phạm duy – 4

Tôi biết rằng niềm đau khổ
là sự cao thượng duy nhất.

(Baudelaire)

Chưa bao giờ tôi khóc khi nghe người ta hát. Thế mà tối hôm đó nước mắt tôi cứ chực trào xuống trong suốt thời gian tôi ngồi nghe nhạc sĩ Phạm Duy hát bài tâm ca số 5 của anh… Trong ánh mắt của những trẻ tuổi hôm ấy, tôi quả đã đọc thấy tha thứ và tin yêu. (Thích Nhất Hạnh)

uối những năm 60, 10 bài tâm ca của nghệ sĩ PD là một sự kiện có ý nghĩa xã hội lớn lao. Lúc này, quân đội Hoa Kỳ chính thức có mặt tại miền Nam Việt Nam, về mặt xã hội, đây là một giai đoạn đỗ vỡ về niềm tin và luân lý, một thời kỳ sợ hãi, hoài nghi và khinh thị. 10 bài Tâm ca ra đời là để phản ứng với hoàn cảnh ấy. 10 bài Tâm ca: Tôi ước mơ, Tiếng hát to, Ngồi gần nhau, Giọt mưa trên lá, Một cành củi khô, Kẻ thù ta, Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi, là những ca khúc đơn giản về mặt âm nhạc, nhưng thẳng thắn và ác liệt về ngôn từ. Nhiều trong số những bài tâm ca này đã được các ca sĩ phản chiến Mỹ dịch và hát bằng tiếng Anh. Riêng tôi, tôi đặc biệt yêu thích nét thánh nhạc đơn giản mà thiêng liêng trong Giọt mưa trên lá, bài nhạc đã được post ở Phạm Duy 1.

Kỷ vật cho em - Thái Thanh 
Ngày sẽ tới - Lệ Thu 

Sau 10 bài tâm ca, PD viết Vỉa hè ca, Tục ca, nhưng không phổ biến ra công chúng, bởi vì những ca khúc này chỉ có tác giả mới dám hát! 😀 Người ta chỉ biết qua một số nhan đề và ca từ được nhắc lại: Sức mấy mà buồn, Bỏ đi Tám, Okê Salem… Về những chi tiết này xin xem Hồi ký Phạm Duy, tập 3, chương 19. Nhiều người phê bình Phạm Duy đã đem nghệ thuật đến chỗ nhảm nhí, thô bỉ, nhưng tôi thiết nghĩ đó là những ca khúc viết chơi, không phổ biến. Còn riêng về con người tác giả, cũng giống như mỗi người chúng ta, tiếu lâm, tục tĩu đâu phải là cái gì không phổ biến trong cuộc sống, đâu phải là chuyện gì quá to lớn?! Bên cạnh ngưỡng mộ tài năng, tôi còn thích PD ở chỗ ông là một người Việt Nam điển hình, bao gồm cả rất nhiều điểm xấu: dễ dãi, bao đồng, đôi lúc hời hợt, dung tục… nhưng ít ra ông vẫn thẳng thắn: sức mấy mà buồn, nỗi buồn Giao Chỉ không lớn…

Để lại cho em - Anh Ngọc 
Ru người hấp hối - Thái Thanh 

Sau Tâm ca, tác giả PD viết tiếp Tâm phẫn ca, một chùm ca khúc tuy ít hơn Tâm ca về số lượng, nhưng lại phẫn uất hơn nhiều về ca từ. Những ca khúc này có bối cảnh ra đời chính là Tết Mậu Thân 1968: Tôi không phải gỗ đá, Nhân danh, Bi hài kịch, Đi vào quê hương, Người lính trẻ, Chuyện hai người línhBà mẹ Phù Sa. Tuy nhiên, tôi có cảm giác rằng những chùm ca khúc viết theo chủ đề này (Tâm ca, Tâm phẫn ca), về mặt âm nhạc lại ít có bài hay, chỉ có những bài ca lẻ, viết theo ngẫu hứng lại là những bài xuất sắc về mặt âm nhạc.

Một lúc nào đó, dưới nhiều áp lực, PD cũng đã viết những ca khúc tuyên truyền chính trị (tuy vậy vẫn mang tính trái khoáy, khôi hài ngấm ngầm, kiểu như Một hai ba ta đi lính Cộng hòa). Tuy có nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh vấn đề này, nhưng tôi nghĩ, không dễ gì khuất phục thâm tâm của một người nghệ sĩ lớn. Tự do tư tưởng, tự do sáng tạo là cái tự do lớn nhất của một con người, nhất là một người nghệ sĩ như PD.

(Còn tiếp…)

phạm duy – 3

Hãy nhìn cho khá sâu xa,
và sẽ nhìn thấy khúc điệu.

