tề bạch thạch

hoảng 25 năm trước, các tiệm chép đĩa CD là nơi bán đủ thứ thập cẩm: phần mềm, crack, game, nhạc, thậm chí là cả… hội hoạ! Nhớ có lần ghé tiệm đĩa CD quen thuộc, tình cờ nhặt về một cái đĩa chứa những bức tranh ngựa của Từ Bi Hồng, tranh tôm của Tề Bạch Thạch, tranh hoa của Ngô Xương Thạc… Cái thời đói “văn hoá”, cái gì cũng xem, cái gì cũng đọc.

Xem những con tôm, cá, nét vẽ hồn nhiên như trẻ nhỏ, không hiểu lắm, thích lối “công bút” cổ điển hơn. Thoáng chốc 25 năm có dư, Trung Quốc trở mình một cái, giá tranh trở thành ngoài trăm triệu, đến giờ vẫn gãi đầu, gãi tai không hiểu vì sao… Vẽ tranh vi diệu ở chỗ vừa giống vừa không giống, nếu quá giống tức là chiều theo thế tục, mà không giống thì là nhạo báng nhân gian…

bolshevik

au khi Sa-hoàng Peter-3 chết, có người mạo danh, lan truyền tin đồn rằng mình chính là Peter-3 còn sống, đó là Yemelyan Pugachev, người nổi dậy chống chính quyền nữ hoàng Catherine-2. Sau khi Sa hoàng Alexander-1 chết cũng vậy, có tin đồn rằng ông ta thực ra chưa chết, mà chỉ đi tu dưới cái tên mới Feodor Kuzmich. Suốt thời phong kiến, gần như lúc nào cũng có tin đồn như thế, để người ta nghi ngờ tính “chính danh” của người cầm quyền!

Gần đây phương Tây lan truyền tin đồn Putin thật đã chết rồi, ở đó chỉ là người đóng thế thôi! 😃 Mấy cái mánh mẹo lặt vặt, từ thời Trung Cổ cứ làm hoài, người ta thuộc luôn bài, nói xàm xàm nhưng vẫn có người tin, dân trí là như thế đó! Nên “dân chủ” phương Tây có tốt ko? Dĩ nhiên là tốt chứ, có điều… chỉ tốt với phương Tây mà thôi! Đừng quên 2tr người VN đã chết vì bom đạn Mỹ! Chú thích: là bức tranh “Bolshevik” của hoạ sĩ Nga Boris Kustodiev!

Aivazovsky

hững người di cư đầu tiên tới Úc là các tội phạm, những người cần phải “tạm thời cách ly khỏi xã hội”. Những người di cư đầu tiên đến Mỹ là các thành phần Tân giáo, Thanh giáo, Tin Lành, Lutheran, etc… vì những mâu thuẫn tôn giáo khốc liệt, kinh hoàng ở châu Âu mà phải ra đi tìm đường sống, và thành phần di cư vì các lý do kinh tế cũng không ít! Châu Âu của “kỷ nguyên Ánh sáng” không “sáng” như chúng ta nghĩ mà trái lại: chiến tranh, dịch bệnh, đói kém, không thiếu thứ gì! Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha… tất cả những nước châu Âu đều tìm cách đẩy mâu thuẫn nội tại sang một thế giới khác, sang Tân thế giới hoặc các quốc gia thuộc địa khắp Á, Phi, Mỹ La-tinh… Và ngày nay chủ nghĩa “thực dân kiểu mới” không phải đã kết thúc, mà chỉ tiếp diễn với rất nhiều những hình thức khác mà thôi!

Nga là một quốc gia lục địa, mãi đến Peter-the-great, họ mới thực sự biết đến biển! Nên mâu thuẫn nội tại của họ không đẩy đi đâu được, mà bùng phát ngay chính trong nội bộ! Vì không thể “chạy trốn”, nên mâu thuẫn xã hội “hiện nguyên hình” theo những cách chân thực, khốc liệt nhất! Nên mỗi nền văn hoá “tốt” hay “xấu” theo cách riêng của nó, bảo rằng một bên là “dân chủ, tốt đẹp”, bên kia “đàn áp, xấu xa” e rằng nói một phía! Một bên chuyên “xuất khẩu cách mạng”, một bên chuyên “xuất khẩu dân chủ” thảy đều là tìm cách đẩy – offload những vấn đề nội tại sang nơi khác mà thôi! Tôi chẳng tin gì vào cả 2 thứ vừa kể, kể cả đám gọi là “dân chủ” cũng chỉ thấy toàn “cuội”! 🙂 Vấn đề suy cho cùng ở ngay trước mắt, rất dễ thấy, các giá trị con người: trung thực, liêm chính chứ không phải quan điểm chính trị!

