kết quả là HMS Java bị bắt, và sau đó bị đốt cháy, 18212. Tranh minh hoạ chiến thuật Hải quân crossing-the-T, cắt mặt hình chữ T.

Con tàu nằm ở nét ngang của chữ T có lợi thế là có thể đưa toàn bộ súng một bên mạn tàu tập trung vào một điểm, gây thiệt hại rất lớn cho đối phương. Ngày nay USS Constitution là con tàu già nhất trên thế giới, 209 tuổi, vẫn còn có thể chạy buồm tốt! Để ý chi tiết trong tranh, cả hai con tàu đều cuốn tầng buồm dưới cùng lên cho gọn, kiểu như xăn tay áo để chuẩn bị đánh nhau vậy!

hms st lawrence

Trong hàng hải, bị gọi là “thuỷ thủ nước ngọt” được xem như một lời chế nhạo, thậm chí là sỉ nhục! Nhưng điều đó không hẳn đã đúng với HMS St. Lawrence, con tàu được đóng trên hồ Ontario, biên giới giữa Canada và Mỹ! Ontario là hồ nước ngọt, diện tích 19.000 km2, thông với Đại Tây Dương qua một con sông nhỏ, chảy xiết và nhiều chướng ngại, chỉ những con tàu nhỏ xíu mới đi lại được! Nên khi đóng chiếc St. Lawrence, là người ta đã tính nó chỉ loanh quanh trong hồ này mà thôi, đây là con tàu siêu lớn, lớn nhất của Hải quân Hoàng gia cho tới lúc đó!

Và vì chỉ đi loanh quanh trên hồ nước ngọt nên tàu không cần mang theo quá nhiều lương thực, thực phẩm, nước uống… nên có không gian để trang bị đến 112 súng! Lúc này thì Mỹ đã dành được độc lập, nhưng hai bên Anh & Mỹ vẫn còn tiếp tục xung đột với nhau ở vùng biên giới Mỹ & Canada. Từ khi hoàn thành, St. Lawrence chưa bao giờ tham gia một hoạt động chiến trận nào, vì chả ai dám dây dưa với cái kích thước của nó, vùng biên giới vì thế được yên bình! Thế nên cái câu thành ngữ La-tinh: Si vis pacem para bellum đúng là có cái lý của nó!

hmc ceres

Ceres là con tàu nhỏ 450 tấn được đóng bởi Hải quân Hoàng gia, đến năm 1778, khi đang hộ tống đoàn thương thuyền ở Caribe, Ceres bị bắt và đưa vào biên chế Hải quân Pháp với tên Cérès. Đến năm 1872, Hải quân Anh bắt lại được con tàu này và đưa vào phục vụ với tên mới Raven. Sang năm sau, 1783, Raven lại bị Hải quân Pháp bắt, lại trở thành tàu Pháp với cái tên cũ Cérès! Chuyện như thế không hiếm thấy thời đó, một con tàu chiến bị bắt qua bắt về, đổi phe 3, 4 lần là chuyện khá thường thấy!

Nhân tiện nói về thành ngữ “loose cannon”, như bà Clinton gọi tt. Trump là một “loose cannon”… Trong thời đại thuyền buồm, các khẩu súng nặng 2, 3 tấn hoặc hơn, đặt trên 4 bánh xe và buộc lại bằng hệ thống dây, ròng rọc! Nếu vì lý do gì đó mà các dây này bị tuột (loose), nhất là trong giông bão, thì khẩu pháo đó lăn qua lăn về, khối lượng 2, 3 tấn đè chết người như đè một con ruồi, đâm thủng thuyền, phá nát nhiều thứ trên đường đi. Về sau “loose cannon” có nghĩa bóng ám chỉ một người nguy hiểm, không thể kiểm soát!

hms shannon

Đội tàu đầu tiên do Quốc hội Mỹ đặt hàng, 6 chiếc tàu hộ vệ – frigate đầu tiên của Hải quân Mỹ đều là những tàu tốt, lượng giãn nước lớn, trang bị khá. Đội tàu này tham gia nhiều cuộc chiến, xung đột khác nhau, nhất là thời kỳ đầu đã đánh nhau rất thành công với Hải quân Anh, bắt hàng loạt tàu buôn và tàu chiến Anh. Điều này gia tăng sĩ khí cho hạm đội non trẻ, tuy nhiên công bằng mà nói, những tàu Anh thất bại đều là những tàu nhỏ, hoả lực “dưới cơ” các tàu Mỹ. Điều này cũng gây ra những tức tối, bức xúc trong hàng ngũ sĩ quan Hải quân Hoàng gia.

Thuyền trưởng Philip Broke của HMS Shannon công khai thách đấu, gởi chiến thư tới USS Chesapeake, giọng văn kiểu: “mày ra đây, tao với mày chơi tay đôi”! Kiểu đấu “hiệp sĩ” này khá công bằng, hai tàu tương đối ngang nhau về tải trọng, về số súng. Đáng nói là Shannon tuy không lớn, nhưng là một trong những con tàu thiện chiến nhất Hải quân Anh, thuỷ thủ tập bắn bốn buổi một tuần đều đặn. Chuyện xảy ra sau đó thì khá rõ, Shannon giải quyết trận đấu trong chỉ hơn 10 phút, phía Mỹ thương vong rất lớn, thuyền trưởng Broke được phong Nam tước!

hms buffalo

Buffalo như cái tên của nó (con trâu), là con tàu vận tải 540 tấn của Hải quân Hoàng gia, đóng ở Ấn Độ bằng gỗ giá tỵ. Buffalo đi đi về về giữa Anh và Úc, chở phạm nhân, hàng hoá. Năm 1824, đại dịch tả toàn cầu lan ra khắp châu Á. Nhưng tới năm 1832, làn sóng dịch thứ 2 mới lan tới Anh. Trên phạm vi toàn cầu, cả chục triệu người đã chết!

Trong 2 năm, Buffalo trở thành con tàu cách ly. Haiza, giá như VN cũng có vài chục con tàu cách ly thế này thì tốt biết mấy, cứ đậu giữa sông, khỏi phải đau đầu chuyện trốn trại! Về sau, Buffalo bị đắm trong một cơn bão ở New Zealand, bức tranh bên dưới thể hiện đúng sự việc lúc đó, con tàu treo lá cờ ngược, báo hiệu tình trạng nguy cấp!