(Carlyle)

Nói vậy chắc không ai tin. Lúc tôi đã có vợ, tôi chỉ yêu một người phụ nữ trong 10 năm trời với mối tình rất nghệ sĩ. Tôi không đụng chạm tới cái chân lông của cô ấy. Cô ấy làm 300 bài thơ tặng tôi, tôi viết tặng cô ấy gần 50 bài tình ca hay nhất đời mình…

NS PD nói những lời này hiển nhiên là nói thật, tôi tin là như thế. Có điều đó chỉ là một nửa sự thật. Có thể ông đã yêu một người 10 năm trời mà không hề đụng chạm tới cái chân lông cô ấy, nhưng cũng trong thời gian đó, ông cũng có thêm vài đứa con rơi ở đâu đó. Để biết về cái nasty reputation người NS này, xin đọc 3 tập hồi ký của ông. 😀

ăm 1954 đánh dấu một bước chuyển biến trong sáng tác của nhạc sĩ Phạm Duy. Ông hoàn thành phần đầu tiên của trường ca Con đường Cái quan (phần Từ miền Bắc), và bắt đầu chuyển hướng qua viết nhạc tình. Ở đây tôi xin phép được bỏ qua những phê bình hướng về đời tư của tác giả, một người có hàng chục (nếu không muốn nói là hàng trăm) người tình… Chỉ có một điều, nhạc tình của Phạm Duy cũng tuyệt diệu không kém gì những loại nhạc khác của ông.

Đường xưa lối cũ, Đường chiều lá rụng, Hoa rụng ven sông, Cho nhau, Xuân thì, Tìm nhau, Đừng xa nhau, Ngày đó chúng mình, Đường em đi, Thú đau thương, Còn gì nữa đâu, Kiếp nào có yêu nhau… chỉ là một ít trong số rất nhiều bản nhạc tình tuyệt vời của con người đào hoa Phạm Duy. Một số nhạc phẩm chỉ là những mối tình “sinh viên” lãng mạn, hẹn hò, một số lại là những cuộc tình gây chấn động tâm tưởng và để lại những vết cắt, vết đau lâu dài.

Kiếp nào có yêu nhau - Mỹ Linh 
Đường chiều lá rụng - Thái Thanh 

Trong số đó Đường chiều lá rụng là một bản nhạc đặc biệt, rất “khó chịu”, tinh vi về nhạc thuật, tác giả đã bỏ ý định chiều lòng đa số quần chúng nghe nhạc mà đặt nghệ thuật lên trên hết. Đây là một bản nhạc phức tạp, rất kén người biểu diễn và người nghe. Tuy vậy, Kiếp nào có yêu nhauNghìn trùng xa cách mới thực sự là một trong những đỉnh cao của nhạc tình PD. Có lẽ PD chỉ thực sự yêu có một người, và dành tất cả những bài tình ca hay nhất của mình cho người ấy, nhưng đấy lại là một tình yêu Platonic (chỉ có điều ông lại có những cái non-Platonic ở quá nhiều những người khác!).

Nước mắt rơi - Thái Thanh 
Tôi còn yêu tôi cứ yêu - Khánh Ly 

Năm 1960, PD hoàn tất trường ca Con đường cái quan, một công trình của nhiều năm làm việc và của một lời hứa thời hoa niên: ghi lại những gì ông đã tai nghe mắt thấy trên chuyến du ca xuyên Việt theo gánh hát Đức Huy. Qua những năm 60, khi cuộc sống gia đình đã ổn định tại Sài gòn, khi đã hoàn tất những đại tác phẩm, nhạc sĩ PD quay sang sáng tác những tác phẩm nho nhỏ xinh xinh: Xuân ca, Bài ca trăng, Bài ca sao, Nước mắt rơi, Ngậm ngùi, Mộ khúc

Ngoài ra, ông còn bắt đầu viết những công trình nghiên cứu về dân ca cổ nhạc: Đặc khảo dân nhạc Việt Nam (NXB Hiện Đại, 1972) và Đường về dân ca (NXB Xuân Thu, USA, 1990). Hiện tôi mới chỉ tìm được soft-copy của công trình đầu, xin post ở đây, (format ebook PRC), cuốn Đường về dân ca là một tác phẩm quan trọng nhưng do xuất bản tại Mỹ nên đến giờ tôi vẫn chưa tìm được. Những bài dân ca chúng ta còn nghe được hôm nay: Trèo lên Quán Giốc, Qua cầu gió bay, Cây trúc xinh… là nhờ công của ông.

Điều tôi yêu ở những ca từ của PD là chúng đẹp, tân kỳ nhưng đơn giản, gần gũi, không trừu tượng xa vời, không đao to búa lớn. Ca từ cũng như nhạc của ông không triết lý, không siêu hình, chỉ là những thoáng chớp thăng hoa của cảm xúc, của tâm hồn, vậy thôi: Vâng, tôi còn yêu, tôi còn lẽo đẽo mang nhiều mộng nghèo, đường về cõi tiên xa vời, nhạc trời đứt dây tơ rồi, thần đồng gãy đôi cánh vàng tả tơi… Vâng, tôi còn yêu, bên bờ suối vắng lạnh lẽo tiêu điều. Dòng lệ hết vơi lại đầy, ngập lụt thế gian đêm ngày, chập chờn bóng ma kêu bầy cuồng quay… (Tôi còn yêu tôi cứ yêu).