Nhưng giá trị con người, nói dễ nhưng không hề dễ, đấu đá bao nhiêu năm vẫn chưa thấy tốt hơn được bao nhiêu! Trong ngắn hạn, chuyện thay đổi tâm hồn con người, thay đổi văn hoá vẫn là chuyện vô cùng nan giải! Trong lúc chờ con người thay đổi ấy, mà tôi e là còn lâu lắm, không biết còn bao nhiều trăm, ngàn năm nữa… trong lúc chờ đợi điều đó thì có một lối thoát tạm thời, khả dĩ có thể làm cuộc sống dễ thở hơn một tí, dù chỉ là một tí thôi, và đây cũng là một bài học mà lịch sử đã dạy cho chúng ta, đó là… đi ra biển cả 😃, như đã phân tích phía trên (về các quốc gia đi ra biển và “tìm ra” Tân thế giới, thiết lập nên những vùng đất thuộc địa mới). Ảnh: bức tranh “Làn sóng thứ 9” của Ivan Aivazovsky, một trong những hoạ sĩ cổ điển hàng đầu của nước Nga, chuyên vẽ tranh về đề tài biển cả và hàng hải!

whaler

ột chút lịch sử hàng hải phương Tây, nghề đánh bắt cá voi, loại sinh vật khổng lồ nặng đến vài chục (thậm chí cả trăm) tấn, loài mà ngư dân VN kính ngưỡng và thờ phụng, gọi là “Ông”, còn bọn Tây thì xem đó như những thùng dầu khổng lồ di động. Trong ảnh là Charles W. Morgan, con tàu 350 tấn, giờ là một phần của bảo tàng Mystic Seaport. Ai từng đọc Moby-Dick – Herman Melville, một trong những cuốn tiểu thuyết mà tôi say mê lúc nhỏ, sẽ không lạ gì những chuyện thế này! Một chuyến săn cá voi có thể kéo dài vài tháng, hay vài năm, nhiều tàu đánh cá voi đi vòng quanh thế giới, đi theo mùa và theo những đàn cá.

Thuỷ thủ trực trên cột buồm để tìm “tia nước cá voi”, luồng khí & nước vọt lên trời khi cá thở. Phát hiện ra, vài chiếc xuồng con được hạ thuỷ từ tàu mẹ, bắt đầu truy đuổi! Các tay chèo đuổi theo con cá, người đứng mũi, nhân vật xuất sắc nhất, lãnh nhiệm vụ phóng lao! Cá trúng lao sẽ kéo vài chiếc xuồng chạy băng băng trên mặt biển cho đến khi kiệt sức! Cũng có khi cá lặn xuống vài trăm mét, phải liên tục xả dây, nếu không sẽ kéo chiếc xuồng xuống biển! Toàn bộ quá trình siêu nguy hiểm, chỉ cần cá quẫy đuôi trúng là xuồng tan tành! Cuộc chiến đấu với cá voi là một đề tài “lãng mạn” trong văn hoá Anh, Mỹ.

Đương nhiên, theo quan điểm hiện đại, điều đó không được “đúng đắn & nhân văn” cho lắm, nhưng chỉ khác với con rồng trong thần thoại là không thể phun lửa thôi, chứ cá voi là loại động vật to lớn nhất lịch sử tự nhiên, lớn hơn cả những loại khủng long to nhất, chúng có thể nặng đến 170 tấn! Cá đánh bắt về được xẻ thịt, lò than trên tàu sẽ biến mỡ cá voi thành những thùng dầu! Chiếc Charles W. Morgan trở về cảng năm 1845 sau 3 năm đi biển, đem về 2,400 thùng dầu! Dầu cá thường dùng làm dầu thắp đèn (lửa sáng mà không có mùi), làm nến! Dầu cá voi là loại bôi trơn cho máy móc của Kỷ nguyên Công nghiệp hoá.

