thanh bình lạc

ộ phim đang “hot” thời gian gần đây, tuy hình thức cổ trang, ngôn tình, nhưng hàm lượng văn hoá không phải ít. Yếu tố căn bản đầu tiên, đó là Tống triều tìm cách du nhập giống lúa “100 ngày” từ Giao Chỉ (ngày nay là VN), giống lúa mau kết hạt, chịu sâu bệnh, thời tiết tốt này là cải cách rất căn bản và sâu rộng đối với nông nghiệp TQ đương thời, sản lượng lương thực tăng nhiều lần, lần đầu tiên trong lịch sử, lương thực dự trữ trong kho đủ ăn trong… 50 năm, điều này dẫn đến bùng nổ dân số, rồi lần lượt dẫn đến bùng nổ kinh tế, thương mại, KHKT. TQ bước vào một kỷ nguyên thịnh vượng chưa từng có, đời sống vật chất đầy đủ, các đô thị mở rộng, văn hoá, văn chương, tư tưởng đạt đến mức cực thịnh: Phạm Trọng Yếm, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Vương An Thạch, Trình Di, Trình Hạo, etc…

Đời sống vật chất cao như thế, XH chuyển biến thành những cấu trúc, tổ chức phức tạp đan xen nhau về lợi ích. Đời sống văn hoá tinh thần cao như thế dẫn đến một xã hội văn trị, văn nhân chữ nghĩa được coi trọng, mà võ bị bị coi thường. Võ tướng đời Tống được ưu đãi nhiều về tiền bạc và vật chất, nhưng bị từ chối sự công nhận về địa vị nơi miếu đường, bị xem thường về danh dự. Về việc binh, Tống triều nổi tiếng là… đánh đâu thua đó, chủ tướng trận vong, toàn quân tiêu diệt, cứ thế lặp lại! Hàng năm, để được yên ổn, Tống phải cống nạp cho Liêu hàng vạn lạng bạc và nhiều sản vật khác, thế nhưng trên tổng thể vẫn không thiệt vì cán cân thương mại nghiêng hẳn về phía Tống, còn phía Tây Hạ, Liêu cái gì cũng phải mua từ Trung Nguyên, từ lương thực, nhu yếu phẩm cho đến tơ lụa, hàng thủ công mỹ nghệ!

Ngay cả gây sự với VN cũng bị Lý Thường Kiệt đánh cho tan tành. Tống sử có cách giải thích “chữa thẹn” rất hài hước về chuyện đánh đâu thua đó, lý giải rằng Liêu, Tây Hạ là những bộ tộc du mục, “toàn dân vi binh” – 全民為兵 – già trẻ, trai gái ai cũng là lính, nên một “quân đội chuyên nghiệp” như Tống không thể địch lại được! Cái thành ngữ “toàn dân vi binh” này lại được thấy sử dụng một lần nữa năm 1979, khi hơn nửa triệu quân TQ không thể xuyên thủng hàng thủ của 80 ngàn dân quân VN ở biên giới phía bắc. Nói tới nói lui, cũng phải thừa nhận một thực tế rằng, năng lực sản xuất, trình độ văn hoá cao khiến xã hội TQ nghiêng hẳn về tổ chức quy mô, quy cũ, mà yếu hẳn về tinh thần võ bị, mà những sắc dân yếu kém hơn về kinh tế, văn hoá như Liêu, Tây Hạ, VN thì… ngoài cái mạng cùi ra, chẳng có gì để mất!

polyushko polye

âu lâu nghe lại những bài ca ưa thích quen thuộc, Polyushko-polye – Cánh đồng yêu thương… Cách dịch tiếng Việt làm thay đổi ngữ nghĩa “một tí”, khi người Nga nói “cánh đồng” tức là ý họ nói thảo nguyên bao la ấy, không phải mấy cái vuông ruộng con con… 🙂

KFC

gày xưa, họ lăn lộn nhiều năm, sống trong các làng bản xa xôi, ăn cùng, ngủ cùng người dân địa phương, trãi qua vài mối tình với các cô thôn nữ, hay như Phạm Duy, còn phải vài lần “hủ hoá” với các “công nông tử đệ”, rồi lâu về sau, mới đẻ ra được những giai điệu như thế. 😀 Ngày nay, “nhạc sĩ” đi chợ internet, tìm mua MIDI files, gì cũng có bán: bè trầm, bè nổi, hoà âm, tổng phổ… đem về xào xáo, đặt một cái tên…

Rồi bày ra một cái máy nghe đĩa Lenco, một bút máy Mont Blanc, gạt tàn, bản nhạc chép tay, chụp bức hình chứng minh lao tâm khổ tứ làm “nhạt sĩ”! Chỉ cần kết quả sau cùng, cách làm không quan trọng! Tuy nói là vậy, nhưng mọi người chắc cũng hiểu đôi khi là hoàn toàn ngược lại: gà đồi nướng mắc khén so với gà rán KFC hoàn toàn khác nhau! Tiếc là đám trẻ bây giờ chỉ biết KFC thôi, nhiều cái không thấy được sự khác biệt!