(Còn tiếp…)

phạm duy – 2

Hai tiếng Việt Nam quá lớn,
máu sẽ còn chảy bao nhiêu năm nữa
để tô thắm hai chữ Việt Nam?

(Phạm Duy)

Chỉ trong vài năm đầu của kháng chiến 9 năm, gia tài âm nhạc của Phạm Duy đã đạt đến mức nhiều người phải ngưỡng mộ và đố kỵ. Xin mượn lời của nhà nghiên cứu âm nhạc Canada, G.E.Gauthier, để mô tả sự nhận thức của quần chúng thính giả đối với Phạm Duy giai đoạn này (một đánh giá PD như người nhạc sĩ lớn nhất trong toàn bộ lịch sử âm nhạc Việt Nam):

Các lớp quần chúng của chàng thanh niên Phạm Duy đó chắc chắn đã ngờ ngợ rằng một vì sao băng vừa mới xuất hiện trên nên trời nghệ thuật Việt Nam, một vì sao băng có lẽ đã vụt đi từ bốn nghìn năm về trước…

ôi đặc biệt thích những tác phẩm đầu tiên của nhạc sĩ Phạm Duy, từ Cô hái mơ, Tình kỹ nữ… đến Thu chiến trường, Bên cầu biên giới, Nhớ người ra đi, Bà mẹ Gio Linh… Những tác phẩm ấy báo hiệu một Phạm Duy đầy sức sống và sức sáng tạo về sau. Và cho đến bây giờ đó vẫn là đỉnh cao nhất trong những nhạc phẩm tiền chiến. Có lẽ sẽ không ai kìm được nước mắt khi giai điệu như thôi miên Bà mẹ Gio Linh qua giọng ca oán hờn “dựng tóc gáy” Thái Thanh:

Mẹ già cuốc đất trồng rau, nghe tin xóm làng kêu gào. Quân thù đã bắt được con, mang ra giữa chợ cắt đầu. Nghẹn ngào không nói một câu, mang khăn gói đi lấy đầu. Chiều về trên xóm buồn teo, xa xa tiếng chuông chùa ngân…

Cái lời ca ấy ám ảnh tôi, và tâm hồn non nớt lúc nhỏ tôi đã biết rưng rưng nước mắt khi nghe những lời ca: Nhưng mỗi khi dưới mái nhà đơn sơ, dừng chơi nắm tay mẹ hỏi rằng, rằng, rằng: Cha chúng con đâu, về mua bánh cho con, mẹ ơi! (Nhớ người ra đi). Những giai điệu vừa là dân ca, vừa không phải là dân ca, thoát thai từ những gốc rễ bình dị xa xưa, vừa mang đầy màu sắc hiện đại và tân kỳ. Phải nói chỉ có một mình ông, PD, là đủ tài năng để làm một công cuộc Phục sinh cho dân ca dân nhạc.

Bên cầu biên giới - Thái Thanh 
Thuyền viễn xứ - Lệ Thu 

Những gì mà các tác giả sau này làm: Trần Tiến, Phó Đức Phương, Dương Thụ, Nguyễn Cường… chỉ là copy & paste lại dân nhạc, khó có thể gọi là “hồi sinh”. Trong số những tác phẩm của giai đoạn này, tôi đặc biệt yêu thích hai bài: Thu chiến trườngBên cầu biên giới. Đến bây giờ chủ đề ấy vẫn còn được lặp lại đôi khi, ai đó vẫn còn đặt câu hỏi: Đời tôi sao vẫn còn biên giới, lòng tôi sao vẫn ngừng nơi đây?. Cái âm giai La thứ huyền bí, vừa thiêu thiếu, vừa đầy đủ trong Thu chiến trường quả thật quá hấp dẫn, đặc sắc về mặt âm nhạc. Nghe Thu chiến trường tôi cảm giác như nghe một giai điệu bắc phương nào đó của vùng sa mạc, nghe không khí Biên tái của Đường thi trỗi dậy.

Thu chiến trường - Kim Tước 
Chiều về trên sông - Lệ Mai 

Mời các bạn nghe kỹ hai tác phẩm này, chỉ một vài lần thôi để cảm thấy cái “touch”, cái khẽ chạm của thiên tài. Bên cạnh những ca khúc làm rung cảm cả một dân tộc ấy, cùng một lúc, con người nghệ sĩ Phạm Duy vẫn loan truyền đi niềm vui sống, nét phơi phới yêu đời qua những giai điệu: Quê nghèo, Nương chiều, Gánh lúa, Về miền Trung, Tiếng hát sông Lô, Chinh phụ ca… Lại là phục sinh dân ca dân nhạc, nghe cũ đấy mà mới đấy, như một nguyên lý fractal đồng dạng vốn tiềm ẩn trong tất cả hủy diệt và tái tạo của cuộc sống.