Dầu cá được dùng làm margarine, loại thực phẩm thay thế bơ. Dầu cá là nguyên liệu vô cùng quan trọng trong Chiến tranh thế giới lần 1 & 2, nó được thuỷ phân thành xà phòng và glycerine, mà glycerine là nguyên liệu chính tạo nên các loại thuốc súng không khói & thuốc nổ! Đánh cá voi từng là một ngành công nghiệp lớn và một phần quan trọng của văn hoá phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Mãi cho đến những năm 198x, thoả thuận cấm đánh bắt cá voi mới có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu, vì dầu cá đã được thay thế bằng các sản phẩm dầu mỏ! Trước đó, con người giết cả vài chục ngàn con cá voi mỗi năm để lấy dầu!

some marine arts

ây là bức hoạ hiện đại, có thể được vẽ gần đây, tái hiện lại lịch sử ngày xưa. Cái góc nhìn của nó rất mới, giống như được quay từ drone vậy, hội hoạ cổ điển có nằm mơ cũng khó có được những góc phối cảnh – perspective thế này. Ở phương Tây, có những nhánh hội hoạ chỉ chuyên đề tài hàng hải, phải bỏ ra hàng chục năm đọc mọi thứ, từ lịch sử, địa lý, kỹ thuật đóng tàu, kỹ thuật buồm, 1001 thứ để có thể vẽ được một bức tranh đúng, chưa nói chuyện đẹp!

hms resolute

on tàu Resolute tham gia tìm kiếm đoàn thám hiểm không bao giờ trở về của John Franklin trong 2 năm 1848 ~ 1850, sau đó về Anh, rồi quay lại tiếp tục tìm kiếm trong 2 năm nữa, 1852 ~ 1854. Suốt những mùa đông bị vây hãm trong băng giá, thuỷ thủ đoàn toả ra các hướng, đi bằng xe chó kéo để tìm vết tích của Franklin, nhưng không tìm được gì, họ chỉ tìm và cứu được đoàn đi trên chiếc HMS Investigator. Về sau, cũng phải bỏ tiếp chiếc Resolute bị kẹt trong băng giá, đoàn người trở về Anh năm 1854 trên các con tàu khác của đoàn thám hiểm!

Một năm sau đó, Resolute được tìm thấy trôi dạt trên biển, bởi một tàu đánh cá voi Mỹ, cách 1900 km so với nơi ban đầu. Quốc hội Mỹ mua lại con tàu và gởi nó về Anh như một món quà tặng cho nữ hoàng Victoria! Đến lúc này, Bộ Hải quân đã hết hy vọng việc tìm đoàn Franklin nên dừng các cuộc tìm kiếm. Chỉ riêng có Lady Jane, vợ của Franklin quá cố, là vẫn còn tiếp tục tìm kiếm thêm những 20 năm nữa, tài trợ tất cả 7 đoàn thám hiểm chỉ để tiếp tục tìm! Lady Jane đi vào văn hoá đại chúng Anh với bài hát “Lady Jane’s Lament” – nỗi đau khổ của quý bà Jane! 😢

hms investigator

ăm 1848, Investigator và Enterprise, 2 con tàu do James Clark Ross chỉ huy, khởi hành đi tìm những vết tích của John Franklin. Ross lúc này đã 72 tuổi, đành đứng ra nhận nhiệm vụ, vì không còn ai có đủ uy tín cũng như kinh nghiệm! Ross từng thề với vợ là sẽ không bao giờ đi thám hiểm nữa, sau vụ này, 2 vợ chồng giận nhau cho đến cuối đời. Sau 5 năm tìm kiếm vô vọng, con tàu Investigator bị đông cứng trong băng suốt 3 năm.

Cho đến khi họ được phát hiện và giải cứu bởi chiếc HMS Resolute, một nhánh khác trong 3 nhánh tìm kiếm gọng kìm được tổ chức bởi Bộ Hải quân. Resolute sau đó cũng không thoát ra được khỏi vùng băng giá, lại tiếp tục phải bỏ tàu, sau đó lại được cứu bởi một tàu khác! Nhiều lượt hành trình theo vết đoàn thám hiểm của Franklin, lúc này đã trở thành một cuộc “Thập tự chinh” thần thánh đúng nghĩa, liên tục nhiều năm, với vô số kỳ tích!

hms terror

au chuyến thám hiểm Nam cực của James Clark Ross, 2 con tàu Terror và Erebus lần nữa được trang bị lại, chuẩn bị cho chuyến thám hiểm của John Franklin, lại là mục tiêu muôn thủa: Con đường Tây Bắc (the North West Passage), tìm ra một thuỷ lộ ngắn nối liền Đại Tây Dương và Thái Bình Dương mà không phải đi vòng xuống Mũi Sừng xa xôi! Cho đến ngày nay người ta vẫn biết rất ít về số phận bi thảm của cuộc thám hiểm này, toàn bộ 129 người không ai trở về! Bộ Hải quân tổ chức một vài đoàn tìm kiếm. Jane Franklin, vợ của John Franklin, nhà thám hiểm quá cố, con gái một nhà đại tư sản là tiếp tục vận động, tài trợ, bỏ tiền tổ chức thêm nhiều cuộc tìm kiếm nữa suốt 25 năm sau đó! Họ đem về được 2, 3 mảnh giấy, chôn dưới những cột đá xếp đánh dấu, để lại một số ít ỏi thông tin!

