cổ kính – tàn y

Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại, để dành hơi!

M ột bài thơ cổ, tương truyền là của Ôn Như hầu – Nguyễn Gia Thiều, theo thể Thất ngôn Đường luật, tác giả thương khóc người vợ đã mất, trong đó có hai câu luận rất “đắt”: Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng, Xếp tàn y lại, để dành hơi. Tác giả muốn đập vỡ kính (gương) ra, để tìm bóng người yêu từng soi trong đó, rồi đành xếp manh áo lại, để giữ chút hương xưa còn sót của người đã khuất. Cổ thi mà ngôn từ, ý tứ như thế quả thật là quá mới lạ, táo bạo và cũng rất lãng mạn. Dù lời văn nghe có vẻ xưa cũ, “thơ tình” như thế này, ngay cả thời hiện đại dễ gì sánh được!?

Tình hoài hương - Thái Thanh 
Tình ca - Thái Thanh 
Cành hoa trắng - Quỳnh Giao 
Quê nghèo - Quỳnh Giao 
Nhớ người thương binh - Mai Hương 
Nương chiều - Mai Hương 
Thu chiến trường - Kim Tước 
Dạ lai hương - Kim Tước 
Chinh phụ ca - Hà Thanh 

Nhạc của Phạm Duy, với tôi cũng giống như là “cổ kính” và “tàn y”! “Dân ca VN”, xem như là một thứ đã mất, một người đã khuất, không mấy ai còn biết bóng dáng thế nào! Âm nhạc của Phạm Duy cũng giống như “cổ kính” – chiếc gương còn lưu giữ lại bóng dáng của người đẹp, cũng giống như “tàn y” – manh áo cũ còn lưu lại chút hương thơm của giai nhân, âm nhạc Phạm Duy còn lưu lại phảng phất hình bóng dân ca Việt. Về sau, muốn tìm lại bản sắc, e rằng cũng phải làm những việc “đập kính – xếp áo”, tìm lại sự phản chiếu trong âm nhạc của Phạm Duy vậy!

50 ca khúc hà thanh

T rong một số ca khúc (ví dụ như Nhạc sầu tương tư, Chinh phụ ca, Nụ cười sơn cước… toàn là những điệu dân ca phía Bắc) Hà Thanh hát dân ca một cách tự nhiên gần như là vô thức, không biết có phải một phần vì chất giọng Huế của bà hay vì điều gì khác!? Cái cảm âm, cái xử lý âm nhạc khéo léo của bà dường như là “vốn có”, không cần phải trãi qua quá trình học tập! Một giọng ca được đánh giá là gần gũi với đại chúng, không nặng về kỹ thuật, nhưng tự nhiên, dể nghe, dể thấm vào lòng người.



bắc hành – 2015, phần 8

Hình dung một chiếc thắt lưng xanh, một chiếc khăn màu trắng trăng,
Một chiếc vòng sáng long lanh, với nụ cười nàng quá xinh.

Nụ cười sơn cước - Tô Hải - Hà Thanh 

Chặng 8: Đồng Văn, Phó Bảng, phố Cáo, Sủng Là và các vùng lân cận

Sài gòn ⇔ Hà nội 2015
Sơn Tây 2015
Yên Bái 2015
Lào Cai 2015
Hà Giang 2015
Đồng Văn 2015
Mèo Vạc 2015

Năm nay cao nguyên đá Đồng Văn khác nhiều so với những gì tôi thấy năm ngoái. Ngoại trừ thị trấn Đồng Văn, hồ trữ nước còn đầy, ở các xã khác, những hồ treo chứa nước hầu như cạn trơ đáy, hạn hán đang đến rất gần. Không khó để thấy ở một số xã xa thị trấn một chút, cảnh những người dân địa phương gùi từng can 50 lít nước trên lưng, đi nhiều cây số để chở nước về nhà trên các vách đá cheo leo. Giá trung bình cho một can nước như vậy là 50 ngàn, vị chi cứ 1 ngàn 1 lít.