Mẹ tôi đến giờ vẫn hay hát Quê nghèo: làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói, có những cánh đồng cát dài…, cái lời ca làm bà nhớ lại không gian một làng Vĩ Dạ xanh biếc như ngọc xưa, nơi nuôi bao kỷ niệm tuổi ấu thơ: nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời, áo dài đùa trong tiếng cười… Trong những bài ca viết cho quê hương ấy, PD đã lột tả chính xác đặc trưng của từng vùng miền, từ địa lý, khí hậu, giọng nói đến tâm hồn. Ít ai có được cái cảm quan tinh tế sâu sắc như ông. Ông là người đầu tiên đề cập vấn đề hệ ngũ cung Huế, nghe “lơ lớ” khác hẳn những hệ ngũ cung khác, và đã có những ca khúc phản ánh chính xác được những cảm nhận ấy. Trong số những tình ca quê hương này, ngoài Tình hoài hương mà tầm vóc của nó đã phổ quát, tôi còn rất yêu thích bài Về miền Trung. Cái giai điệu chỉ có thể thoát thai từ giọng nói, tâm hồn người xứ dân gầy ấy:

Đêm hôm nao gió u buồn trên sông vắng, có tiếng hát xao xuyến ánh trăng vàng. Người đi trên đống tro tàn, thương em nhớ mẹ hương vàng về đâu? Chiều khô nước mắt rưng sầu, tan thân thiếu phụ, nát đầu hài nhi… Về miền Trung, còn chờ mong núi về đồng xanh, một chiều nao đốt lửa rực đô thành…

Về miền Trung - Ái Vân 

Qua những năm 50, nhạc sĩ Phạm Duy lại tiếp tục cho ra đời những nhạc phẩm vi diệu hơn nữa về nhạc thuật. Dáng nhạc, lời ca không kém phần mỹ miều, nhưng đã được mài giũa để trở nên đài các, sang trọng hơn. Giai đoạn này chủ yếu là những bài tình ca quê hương: Nụ tầm xuân, Tiếng sáo Thiên Thai, Tình hoài hương, Tình ca, Thuyền viễn xứ, Dạ lai hương, Bà mẹ quê, Lữ hành, Viễn du, Hoa xuân, Ngày trở về, Hẹn hò, Chiều về trên sông, Tiếng hò miền Nam

Chưa ai xưng tụng quê hương, vừa riêng tư, vừa phổ quát, thành công được như Phạm Duy. Riêng Tình ca phải được xem như một tuyên ngôn cho tiếng nói, cho con người Việt, một tuyên ngôn chan chứa yêu thương và tự hào (xem thêm bài về Tình ca trong một post trước của tôi). Một tác phẩm để lại trong tôi dấu ấn rất lớn là Thuyền viễn xứ. Lần đầu tìm nghe được, tôi đã nghe đi nghe lại suốt cả một ngày trời và tự nhủ với mình: từ nay mình được biết một loại âm nhạc mới. Từ đó tôi dần dần chuyển qua yêu thích các giai điệu ngũ cung huyền ảo. Một bản nhạc đặc biệt nữa mà tôi cũng rất yêu thích: Chiều về trên sông, nửa ngũ cung, nửa thất cung, bản nhạc được viết trên mode Dorian, lai lai gần giống hệ ngũ cung Oán của dân ca Nam bộ, gây cảm giác buồn, buồn nhưng thanh thản.

(Còn tiếp…)

phạm duy – 1

Tôi không tìm, tôi thấy!
(Pablo Picasso)

hững bạn đọc blog tôi hẳn để ý dấu vết nhạc Phạm Duy (PD) có hầu hết khắp mọi nơi. Tuy vậy, tôi chưa từng viết một bài nào để nói về ông. Lý do đơn giản: cuộc đời và âm nhạc PD là một đề tài quá rộng lớn, tôi tự lượng hiểu biết của mình không đủ để mô tả về một con người Việt Nam mà lại có thể phong phú đến vậy. Những ai muốn hiểu về PD, tốt nhất là… xin dừng tất cả việc đọc lại ở đây, kể cả đọc bài viết này. Tư liệu trên internet về người nhạc sĩ vĩ đại này cũng khá nhiều, nhưng điều trước tiên cần làm là tìm và nghe ít nhất thì cũng vài chục, nhiều thì vài trăm nhạc phẩm của PD, để biết và hiểu ông từ khía cạnh ấy, trước khi đọc xem người khác viết những gì.