Đến ngày nay, người ta chỉ biết đại khái là cả 2 con tàu bị chôn vùi trong băng giá suốt một năm rưỡi, nhiều người lần lượt chết trước khi số còn lại bỏ tàu, tìm cách trở về bằng đường bộ nhưng không một ai về tới đích! Rất nhiều giả thiết được đưa ra, kể cả giả thiết ngộ độc botulinum trên loại đồ hộp thế hệ đầu tiên mà đoàn sử dụng! Hai cuộc thám hiểm thất bại, một của Franklin, một của Robert Scott khiến người ta phải nghĩ lại về cách tiếp cận, rõ ràng việc sử dụng những đoàn thám hiểm lớn cả trăm người là không phù hợp! Roald Amundsen người Na Uy, hơn 50 năm sau, là người đầu tiên hoàn thành cả 3 mục tiêu: đến Nam cực, đến Bắc cực, và đi hết con đường Tây Bắc, dĩ nhiên là với những trang thiết bị hiện đại hơn, và chỉ dùng những nhóm nhỏ 5 ~ 15 bao gồm những cá nhân đặc biệt xuất sắc!

hms discovery

iscovery, 1789 là con tàu được đặt theo tên của chiếc Discovery trước đó, 1774, một tàu trong đoàn thám hiểm của James Cook. Hải quân Hoàng gia liên tiếp có rất nhiều thế hệ tàu Discovery khác nhau! Discovery, 1789 do George Vancouver làm thuyền trưởng. Vancouver cũng tham gia đoàn thám hiểm của Cook với vị trí midshipman. Cũng giống như Nelson vậy, từ đội ngũ của Nelson nảy sinh nhiều sĩ quan tài năng, thì từ đội ngũ của Cook, cũng nảy sinh nhiều nhà thám hiểm tài năng.

Discovery làm nhiều chuyến đo đạc, vẽ bản đồ ở Thái Bình Dương suốt gần 5 năm, nhất là vùng Tây Bắc lục địa châu Mỹ! Để đi vào các vùng nước nông, thuỷ thủ đoàn thường rời tàu mẹ, chèo xuồng con xa cả trăm km, sâu vào bên trong các vịnh biển, sông suối thì mới vẽ bản đồ chính xác được! Hòn đảo Vancouver, Canada chính là đặt theo tên nhà thám hiểm này! Những bản đồ của Vancouver chính xác đến nỗi, chúng được tiếp tục dùng đến gần 200 năm sau, đến khi có những phương pháp đo đạc bằng GPS mới!

hms eagle

ự kiện tai nạn hàng hải năm 1707 ở quần đảo Scilly, đoàn tàu chiến Anh trở về sau cuộc chiến với Pháp. Suốt nhiều ngày liền, thời tiết rất xấu, không thấy mặt trời để đo kinh-vĩ, nhiều tính toán toạ độ sai lầm dẫn đến việc đoàn tàu chiến hơn 20 chiếc đâm vào đảo! 4 tàu chìm hoàn toàn, ước tính gần 2000 người đã chết! Sau vụ này, nữ hoàng Anne ban hành Đạo luật Kinh tuyến – 1714, quy định sẽ thưởng 20.000 bảng cho ai tìm ra được cách xác định kinh độ chính xác. Người thắng cuộc là John Harrison, nhưng đó là một câu chuyện rất dài và phức tạp! John Harrison, thợ làm đồng hồ, người đã bỏ cả cuộc đời mình để làm ra chiếc đồng hồ chính xác – chronometer đầu tiên trên thế giới.

Ở đây nói về gốc gác một tiếng Anh là watch, watch nguyên nghĩa là “phiên gác”, gác tàu hay các cơ sở quân sự, định kỳ phải đổi gác nên cần có một cái đồng hồ đo thời gian! Cùng là đo thời gian, nhưng watch khác với clock ở chỗ, clock cố định tại một vị trí, trong khi watch là portable! Câu chuyện những chiếc đồng hồ này là một đề tài kỹ thuật hấp dẫn, có thể viết nhiều ngàn trang giấy. John Harrison bỏ ra 50 năm ròng rã để hoàn thành công trình, nhưng Uỷ ban Kinh độ từ chối trao giải thưởng. Ở tuổi 80, ông ấy khiếu kiện lên vua George III nhờ can thiệp đòi danh dự, vì thực ra giá trị của giải thưởng không còn quan trọng! Đến khi vua George doạ “đến tận nơi xử lý” thì vụ việc mới được giải quyết! 😀