Sức chịu đựng của con người ở đây thật phi thường, tôi dám cá có mấy người dân thành phố có thể làm được như thế! Nhưng đập vào con mắt của du khách, hoa cải vẫn nở vàng ươm trên nương, hoa tam giác mạch vẫn khoe mầu quyến rũ, mùa màng có vẻ như còn tươi tốt hơn những gì tôi chứng kiến năm ngoái. Người dân cõng từng gùi củ cải trắng tinh vào chợ. Và đặc biệt, hoa đào mận đồng loạt nở những màu hồng, trắng phơn phớt khắp bản làng, như chưa bao giờ nhiều và đều như thế!

Cao nguyên Đồng Văn đang bước vào thời điểm chín muồi của xuân sắc! Những gì khiến Đồng Văn cuốn hút du khách đến vậy!? Một cao nguyên đá vôi với muôn vẻ địa hình, địa mạo, độc đáo và duy nhất. Những nhóm dân tộc ít người đầy mầu sắc, muôn màu muôn vẻ không trùng lặp. Nhưng trên hết vẫn là hơi thở sinh sôi mãnh liệt của cuộc sống, như hoa đào, mận vẫn nở, như mía, ngô, khoai vẫn đâm chồi đây đó trên vùng đất chỉ toàn sỏi đá một màu xám xịt, khô cằn và lạnh buốt.

bắc hành – 2015, phần 7

Mây trôi bơ vơ, mang theo niềm nhớ,
Ánh trăng vàng úa soi bóng hình ai phương trời nào đây.

Nhạc sầu tương tư - Hoàng Trọng - Hà Thanh 

Chặng 7: Hoàng Su Phì ❯ Tân Quang ❯ Vị Xuyên ❯ tp. Hà Giang ❯ Tam Sơn (Quản Bạ) ❯ Yên Minh ❯ Đồng Văn

Sài gòn ⇔ Hà nội 2015
Sơn Tây 2015
Yên Bái 2015
Lào Cai 2015
Hà Giang 2015
Đồng Văn 2015
Mèo Vạc 2015

Khi đường đi bắt gặp muôn ngàn con sông suối nho nhỏ, nước xanh biêng biếc rì rào chảy, là biết đã đến địa phận tỉnh Hà Giang, vùng đất địa đầu tổ quốc, lần này là lần thứ hai trở lại. Còn rất nhiều điều tôi chưa biết hết ở vùng đất Hà Giang này, đặc biệt là khu cao nguyên đá Đồng Văn. Biết có ở đây bao ngày, bao tuần cũng chỉ như là cưỡi ngựa xem hoa. Phong cảnh, con người, cuộc sống nơi đây có điều gì cuốn hút đến mức kỳ lạ, khó diễn tả thành lời, chỉ biết nói là rất rất đẹp!

Đồng Văn, Mèo Vạc là “quê hương” của người Mông, những nhóm đầu tiên di cư từ TQ đến VN cách đây hơn 300 năm về trước, tập trung chủ yếu ở khu vực này rồi mới phân tán đi các tỉnh khác. Trong lịch sử truyền khẩu, người Mông các miền vẫn xem Mèo Vạc là quê hương, gốc gác của mình. Và có lẽ vì thế, người Mông ở đây có thể được xem là “nguyên bản” nhất, các đặc điểm y phục, tập quán, phong tục cũng rõ nét nhất. Có nhiều điều để tìm hiểu về những cuộc diaspora của họ.

Và không chỉ có người Mông, các sắc dân khác cũng đều như thế. Ví như người Dao ở Việt Nam vốn là di cư từ đảo Hải Nam, TQ sang, trước hết bằng đường biển, qua Quảng Ninh, Bắc Giang, rồi lại ngược lên cư ngụ tại miền núi. Cuộc sống, vốn dĩ từ trong bản chất, dù ít dù nhiều, cũng mang tính chất một công cuộc diaspora, đâu phải chỉ có người Do Thái mới thiên di!? Thế nên phải đi và phải hiểu, phải biết nhìn nhận sự khác biệt, con người và văn hoá thật sự là rất phong phú, đa dạng.

nhạc sầu tương tư – 2

Mây trôi bơ vơ, mang theo niềm nhớ,
Ánh trăng vàng úa soi bóng hình ai phương trời nào đây…

Bài này nghêu ngao hát và thu âm ngay trên cái laptop cùi bắp đã lâu, chất lượng âm thanh rất là í ẹ, nghe cả tiếng ếch kêu quanh nhà, phải dùng Noise Removal tool của Audacity thì mới tạm nghe rõ lời hát (do noise nhiều nên voice cũng bị distort đi một chút). Bây giờ với máy tính và software thì ai cũng có thể làm ca sĩ karaoke được, mix vài cái sound – tracks: vocal và background music, kéo tới kéo lui, cắt dán một chút, apply vài cái effects là thành recording ngay thôi!