PD, ông được gọi là một người Việt Nam Việt Nam nhất. Hiểu theo nghĩa những gì tốt và xấu điển hình của người Việt Nam đều có đầy đủ và sống động trong con người ông. Vậy nên xin nhìn nhận ông như một con người bình thường như chúng ta, đừng đứng từ nhãn quan chính trị, tôn giáo, lịch sử, thậm chí là cũng đừng từ quan điểm tư cách đạo đức mà phán xét. Đến lúc này có thể nói một cách xác tín rằng ông là nhạc sĩ Việt Nam vĩ đại nhất qua mọi thời đại, và tầm vóc vượt lên trên hẳn những tên tuổi được đa số quần chúng tôn vinh hiện nay như Trịnh Công Sơn, Văn Cao. Tôi thường nghĩ nếu so sánh Trịnh Công Sơn và Phạm Duy, cũng như đem đom đóm so với trăng rằm. Phải xin lỗi những fan của nhạc sĩ họ Trịnh nhưng tôi không hề có ý đề cao hay hạ thấp ai khi nói vậy, chỉ cố gắng đưa ra một so sánh không khập khiễng.

Bao giờ biết tương tư - Tuấn Ngọc 
Trả lại em yêu - Thái Thanh 

Nếu chúng ta cần những ca từ uyên áo, trừu tượng, thì đó chính là nhạc sĩ TCS, nhưng nếu muốn nói đến âm nhạc (musique), xin hãy nhường cho PD. Từ lúc còn rất nhỏ, tôi đã nghe và hát nhạc PD mà không hề biết chúng là của ông: Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ (Em Bé Quê), Tuổi thần tiên nép trong tay mẹ hiền, một dòng sữa thơm xa xưa còn truyền (Tuổi thần tiên), Xuân trong tôi đã khơi trong một đêm vui, một đêm một đêm gối chăn phòng the đón cha mẹ về (Xuân ca)… Lớn lên, lần đầu biết rung động, tôi lại hát nhạc ông mà vẫn chưa biết ông là ai: Hôm qua tôi đến nhà em, ra về mới nhớ rằng quên cây đàn (Cây đàn bỏ quên), Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo, em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi (Mùa thu chết), Trả lại em yêu, khung trời đại học, con đường Duy Tân, cây dài bóng mát (Trả lại em yêu). Cuộc đời làm cho đôi bên yêu nhau cách một biển sâu, hẹn hò gặp nhau thiên thu cho phong phú đời người sau… (Hẹn hò).

Tôi sẽ còn nhớ mãi một kỷ niệm khó quên trong đời, năm tôi học lớp 8, ngôi trường Trưng Vương yêu dấu, thầy Sinh, một thầy giáo của chúng tôi trước khi lên đường đi Mỹ, đã vào lớp kể cho lũ học sinh 13, 14 tuổi chúng tôi nghe về những điều: Các em đã đến tuổi biết, cần phải biết và cũng không nên che giấu. Rồi thầy kể chúng tôi nghe chuyện tình Quasimodo và Esmeralda (Thằng gù nhà thờ Đức Bà – Victor Hugo) và ôm đàn hát: Ngày nào cho tôi biết, biết yêu em rồi, ôm mối tương tư, ngày nào biết mong chờ, biết rộn rã buồn vui đợi em dưới mưa. Cái tập thể lớp 8/6 ngày đó đã biết Bao giờ biết tương tư cũng là nhờ người thầy nghệ sĩ của chúng tôi.

Và còn rất rất nhiều ca khúc khác, người ta vẫn hát, từ giới bình dân lao động cho đến giới trí thức, học giả, vẫn hát đấy mà chưa hẳn đã biết đó là nhạc PD. Ông xem đó như một thành công, khi quần chúng truyền tụng tác phẩm của mình mà không cần nhớ đến tác giả. Có chuyện gần đây trên một chương trình của VTV3 phỏng vấn một cụ già trên 100 tuổi nhưng sức khỏe, trí nhớ vẫn còn tốt, người ta đề nghị bà hát những khúc nhạc mà bà còn nhớ, và bà đã hát một “bản dân ca bà được nghe lúc trẻ”: Ai có nghe tiếng hát hành quân xa, mà không nhớ thương người mẹ hiền… (Nhớ người ra đi).

Sau này, tôi mới có đủ điều kiện để nghe PD một cách đầy đủ và có hệ thống, mới thấy cái gia tài âm nhạc kia thật quá vĩ đại, vượt xa, rất rất xa tất cả những nhạc sĩ Việt Nam khác không chỉ ở số lượng, mà còn ở chủ đề đa dạng phong phú, và đặc biệt là ở nhạc thuật tinh vi, biến hóa, đa dạng, nhiều màu sắc, nhiều phong cách, nhiều cảm xúc mới lạ, đến mức khó có thể nắm bắt hết được. Dưới đây, tôi xin mạn phép được “cưỡi ngựa xem hoa”, điểm qua một số tác phẩm và các giai đoạn sáng tác của PD. Và trong chừng mực có thể, tránh xa cái bối cảnh chính trị chia cách 2 miền đất nước, và tránh luôn cả đời tư “nasty” của tác giả. Xin các bạn lượng thứ cho quan điểm của tôi, nhưng cái câu hỏi vô lý nghệ thuật vì nghệ thuật hay nghệ thuật vì nhân sinh, đến nay tôi vẫn chưa trả lời được. Cái gì đã tạo nên một tâm hồn đa dạng phong phú đến thế, điều ấy đến nay tôi vẫn không thể tự lý giải, chỉ biết mượn lời của Picasso để nói về một thiên tài: Tôi không tìm, tôi thấy!

