walrus pull

gày xưa, khi kayak hãy còn là công cụ “săn bắt hái lượm” ở đảo Greenland. Nói kayak xuất phát từ Greenland không hoàn toàn đúng, nhưng để đơn giản hoá vấn đề, tạm chấp nhận như thế. Ngày xưa, những người đàn ông “da đỏ” dùng kayak đi săn hải cẩu (seal), hải mã (walrus). Đây là những loài động vật lớn, nặng từ vài tạ cho đến vài… tấn. Họ ngồi trên xuồng, phóng lao vào những con vật khổng lồ ấy, chúng sẽ không chết ngay đâu, và sẽ kéo mũi lao cùng chiếc xuồng đi cho đến khi kiệt sức, không cần phải nói, đó là một cuộc chiến sinh tồn thật sự.

Những “kayaker” sẽ xoay ngang chiếc xuồng lại, tìm cách dìm xuồng xuống nước để làm tăng sức cản, làm con vật mau kiệt sức. Đôi khi, những con vật sẽ kéo chiếc xuồng lật, xoay, lòng vòng như chiếc lá… trong khi người chèo vẫn phải ngồi vững trong xuồng. Ngày nay, người ta không còn săn hải cẩu, hải mã nữa, 5 người đàn ông khoẻ mạnh đứng trên bờ, dùng một sợi dây để “giả lập” lực kéo của con hải mã, thử thách người chèo làm sao vẫn giữ vững được trên xuồng. Haiza, xem ra kỹ năng của kayaker hiện đại chẳng là cái gì so với ngày xưa, xem video dưới đây sẽ rõ.

Alexei Leonov

him tài liệu dài 1h về Alexei Leonov, không phải là người đầu tiên bay vào vũ trụ như Gagarin, nhưng là người thực hiện chuyến đi bộ trong không gian đầu tiên. Trong số những phi hành gia Sô viết, Leonov có lẽ là người sống một cuộc đời đầy đủ nhất, viên mãn nhất, đa tài, đa nghệ, về sau trở thành phó giám đốc của một ngân hàng lớn.

Con người ấy toát ra sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt, sự khôn ngoan và điềm tĩnh. Sống qua tất cả những giai đoạn tồi tệ nhất của lịch sử, xuất thân từng là thành phần “kẻ thù của nhân dân”, 2 ngôi sao vàng trên ngực áo (2 lần Anh hùng Sô viết). 80 tuổi, người ta thấy ông khiêu vũ với những nhịp điệu sôi động như một chàng trai trẻ.

Xem thêm bộ phim Nga – 2017 về Alexei Leonov, The spacewalker – The Age of Pioneers

march of the Preobrazhensky regiment

ành khúc trung đoàn Preobrazhensky, đội ngự lâm quân đầu tiên của Peter – the Great. Lời bài hát nói rõ lịch sử hình thành trung đoàn, từ ngày còn là những cậu bé chơi trận giả đến khi trưởng thành. Một dân tộc mạnh khoẻ phải có thứ âm nhạc khoẻ mạnh. Haiza, nghĩ đến những thứ “nhẽo” Việt đương đại, haiza, lại thở dài, ko thể gọi là “nhạc” được, chính xác chỉ có thể gọi là “nhẽo” !!! 🙁

áo bà ba

huyện hơn 20 năm trước, suốt đêm viết luận văn tốt nghiệp, là LVTN điểm 10 tuyệt đối, không làm tròn, duy nhất trong suốt lịch sử ĐH KHTN hai mươi mấy năm, tính đến thời điểm đó. Ngày nào cũng “thắp hương cầu nguyện” sao cho đừng cúp điện, chương trình chạy trên cái máy Pentium 5, liên tục hơn 10 ngày mà vẫn chưa tính toán ra được kết quả, cần phải có số liệu để bỏ vào luận văn đem in.