Nhạc sầu tương tư - Hà Thanh 
Nhạc sầu tương tư - Quỳnh Giao 
Nhạc sầu tương tư - TKXuyên 

Vốn chẳng bao giờ tự thu âm mình hát nhưng vì rất yêu thích Nhạc sầu tương tư này nên đây là ngoại lệ. Bài này theo tôi rất là Vietnamese – authentic, nét nhạc ngũ cung mang cái fingerprint – “điểm chỉ” Việt Nam mà chỉ cần nghe thoảng qua là biết. Bên trên, từ trái qua phải: thời điểm thu âm tăng dần và chất lượng giọng ca giảm dần.

hải ngoại thương ca


Thường thì tôi không thể nhớ hết những bản nhạc mình từng nghe và từng thích, nhưng có một chút gợi ý nào đó thì mọi chi tiết lại hiện về rõ ràng, dù là đã nghe 15, 20 năm về trước. Hai bài hát dưới đây là nằm trong số đó. Cả hai bài đều của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, sĩ quan mang quân hàm đại tá QĐ VNCH, âm nhạc chỉ là nghề tay trái. Ấy vậy mà cái nghề tay trái ấy lại có những biệt tài nhất định.

Hải ngoại thương ca - Hà Thanh 
Mấy dặm sơn khê - Thái Thanh 

Đôi điều về bài hát Hải ngoại thương ca. Bài hát được sáng tác năm 1963, không phải sau 1975 như cái tựa đề dễ gây lầm tưởng. Các vị lãnh đạo ở bộ Văn hoá Thông tin, (theo tôi suy đoán) cứ ngỡ là bài hát được sáng tác gần đây, thấy ngay cái giá trị lợi dụng của nó trong chính sách kiều vận, nên đã sẵn sàng cấp phép lưu hành trở lại. Hãy đọc lời bài hát để biết được tại sao:

Người về đây giữa non sông này. Hội trùng dương hát câu sum vầy. Về cho thấy con thuyền nước Nam, đi vào mùa xuân mới sang, xa rồi ngày ấy ly tan. Tôi đi giữa trời bồi hồi, cờ bay phất phới tôi quên chuyện ngày xưa… Ai bảo các vị ở bộ không hiểu giá trị của nhạc, khi nó có thể giúp kêu gọi một năm nhiều chục tỷ đôla tiền kiều hối?

Khi nhỏ, chưa biết tác giả là ai, chưa hề biết lịch sử xoay vần thế nào, tôi đã thích những giai điệu, lời ca lãng mạn nhẹ nhàng như thế: nhớ ai ra đi, hẹn về dệt nốt tơ duyên, khoác lên vòng hoa trắng, cầm tay nhau đi anh, tơ trời quá mong manh… (Mấy dặm sơn khê).

Một vài bìa nhạc Nguyễn Văn Đông:

nhạc sầu tương tư

Lần đầu nghe Nhạc sầu tương tư do Khánh Ly hát, thú thật không có ấn tượng gì. Nhờ bản khí nhạc Nguyễn Đình Nghĩa mà tôi nhận ra dáng nhạc trung du Bắc bộ rất đặc biệt trong ca khúc này. Mê điệu nhạc từ đó, nhưng phải do những ca sĩ nhất định trình bày, như Hà Thanh hay Thái Thanh. Gần đây thấy có Lam Trường, Quỳnh Hoa hát lại bài này, nghe rồi tự hỏi không biết họ có hiểu hay cảm được dáng nhạc ấy không!?