(Còn tiếp…)

bến xuân

huyện về ca khúc Bến xuân kể ra đây nghe như một giai thoại, nhưng lại là chuyện hoàn toàn có thật. Chuyện về mối tình giữa nhạc sĩ Văn Cao và người đẹp Hoàng Oanh. Một chương trình truyền hình, tôi quên mất là chương trình nào, phỏng vấn Văn Cao và Hoàng Oanh và kể lại mối tình giữa hai người.

Ngày ấy hai người yêu nhau, nhưng cùng yêu người đẹp Hoàng Oanh còn có ca sĩ Kim Tiêu và nhạc sĩ Hoàng Quý (tác giả Cô láng giềng), hai người bạn thân của Văn Cao trong ban nhạc Đồng Vọng nổi tiếng đất cảng Hải Phòng một thời. Nhưng khi cưới, nhà cô Hoàng Oanh thách cưới quá nặng, chỉ có một người đáp ứng đủ yêu cầu và cưới được người đẹp, đó là nhạc sĩ Hoàng Quý.

Bến xuân - Hà Thanh 

Cô Hoàng Oanh vì áp lực gia đình không thể làm khác, nhưng vẫn đến thăm Văn Cao một lần cuối, đó là nguyên lai lời ca: nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em đến tôi một lần… tới đây chân bước cùng ngập ngừng, mắt em như dáng thuyền soi nước…. Mối tình rất đẹp, đến nỗi làm lời cho ca khúc Bến xuân này, có sự tham gia của ít nhất hai nhạc sĩ tài năng là Văn Cao và Phạm Duy. Tôi trích đây lại nguyên văn lời tỏ tình thô mộc của nhạc sĩ Văn Cao: ước gì anh có em để hằng ngày em quạt cho anh sáng tác, em vá quần thủng cho anh, làm mẫu cho anh vẽ 😬.

Mời các bạn nghe Bến xuân qua trình bày của Hà Thanh, muốn biết giọng Huế xưa như thế nào, có lẽ tốt nhất hãy nghe giọng ca ngọt ngào của ca sĩ Hà Thanh (nhất là bài ca Ai lên xứ hoa đào – Hoàng Nguyên).

ngày độc lập

gày này năm xưa, mùng 2 tháng 9, mẹ tôi còn nhớ lại, ông ngoại cõng mẹ tôi trên vai, lúc đó vừa hơn 3 tuổi, vừa đi tham gia biểu tình mừng ngày độc lập, vừa đi vừa hát: mờ trong bóng chiều, một đoàn quân thấp thoáng… (Chiến sĩ vô danh – Phạm Duy). Những kỷ niệm về ông ngoại mà mẹ tôi còn nhớ mãi suốt đời, khi ông tôi ôm đàn mandolin hát những lời ca: đây An Phú Đông, ôi An Phú Đông, ngày nào quân đi reo bao hùng dũng… (An Phú Đông – Võ Đức Thu).

Chiến sĩ vô danh – Hùng Cường 

Ông ngoại đã theo Việt Minh đi kháng chiến, nhưng về sau phải bỏ về vì nhà có gốc gác phong kiến và thực dân quá lớn. Lịch sử còn vương lại đâu đó trong từng gia đình. Một thời lý tưởng đẹp đẽ, người người đã cống hiến không tiếc những gì tốt đẹp nhất.

café Chiêu



afé Chiêu là một quán không nhiều người biết, nằm trong một hẻm phố trên đường Cao Thắng, thành lập năm 1969, một trong những quán café xưa của Sài Gòn còn sót lại, tuổi đời cũng sánh ngang ngửa với quán Tùng Đà Lạt. Những bạn nào từng là sinh viên ĐH KHTN hẳn quen thuộc quán café này. Ngày trước thường ngồi đây với Đạt, Minh, Khoa, Phương… có hôm nói chuyện IT & CS say sưa suốt cả ngày, uống hết 16, 17 ấm trà.