chính khí hướng thượng

ại là phim thanh xuân Trung Quốc, vừa bước vào cổng trường (vâng, chính là ngôi trường trung học Chấn Hoa – 振华中学 nổi tiếng qua ít nhất 3 bộ phim khác nhau), đập ngay vào mắt là câu khẩu hiệu: Hảo vấn lập hành, Chính khí hướng thượng! Haiza, dĩ nhiên cũng chỉ là khẩu hiệu mà thôi, nhưng nó cũng nói lên được nhiều vấn đề!

Lại đi trước Việt Nam, từ lâu đã bỏ những câu sáo rỗng, không có mấy giá trị thực tế, kiểu như Tiên học lễ, hậu học văn. Lễ không quá quan trọng, văn cũng chưa phải là quan trọng lắm đâu, quan trọng nhất là khí chất con người: chính trực, ngay thẳng, luôn tìm đường hướng đi lên, chứ không mãi lưu manh lặt vặt kéo cả lũ xuống dưới!

好问立行
正氣向上

liên tài

ột trong những trình bày tôi yêu thích nhất; dù tôi biết rõ một điều là Nguyễn Đình Nghĩa, ông ấy giúp Thanh Hải vô thượng sư truyền bá tôn giáo bằng kỹ năng âm nhạc của mình, mà Thanh Hải là thứ tào lao như thế nào thì ai cũng rõ. Nhưng cũng như với Phạm Duy vậy…

Thái độ của tôi trước sau vẫn là… “liên tài” – 憐才, yêu mến tài năng mà thôi, XH Việt vô cùng phức tạp, đó lại là một chuyện khác! XH cần những tấm gương cho người khác soi vào, nhưng gương thì chỉ có một mặt, còn tài năng, đó là những viên kim cương có muôn ngàn mặt phản chiếu lấp lánh!

cảnh cảnh tinh hà

hải nói là TQ làm phim thanh xuân – coming-of-age rất hay. Không nên nhầm lẫn với thể loại ngôn tình, ngôn tình chỉ mới gần đây, thanh xuân đã có từ lâu, dù cũng có xu hướng hoà lẫn 2 thể loại. Ôi thanh xuân, ánh thiều quang xán lạn! Nhớ lại chính tôi năm lớp 8, cũng mượn giờ Văn, mượn Kiều để tỏ tình ngay giữa lớp, tỉnh như ruồi không biết ngượng: Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không?! 😀 Đầu phim nghe tên nam & nữ chính: Cảnh Cảnh & Tinh Hà thấy quen quen, nghĩ một chút là nhớ ra mượn từ Trường hận ca – Bạch Cư Dị: Trì trì chung cổ sơ trường dạ, Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên.

Lời thoại chất lượng, mượn cổ văn khá nhiều, nói về kỳ thi ĐH: khảo thí bất nhân, dĩ học sinh vi sô cẩu – thi cử thật là bất nhân, xem học sinh như cỏ rác, nhại một câu trong Đạo đức kinh, Lão tử: Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu! 😀 Lồng ghép văn hoá cổ như thế, lứa tuổi HS chưa thể hiểu hết được, nhưng chúng nó sẽ nhớ và lớn lên từ từ sẽ hiểu, sẽ tìm lại những nội dung ẩn giấu trong đó, có những nội hàm làm phong phú cuộc sống về sau! Với khán giả VN thì không thể nào hiểu được, cùng lắm chỉ nắm được vài ba ngôn từ bề mặt! Nên suốt cả ngàn năm nay, không lúc nào mà VN không học TQ, nhưng rút cuộc, cũng chỉ học được mấy cái hời hợt!

danh chính ngôn thuận

huyện thấy được khi xem phim, vấn đề an ninh mạng Trung Quốc, dĩ nhiên có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng có điều rất căn bản: công khai danh tính! Các tài khoản mạng ở Trung Quốc hầu như phải xác minh nhân thân, như thế ai nấy đều phải suy nghĩ kỹ càng trước khi nói, chỉ cần có Báo cáo (Report) từ tài khoản “tíc xanh” là đã có thể bắt đầu chuỗi hành động pháp lý! Danh có chính thì ngôn mới thuận được, đây là chuyện hiển nhiên! Về vấn đề quyền riêng tư, hiện tại, các tài khoản mạng ở Trung Quốc vẫn cho phép một mức độ “ẩn danh” (không xác minh) nhất định! Nhưng chỉ có khiếu nại, kiện cáo từ tài khoản “tíc xanh” thì mới được xem xét!