Nhạc sầu tương tư - Hà Thanh 
Người về miền xuôi - Thái Thanh 

Hôm nay tình cờ nghe lại trường ca Con đường cái quan của nhạc sĩ Phạm Duy, phần 1: Từ miền Bắc, đến đoạn 4: Người về miền xuôi, nhận ra ngay dáng nhạc của Nhạc sầu tương tư. Hai cái melody rất giống nhau, không biết là ai học ai, nhưng có lẽ cả hai nhạc sĩ đều học từ điệu hát lượn của các dân tộc Tày, Nùng, vùng trung du, thượng du Bắc bộ.

Cùng một dáng nhạc, cách xử lý của nhạc sĩ Hoàng Trọng đậm đặc, nguyên bản và tình cảm hơn, cách phát triển của nhạc sĩ Phạm Duy sáng tạo hơn, nhất là đoạn chuyển từ dân ca thượng du sang dân ca đồng bằng Bắc bộ, để vẽ ra cái cảnh Người về miền xuôi bằng âm nhạc! Các bạn hãy thử nghe cả hai khúc nhạc trên đây để xem chúng giống và khác nhau thế nào!

nụ cười sơn cước

Ca khúc thứ 5 trong chuỗi những điệu valse chào xuân: Nụ cười sơn cước. Từ hồi 9 năm, bài hát này đã được phổ biến rộng rãi ở miền Nam, trong khi đó ở miền Bắc, nhạc sĩ Tô Hải chỉ sáng tác thêm một số tác phẩm ít được biết đến khác, và chủ yếu tham gia hoạt động khí nhạc. Vào thế hệ mẹ tôi, bài hát này rất phổ biến, thường được tập trong các buổi văn nghệ trường: Ai về sau dãy núi Kim Bôi, nhắn giùm tim tôi chưa phai mờ… Ông già gân Tô Hải có lẻ là blogger già nhất Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại. Đã ngoài 80 tuổi, đang nằm trên giường bệnh nhưng ông vẫn kiên trì viết bài tại Yahoo 360° với nickname là toohair007.

Nụ cười sơn cước - Hà Thanh 

Ngoài 80, có mấy ai lên blog? Tớ 81 thành chủ blog… dở hơi. Cố bước chân theo lớp trẻ đua đòi. Theo hip hop, grafiti, rắp, riếc. Âm nhạc tớ, âm nhạc thời “rách việc”. Gò lưng tôm cố viết xanh-phô-ny. Nào công-xéc-tô, nào sôi-nát để… cất đi. Cố bắt chước Chô-Panh, Chai-cốc-ky hoặc cụ Bách. Nhưng kết quả chỉ là: Vứt! Vứt! Vứt! Vì cháu con thời hiện đại, a còng. Chẳng cần học 5, 10 năm như tớ. Vẫn nổi danh mà chẳng cần tổng phổ. Vẫn trở thành “rap sỹ nói” ngon ơ! Vẫn có tiền, có xế hộp, có nhà. Đâu như tớ giàu huân chương nhưng nghèo kiết xác! Bét tô ven, Su-be… thôi! Xin chào các bác! Em ra đi làm nhạc rap từ đây! Các bạn trẻ! Hãy tin lão già này! Vào blog tớ, sẽ có ngay… một bài rắp! Bảo đảm rằng tớ không hề ăn cắp. Vì có tên người “xúc tác” hẳn hoi. Là tớ đây: “Lão nhạt sỹ dở hơi”. TooHair 007 (81 tuổi) cư dân mạng từ thời còn là “Cụ Trẻ”.

Ngay đầu blog đã thấy câu blast: Ngoài 80 lại giở trò chơi blog! Liệu phen này có ngu ngốc hay không?. Ông viết nhiều thứ, từ âm nhạc đến lịch sử, chính trị xã hội, nhiều bài viết theo lối nhạc rap rất hài hước, có rất nhiều thông tin thú vị trên blog của ông! Hãy đọc để biết một cựu sĩ quan QĐND lại có tư tưởng duy tân như thế nào! Đoạn clip bên dưới là quay cảnh nhạc sĩ Tô Hải tố cáo một tên cảnh sát chìm chuyên chỉ điểm bắt người trong cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc…

one day when we were young

Từ đó khi xuân tái hồi,
Cho bùi ngùi thương nhớ tới xa xôi.
Nhớ tới câu thương yêu người,
Một ngày tuổi mới đôi mươi.