Bài hương ca vô tận – Thái Thanh 
Nước mắt mùa thu - Lệ Thu 
Người đi qua đời tôi - Khánh Ly 

Quán có gì gần gần giống như café Tùng (Đà Lạt): không gian đồ gỗ cũ kỹ, một vài bức tranh sơn dầu tối tăm ám khói, một bức ảnh BB (Brigitte Bardot) lớn đã ngã màu và rạn vỡ, một vài bức ảnh Đà Lạt của MPK. Từng ngồi đây khá lâu để xem những đổi thay của cuộc sống đi qua không gian quán: những ông trung niên xài laptop và… uống Heineken, những cô cậu thanh niên, thiếu nữ mặc áo pull đen Machine Head, Slipknot… đi giày Converse… phì phèo thuốc lá và nghe Văn Cao, Trịnh Công Sơn…

Quán mở nhạc xưa, phần nhiều là nhạc hay, nhưng bản thân người mở nhạc cũng không mấy chú ý đến giá trị của âm nhạc. Một lần yêu cầu người mở nhạc cho nghe Thái Thanh, người ta hỏi là ai, rồi loay hoay một lúc lâu mới tìm ra và mở được hai bài. Ngày trước, ở quán này, thi thoảng tìm được những phút “yêu người, yêu đời” hiếm hoi, như khi nghe giọng ca Mai Hương: Hương ơi, sao tiếng hát em nghe vẫn ngọt ngào, dù em ca những lời yêu đương, hay chuyện tình gãy gánh giữa đường (ca khúc viết riêng cho Mai Hương: Bài hương ca vô tận – Trầm Tử Thiêng).

Hay khi nghe Lệ Thu hát: Nước mắt mùa thu khóc ai trong chiều, hàng cây trút lá nghĩa trang đìu hiu (bài ca viết riêng cho Lệ Thu: Nước mắt mùa thu – Phạm Duy).

Hay là nghe Khánh Ly: Người leo lên người tôi (í quên: người đi qua đời tôi) có nhớ gì không người (ca khúc Người đi qua đời tôi – Phạm Đình Chương). 😬

Ngày xưa uống café Chiêu là để… chờ yêu, bẵng đi một thời gian không lui tới café Chiêu nữa… Cuộc sống ít ra cũng nên còn cảm thấy điều gì đó đẹp, nên còn cảm thấy phải tôn trọng một số thứ nào đó, bây giờ lại trở về đây để… chờ yêu.

nghìn trùng xa cách

Ngày chia tay, lặng lẽ mưa rơi. Một tiếng thương ôi, gửi đến cho người. Trả nốt đôi môi gượng cười. Nghìn trùng xa cách, người cuối chân trời. Đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người.

ghìn trùng xa cách, đây có thể nói là bản nhạc tuyệt vời nhất cho những cuộc tình tan vỡ. Bài nhạc không còn là tiếc thương, vương vấn mà là thổn thức cầu nguyện cho những tâm hồn khổ đau lầm lạc. Đây phải nói là lần yêu thương chân thành nhất và đau khổ thực sự của con người đào hoa Phạm Duy. Cứ mỗi lúc tình cảm trào dâng đến chỗ tột bậc thế này, ông lại trở về với cái nguồn sacred music – âm nhạc phụng sự cho những tình cảm thiêng liêng. Nghìn trùng xa cách là một điểm son trong âm nhạc Phạm Duy.

Nghìn trùng xa cách - Thái Thanh 
Nghìn trùng xa cách - Lê Dung 

Không cần phải nói về phần lời rất đẹp, phần nhạc là một sự đơn giản lạ kỳ. Cấu trúc một bài hát thông thường phải là ABAB hay ABA (A: khúc dẫn, B: khúc điệp), Nghìn trùng xa cách chỉ có cấu trúc 2 đoạn AB, và sử dụng nhiều gam nhạc lặp đi lặp lại: mi mi fa sol, sol sol la si hay do do mi mi, la la re re. Điểm đặc biệt nhất của bản nhạc là cách chuyển giọng (modulate) từ đoạn 1 sang đoạn 2, và rất nhiều kỹ thuật tinh tế khác, với mục đích không ngoài việc làm cho lời và nhạc ăn khớp vào nhau, để vẽ nên một nét gượng cười bằng âm thanh.

Ai đã cảm được nhạc Phạm Duy rồi mới thấy nhận xét sau đây của nhạc sĩ rất đúng: âm nhạc hiện nay kém sang trọng, thiếu sự cuốn hút và rung động lòng người. Riêng tôi thì muốn nói thêm rằng: âm nhạc hiện tại còn thiếu cả sự… tử tế! 😬.

tầm dương giang đầu

Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận,
Anh lụy đời quên bến khói sương.
Năm tháng, năm cung mờ cách biệt,
Bao giờ em hết nợ Tầm Dương?