Điếu thuốc Bastos xanh rẻ tiền luôn có trên tay, viết mãi, viết mãi mà chỉ có 40 trang, mà mình thì nhất quyết không xài các chiêu “gian lận” như phóng to cỡ chữ, giãn chữ, giãn dòng… để cho văn bản in ra được nhiều trang hơn. Sáng mệt quá, ra quán trước ngõ, gọi ly cafe, ngồi một mình, nghe được bài này, lần đầu tiên… Tôi nhớ ai bên dòng nước xanh, người áo trắng đi bên hàng dừa, người yêu tôi mong chờ… 🙂

What is a youth?

hat is a youth? Impetuous fire. What is a maid? Ice and desire. The world wags on! A rose will bloom, it then will fade, so does a youth, so does the fairest maid. Comes a time when one sweet smile, has its season for awhile, then Love’s in love with me. Some may think only to marry, others will tease and tarry, mine is the very best parry, Cupid he rules us all. Caper the caper; sing me the song. Death will come soon to hush us along. Sweeter than honey and bitter as gall. Love is a past time that never will pall. Sweeter than honey and bitter as gall. Cupid he rules us all!

csardas

sardas (vũ khúc Hungary), nhạc khúc tuổi thanh xuân, một thời mà bạn đọc ra trên gương mặt cô ấy, cùng một lúc, nhiều loại cảm xúc khác nhau. Nàng đang ở đó, mà cũng vừa ko có ở đó, cô gái… đến từ hôm qua!

Le temps du muguet

l est revenu le temps du muguet, comme un vieil ami retrouvé. Il est revenu flâner le long des quais, jusqu’au banc où je t’attendais. Et j’ai vu refleurir, l’éclat de ton sourire, aujourd’hui plus beau que jamais.

Le temps du muguet ne dure jamais, plus longtemps que le mois de mai, quand tous ses bouquets déjà seront fanés. Pour nous deux rien n’aura changé, aussi belle qu’avant, notre chanson d’amour, chantera comme au premier jour.

Il s’en est allé le temps du muguet, comme un vieil ami fatigué, pour toute une année pour se faire oublier. En partant il nous a laissé, un peu de son printemps, un peu de ses vingt ans, pour s’aimer pour s’aimer longtemps.

lý tử thất – tiêu sầu

ý Tử Thất, nàng ngồi đấy, ôm đàn và hát: 🙂 ❤️ …Một ly này kính cố hương, một ly này kính viễn phương, xin giữ cho tâm hồn này được thiện lương, xin cho tôi được trưởng thành… Cái gì mà “niệm niệm bất vong”, cái gì mà “cao sơn thuỷ trường”? Đến trời sáng, ai bảo mình không say thì thật đúng hoang đường.

carnival night – 2

hông ngờ nước Nga hiện đại cũng có The voice, Idol, Got talents các kiểu, không hiểu sao những thứ “tạp nham, tào lao” như vậy mà vẫn tổ chức được. Thế rồi lại đem bài này ra trình diễn, so với bản gốc hoàn toàn là… phiên bản lỗi! 😃 Ai mà còn nhớ phim này thì hẳn cũng ko còn trẻ nữa rồi…

Phim “Vũ hội hoá trang đêm giao thừa”. Bài hát “quatre minutes – 5 phút”, nữ chính tuyệt vời! “Một nụ cười ấm áp, ko nghi ngờ gì nữa, đánh thẳng vào anh ở chính giữa 2 mắt”. Phát hành 1956, phim trở thành kinh điển của điện ảnh Xô-viết, được xem mỗi độ năm mới cho đến tận ngày nay! 🙂

quê em miền trung du

Bao là gươm, bao la súng,
rừng lưỡi lê đi chiếm lại làng quê xưa…

iệu valse nhẹ nhàng cho buổi sáng, vẫn là giọng cả Thái Thanh 🙂 ❤️… Face lại nhắc những hình ảnh về biết bao vùng đất tươi đẹp mà ta đã đi qua! Bài này có 1001 lời chế, kiểu như: “ba em trồng khoai lang, đào lên thấy khoai mì, thiệt là điều vô lý” hay là: “quê em miền Sơn Tây, em gọi bố bằng thầy, em còn bé tí, em còn chưa có ti” 😀