Ca khúc thứ 4 trong chuỗi những giai điệu valse chào xuân! Rất nhớ ca khúc này, những năm cấp 2, cấp 3, mỗi lần đi cắm trại, trong tiếng guitar bập bùng, bạn bè lại hát cho nhau nghe. Đến tận bây giờ cảm xúc rộn ràng vẫn còn đọng lại: you told me, you love me, when we were young one day. Lúc ấy cứ ngỡ đây là country music, nhưng bây giờ thì biết rất nhiều bài “popular song” được trích ra từ kho tàng nhạc cổ điển. Như bài này được trích từ vở operetta Der Zigeunerbaron (The Gypsy Baron) của Johann Strauss II. Trích đoạn mang tên Wer uns getraut (tiếng Đức, nghĩa là: Ai thành hôn cho chúng ta).

Wer Uns Getraut - Johann Strauss 
When we were young - Miliza Korjus 
Khúc hát thanh xuân - Hà Thanh 

Bài nhạc trở thành “popular song” qua phim The Great Waltz (1938), bộ phim hư cấu về cuộc đời của chính Johann Strauss. Mời các bạn nghe OST của phim này qua giọng ca của diễn viên / ca sĩ Miliza Korjus. NS Phạm Duy đã đặt lời Việt cho ca khúc (tựa đề mới: Khúc hát thanh xuân), giới thiệu ở đây qua giọng ca ngọt ngào của Hà Thanh. Chúng ta cũng có thể nghe trích đoạn trong vở nhạc kịch (tiếng Đức), nghe rồi mới thấy rằng chính bộ phim The Great Waltz đã trình bầy lại bản nhạc dưới dạng valse như chúng ta biết hiện nay. Những giai điệu đã quá phổ biến và quen thuộc này, lâu lâu nghe lại, vẫn như có thêm chút adrenaline trong huyết quản, nhất là khi gió mùa xuân đang tới.

đêm ngắn tình dài

Theo tôi tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền. (Dương Thiệu Tước)

Dương Thiệu Tước thật tình muốn dùng nhạc pháp Tây Phương để soạn nhạc Việt mới, nhưng ông bị nhạc ngũ cung Việt Nam trói ông lại… Nhạc Dương Thiệu Tước, theo tôi, là loại nhạc tình tứ, nhưng cũng rất sang trọng. Ðó là những ca khúc tình ái thốt lên từ con tim của một nghệ sĩ dòng dõi nhà quan. ( Hồi ký Phạm Duy, tập 1, chương 12)

Muốn mượn bài hát Đêm ngắn tình dài này như phần mở đầu cho bài viết giới thiệu về một nhạc sĩ đặc biệt: Dương Thiệu Tước. Lúc nhỏ, đây gần như là bài nhạc duy nhất của Dương Thiệu Tước gây được dấu ấn sâu đậm trong tôi, một phần vì lúc ấy tôi còn chưa hiểu và cảm được những giai điệu ngũ cung, chỉ biết về ông qua một số ca khúc mang tính Tây phương: Đêm ngắn tình dài, Bóng chiều xưa, Ngọc lan, Chiều… Phần nữa vì nét nhạc vừa cổ kính, vừa tân kỳ của bài hát, ca tụng khát vọng tình yêu đôi lứa trong một không gian phảng phất Đường-thi: có trăng, có rượu hoàng hoa… và lại có anh và em, có người con trai và con gái, điều rất ít thấy trong thơ cổ.

Đêm ngắn tình dài - Thái Thanh 
Tiếng xưa - Hà Thanh 

Còn một tối gần bên nhau… cái lời nhạc nói lên khát vọng tình yêu vừa mãnh liệt, vừa êm đềm, đối với tôi lúc ấy đã đủ để nói lên một tâm hồn nhạc đặc biệt mà chỉ sau này tôi mới hiểu rõ được. Khi viết nhạc thất cung theo kiểu Tây phương, nhạc của ông “rất Tây”, điển hình như bài Ngọc lan, nghe bài này chúng ta tưởng như đang nghe Chopin hay Schumann. Ngay từ khi mọi người còn phải vay mượn nhạc điệu Tây phương để soạn lời ca tiếng Việt và gọi nó là bài ta theo điệu tây thì ông đã soạn những bài có thể gọi là bài tây theo điệu ta.