Còn loại kia chỉ mang tính chất thông tin. Khi đa số người dân trong cộng đồng đều “tíc xanh”, thì phát ngôn từ tài khoản “không tíc xanh” được xem là không “chính danh”, không có trọng lượng, có độ ưu tiên rất thấp! Về vấn đề tự do ngôn luận, điều này chỉ khả dĩ trong một xã hội dân trí cao, con người có lòng tự trọng và ý thức đạo đức, pháp luật! Còn trong một xã hội phức tạp, đầy rẫy “lưu manh vặt” như Trung Quốc và Việt Nam thì chỉ có đẩy tinh thần “pháp trị” tới mức cao độ, thậm chí là hà khắc, ác liệt thì mới có thể giáo dục, sửa đổi con người, ép họ phải “cẩn ngôn, thận hành”! Chứ không thể ngồi đó mà trông chờ vào mấy câu “đạo đức” suông được!

tiêu sầu

hạc của Mao Bất Dịch vừa nghe là biết đơn giản, không xuất sắc lắm, nhưng ca từ thì chỉnh tề không chê vào đâu được: Một ly này kính cố hương, Một ly này kính viễn phương, Xin giữ tâm hồn này thiện lương, Xin cho tôi được trưởng thành. Cái gì mà “niệm niệm bất vong”, Cái gì là “sơn cao thuỷ trường”? Đến khi trời sáng, ai nói mình không say thì thật đúng hoang đường!

tiếng Việt có 8 thanh

âu về trước, một đêm khó ngủ, chui vô cái hang thỏ Alice – in – wonderland trên Internet và xem cái này, một người nước ngoài học tiếng Việt với cảm quan nhạy bén đã nhận ra tiếng Việt có 8 thay vì 6 thanh. Điều này có vẻ không được “đúng” cho lắm, vì nhìn từ hệ thống chữ Latin thì tiếng Việt chỉ có 6 thanh. Nhưng phân tích ngữ âm học, “sắc” và “nặng” có thể được chia thành 2 thanh con. Hơi khó để nhận ra với người đã quen chữ Quốc ngữ, nhưng với người “chưa biết gì” do mới học tiếng Việt thì lại nhìn ra được! Nếu đọc các tác giả cũ…

… Như Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim sẽ thấy họ dùng cách phân loại xưa có nguồn gốc Trung Quốc là “Tứ thanh – 四声“. Tứ thanh bao gồm: bình – , thượng – , khứ – , nhập – . Mỗi thanh này lại chia thành 2 thanh con là: phù – & trầm – , nên tổ hợp lại sẽ có 4×2=8 thanh. Điều này… rất đáng ngạc nhiên, đi rất gần với các phân tích ngữ âm học hiện đại! Theo cách giải thích này thì tiếng Việt có 8 hoặc 7 thanh, 7 thanh là do “hỏi” và “ngã” đã nhập lại làm một. “Tứ thanh” là nền tảng căn bản rất quan trọng của thơ ca Đường, Tống.

Từ “Tứ thanh” phát triển thành hàng trăm niêm luật của Đường thi, hàng ngàn luật của Tống từ. Sang đến thời Nguyên, xã hội có nhiều biến động, các bộ tộc phương Bắc tràn xuống, ngôn ngữ mất bớt thanh điệu và còn lại 4 thanh như tiếng Quan thoại ngày nay. Từ đó, người TQ bắt đầu làm thơ… “sai luật”, sai khi đọc theo âm Hán-Việt nhưng vẫn “đúng” khi đọc theo Quan thoại! Đó là lý do tại sao người Việt đọc Đường thi, Tống từ thấy hay nhưng sang Nguyên khúc thì bắt đầu thấy hơi “lạc vận”, đến Minh, Thanh thì rất dễ nhận ra nhiều khi “âm luật” “sai” rõ ràng!

Trở lại vấn đề tiếng Việt có 6 thanh hay là 8 thanh, thực ra 6 hay 8 thanh, với đa số người học tiếng Việt không quá quan trọng. Nhưng cần hiểu sâu về hệ thống “âm luật cổ” để có hướng phát triển cho hệ thống ký âm Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ, một hệ thống chữ viết nhân tạo và có phần “hơi vội vàng, tạm bợ, hơi duy ý chí và áp đặt” đã khiến chúng ta có cái ấn tượng sai lạc là tiếng Việt chỉ có 6 (hoặc 5) thanh! Đúng hơn, về mặt ngữ âm học, cần phải nói rõ là tiếng Việt có 8 (hoặc 7) thanh, nhưng hệ thống chữ ký âm Quốc ngữ hiện tại chỉ sử dụng có 5 ký hiệu để biểu diễn thanh điệu mà thôi!

lý tử thất

ồi một hai ba năm, Danh thành, anh trở lại. Với em, anh chăn tằm, Với em, anh dệt vải. Anh và em sẽ sống, Trong một mái nhà tranh. Lấy trúc thưa làm cổng, Lấy tơ liễu làm mành… (Nguyễn Bính)