Còn khi viết nhạc ngũ cung, nhạc của ông lại “quá ngũ cung”. Nếu như nhạc ngũ cung của Phạm Duy là thoát thai từ dân ca, khi hát cần luyến láy một chút thì mới tìm thấy được dáng nhạc, thì của Dương Thiệu Tước tự nó đã có đậm đặc chất ngũ cung rồi, cứ hát lên là như tìm lại được những nét dân ca miền Thùy Dương xứ Huế. Tuy là người Hà Nội nhưng nhạc của Dương Thiệu Tước thể hiện một sự thẩm âm đặc biệt mẫn cảm với dân ca Huế, phải chăng chính là nhờ mối tình say đắm với một người con gái sông Hương núi Ngự, nữ ca sĩ Minh Trang (thân mẫu ca sĩ Quỳnh Giao).

Một vài bìa nhạc Dương Thiệu Tước:

hà thanh – chim họa mi xứ huế

Không như những gì viết trên wiki: Hà Thanh sinh ra trong một gia đình gia giáo chỉ có một mình bà đi theo nghiệp âm nhạc, mẹ tôi (lúc còn học ở trường Đồng Khánh có chơi với một số chị em trong gia đình này) cho biết gia đình Hà Thanh là một gia đình có truyền thống cổ nhạc, tuy không ai đi theo con đường âm nhạc chuyên nghiệp nhưng đờn ca hát xướng đã là môi trường từ nhỏ trong gia đình. Hà Thanh đến với âm nhạc từ rất sớm, tham gia hát cho đài phát thanh Huế từ những năm 50. Bà tham gia cuộc thi tuyển lựa ca sĩ do đài tổ chức (giống như cuộc thi Tiếng hát Truyền hình bây giờ) và dành giải nhất với ca khúc Dòng sông xanh (Johann Strauss).

Ai lên xứ hoa đào - Hà Thanh 
Các anh đi - Hà Thanh 

Những năm 60, bà gia nhập làng văn nghệ Sài-gòn, trở nên nổi tiếng và thường xuyên xuất hiện trên sóng phát thanh cũng như trong các chương trình Đại nhạc hội. Hà Thanh có giọng hát rất đặc biệt, cao sang, trong mà mềm mại. Nghe bà hát, ta mới cảm thấy những luyến láy nhấn nhá đặc trưng của một giọng hát cũ. Hơn thế nữa, giọng Hà Thanh rất Huế, một giọng Huế sang trọng và tinh tế. Mời các bạn thưởng thức giọng ca Hà Thanh qua hai ca khúc: Ai lên xứ hoa đào (Hoàng Nguyên) và Các anh đi (Văn Phụng).

phạm duy, 8

Âm nhạc là một sự khải thị
lớn hơn mọi nền luân lý.

(Beethoven)

Viết đến đây, khi cố gắng hệ thống hóa, “chia lô” những sáng tác của nhạc sĩ PD (sự phân chia này một phần dựa trên sự tự phân loại của tác giả), tôi mới nhận ra rằng làm như thế vô hình chung đã bỏ qua nhiều phần sáng tác quan trọng của nhạc sĩ. PD ông có nhiều sáng tác không đơn thuần có thể chia vào một hạng mục nào cụ thể, hơn nữa nhiều sáng tác lẻ lại có giá trị nghệ thuật quan trọng. Vì vậy ở phần này chúng ta lại “thập di”, đi tìm bổ khuyết những thiếu sót trong 7 bài viết vừa qua.

Có rất nhiều ca khúc nhạc ngoại quốc chúng ta đang hát có phần lời Việt do nghệ sĩ PD đặt, và nhiều khi chúng ta được biết phần lời Việt này trước khi được biết nguyên tác. Trong số những bài ca này có những bản nhạc cổ điển phương Tây: Dòng sông xanh (Le beau Danube bleu), Trở về mái nhà xưa (Retour à Soriento), Vũ nữ thân gầy (La Cumparsita), Dạ khúc (Serenade)… Một số là những bài dân ca các nước hay nhạc Pháp, Mỹ: Clémentine, Khi xưa ta bé (Bang bang), Em đẹp nhất đêm nay (La plus belle pour aller danser), Giàn thiên lý đã xa (Scaborough fair), If you go away (Ne me quitte pas), Hỡi người tình Lara (Chanson de Lara)… và rất nhiều những bài khác.

Áo anh sứt chỉ đường tà - Thái Thanh 
Quê nghèo - Thái Thanh 

Trong những ca khúc giai đoạn đầu của ông, những ca khúc “dân ca mới”, tôi đặc biệt lưu ý một số ít ca khúc có giai điệu rất cổ kính, nét tân kỳ ẩn tàng đi đâu mất. Trong số đó có Thu chiến trườngChinh phụ ca. Nghe những ca khúc này chúng ta có cảm giác được thưởng ngoạn lại những gia tài âm nhạc cũ đã thất truyền, không còn ai biết đến nữa. Cái biệt tài sáng tạo của nghệ sĩ PD là làm ra những cái mới chưa ai có, thì một biệt tài khác, trong những ca khúc này, là hình dung lại những cái cũ mà cũng không ai còn nhớ. Có lẽ đến một lúc nào đó, muốn có một hình dung về âm nhạc cổ truyền Việt Nam, chúng ta phải nhờ đến những bài như thế này chăng?

Chinh phụ ca - Hà Thanh 
Tiếng hát trên sông - Thái Thanh 

Trong số những ca khúc giai đoạn đầu của nhạc sĩ PD, có một ca khúc rất đáng để ý: Áo anh sứt chỉ đường tà phổ thơ bài thơ nổi tiếng Đồi tím hoa sim của Hữu Loan. Liên quan đến bài thơ này là một đời người đày đọa, Hữu Loan là một phần của vụ án Nhân văn giai phẩm ngày trước, hẳn phải có lúc nào lịch sử lật lại vụ án này, với những lời xin lỗi và công nhận chính thức. Riêng về ca khúc này, đây là một đỉnh cao trong nhạc thuật của PD, khi nhỏ, mỗi lần nghe ca khúc này là tôi lại có cảm giác gió rờn rợn trên mộ vàng… Có đến hơn 3, 4 ca khúc cùng phổ nhạc bài thơ này, nhưng chỉ mỗi bản nhạc của PD là đáng nhớ (những bản khác còn chưa thoát ra được thể loại boléro rẻ tiền, đàn ca nhạc nhậu.

Có một số bài hát hiện nay chúng ta được biết qua phần lời đã sửa chữa của chúng. Một số bài hát phần nhạc rất hay sáng tác trong kháng chiến 9 năm về sau bị nhạc sĩ PD sửa lại lời, phần nhiều là vì những lý do chính trị. Như Bao giờ anh lấy được đồn Tây thường được biết dưới cái tiêu đề Quê nghèo hay Tiếng hát trên sông Lô đã được đổi thành Tiếng hát trên sông. Tuy vậy, hai bài hát được giới thiệu ở đây đều có phần lới mới khá hay, nhất là bài Quê nghèo.

(Còn tiếp…)

phạm duy, 7

Chỉ có hiện tại là không dứt!
(Schrodinger)

Những ý tưởng sáng tạo luôn đến một cách bất chợt, cóp nhặt… để đến một lúc nó trở thành những thay đổi trong xu hướng, phong cách. Từ những năm 70 trở về sau, nhạc của PD chuyển theo một hướng mà không phải ai cũng hài lòng. Một số tự bảo rằng: Ồ, PD, ông ta đâu còn như trước!. Dĩ nhiên tôi cũng thích PD lúc trẻ hơn, nhất là những năm 60, khi nhạc thuật đã đạt đến chỗ chín muồi, và những phần hòa âm phối khí cũng đã được tinh luyện.

Chàng dũng sĩ và con ngựa vàng - Thái Thanh 
Quán thế âm - Thái Thanh 

Đó là lúc ông còn chưa bị cuộc đời dằn vặt đến mức nhạc phải nhuốm màu suy tư triết lý. Nhưng từ những năm 70, âm nhạc của ông đã chuyển theo một hướng thâm trầm hơn, bác học hơn, và thể hiện đầy đủ hơn những gì được tích lũy, cóp nhặt là ông. Với những gì ông đã đạt được, việc bắt ông phải lặp lại chính mình, phải sáng tác những ca khúc đỉnh cao như lúc trước là điều không thể.

Nghìn thu - Thái Thanh 
Mẹ năm 2000 - Khánh Ly 

Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là PD đã bế tắc, cạn nguồn trong nhạc hứng, chỉ có một điều nhạc của ông ngày càng ít cho công chúng, mà càng cho riêng bản thân ông. Phàm những cái đạt đến đỉnh cao thì tự quay vào chính mình vậy! Sau đây, chúng ta sẽ tiếp tục công cuộc “cỡi ngựa xem hoa” để điểm qua Thập mục ngưu đồ – tức mười bài Đạo ca.

Về sau, nghệ sĩ PD còn tiếp tục làm giàu cho gia tài âm nhạc của mình bằng 10 bài Thiền ca, 10 bài Rong ca. Những ca khúc này được sáng tác khi ông đã định cư lâu năm ở Mỹ, nhiều bài thể hiện ước mơ hồi hương từ rất sớm như: Hẹn em năm 2000. Trước đây tôi chỉ được biết một phần nhỏ trong những ca khúc sáng tác sau này của ông.

Sau này nghe kỹ lại có thể thấy, những nguồn cảm hứng lớn cho các ca khúc này đã không còn nữa, các giai điệu phần lớn là những trò chơi âm thanh của riêng tác giả, một số rất đáng nghe, nhưng nhìn tổng thể những tác phẩm này không còn đạt đến đỉnh cao như trước.

(Còn tiếp…)

thiên thai

Anh Ngọc (đứng giữa) và ban nhạc Tiếng Tơ Đồng trình bày ca khúc Thiên Thai.

Xin giới thiệu đến các bạn một bản thu âm hiếm, ca khúc Thiên Thai của nhạc sĩ Văn Cao. Tham gia trình bày ca khúc này có nhiều nghệ sĩ tài danh: Anh Ngọc (giọng nam chính), Thái Thanh (hát bè nữ chính) và những thành viên của ban nhạc Tiếng Tơ Đồng vang bóng một thời: Mai Hương, Kim Tước, Quỳnh Giao, Hà Thanh, Bạch La, Hoàng Oanh…

Tuy chất lượng âm thanh không thật tốt (do thời gian và do cả kỹ thuật studio lúc bấy giờ), nhưng bản thu âm này thể hiện một trình độ hợp xướng điêu luyện: “tiếng hát trượng phu” Anh Ngọc với phần hát bè nữ (gồm toàn những ngôi sao) phong phú, biến hóa. Và cả phần hòa âm tài ba do chính nhạc sĩ Hoàng Trọng thực hiện.

Thiên Thai - ban Tiếng tơ đồng 

Nếu bỏ qua những yếu tố kỹ thuật, mà chỉ tập trung vào “dáng nhạc”, các bạn sẽ nhận thấy một điều: trình độ thẩm âm, khả năng sáng tạo của lớp nhạc sĩ trước thật tuyệt vời. Chỉ vì thiếu hiểu biết nên một số người bây giờ mới đánh đồng nhạc này với những loại nhạc của Chế Linh – lính chê, Chế Thanh – thánh chê… dưới cái tên nhạc vàng.

Phải chăng âm nhạc đương đại của chúng ta, dù có rất nhiều điều mới, vẫn yếu kém ở những điểm cốt yếu nhất!? Thật là điều đáng buồn về khả năng thẩm âm khi mà những nhạc sĩ, nhạc công nhạc cổ truyền bây giờ (như Nhã nhạc, Ca trù…) đã và đang chơi nhạc ngũ cung với tai nhạc thất cung, không những không hiểu được những tinh túy của âm nhạc ngũ cung và phát triển được cái vốn mình có, mà còn làm nó mai một thêm.