君不見黃河之水
天上來奔流到海不復回

勸君更盡一杯酒
西出陽關無故人

醉臥沙場君莫笑
古來徵戰幾人回

潯陽江頭夜送客
楓葉荻花秋瑟瑟

抽刀斷水水更流
舉杯消愁愁更愁
人生在世不稱意
明朝散髮弄扁舟

Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời. Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi. Long lanh tiếng sỏi vang vang hận. Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người… (Xuân Diệu)

Chiều thu nhớ nhung vì đâu, thắm đôi dòng châu, tiếc thay tại sao đành lỡ làng. Man mác khói hương bay dịu dàng. Như tóc mây vương dáng liễu mơ màng, cung đàn nhỏ lệ Tầm Dương. Ai đó tri âm biết cùng

Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận, Anh lụy đời quên bến gió sương. Năm tháng, năm cung mờ cách biệt, Bao giờ em hết nợ Tầm Dương? (Hoàng Cầm)

ề những tác phẩm Đường thi quan trọng, ai chỉ từng tham khảo những cuốn cơ bản như Đường thi nhất bách thủ (100 bài), Đường thi nhất thiên thủ (1000 bài), cũng đã thấy đó là cả một gia tài văn chương đồ sộ, ảnh hưởng của chúng đến đời sau thực không cần phải nói tới. Những ông bạn già ba tôi, những người quen của gia đình tôi, mỗi khi ngồi lại ăn nhậu với nhau, thế nào cũng có một vài câu Đường thi được đọc, ví dụ như:

Anh có thấy sông Hoàng Hà, Con sông vĩ đại nước sa lưng trời. — Quân bất kiến Hoàng hà chi thủy, Thiên thượng lai bôn lưu đáo hải bất phục hồi.

Xin vơi một chén quan hà, Dương quan chốn ấy ai là cố nhân. — Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu, Tây xuất Dương quan vô cố nhân.

Sa trường say ngủ ai cười, Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu. — Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách, Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.Tầm Dương giang đầu dạ tống khách, Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.

Cầm dao chặt nước nước cứ trôi, Nâng chén tiêu sầu sầu không vơi. Người đời nếu chẳng được như ý, Sớm mai xõa tóc cỡi thuyền chơi.Trừu đao đoạn thủy thủy cánh lưu, Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu. Nhân sinh tại thế bất xứng ý, Minh triêu tản phát lộng biên châu.

Lúc nhỏ, tự học đọc và viết được Hán tự, thuộc vài ngàn bài Đường thi, Tống từ, tôi đã lấy làm tự phụ rằng còn thuộc nhiều thơ hơn cả mấy ông già bạn ba tôi. Chỉ sau này mới thấy cái vốn Hán học của mình bé như hạt cát, chỉ mới là dạng đọc mau nhớ thôi. Tuy vậy vài năm lúc tuổi nhỏ cũng đủ để nhận được cái hồn cổ văn lồng lộng, những u tình sâu kín, cũng đủ thấy cốt cách người xưa… Lớn lên, tôi dần cảm thấy thích âm nhạc hơn, mà xa rời văn chương, có lẽ vì âm nhạc dễ tiếp thu hơn, mà văn chương thì đòi hỏi quá nhiều công phu hơn.

Nguyệt cầm – Cung Tiến - Thái Thanh 
Tiếng xưa – Dương Thiệu Tước - Thu Hiền 
Tình cầm – Phạm Duy - Tuấn Ngọc 

Tuy vậy, ảnh hưởng của cổ văn, cổ thi, nó bàng bạc khắp nơi, không dễ gì thoát ra được. Ảnh hưởng lên văn học Việt Nam sâu đậm nhất, có lẽ không tác phẩm nào khác ngoài Tỳ Bà hành – Bạch Cư Dị. Không kể đến trong cổ văn (mà dấu vết của Tỳ Bà hành có thể được tìm thấy nơi nơi), ngay trong Thơ mới, dấu vết của nó cũng không ít. Câu chuyện của tác giả và người kỹ nữ đánh đàn tỳ bà tình cờ gặp lúc đêm khuya trên bến sông Tầm Dương để lại cho hậu thế biết bao nhiêu mối hoài cảm. Cả một áng thơ dài, câu nào cũng đầy tình ý:

Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa, oanh ríu rít nhau,
Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt,
Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, mang hận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng lẽ bây giờ càng hay.

Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.
Tần ngần dường cảm lời ta,
Dén ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.
Nghe não ruột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.

Nguyên bản Hán văn, phiên âm cũng như bản dịch thơ nổi tiếng của Phan Huy Vịnh, xin đọc ở đây. Đọc Tỳ Bà hành rồi dễ liên tưởng đến tác phẩm có phần tương tự của thi hào Nguyễn Du: Long thành cầm giả ca龍城琴者歌, tuy nhiên bài này lại nặng về tính thế sự hơn là về tình cảm cá nhân, nên sự xúc động gây ra trong lòng người thiết nghĩ cũng không sâu sắc bằng:

Thành quách suy di nhân sự cải, Kỷ độ tang điền biến thương hải. Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong, Ca vũ không lưu nhất nhân tại城郭推移人事改幾度桑田變蒼海西山基業盡消亡歌舞空留一人在. Ảnh hưởng trong văn thơ thì đã quá nhiều rồi, hôm nay tôi xin đưa một vài ví dụ nhỏ, ảnh hưởng của Tỳ Bà hành trong Tân nhạc, bằng trí nhớ lu mờ của mình, xin chép tặng các bạn một vài bài nhạc hay mang âm hưởng của bến Tầm Dương năm xưa.

tình hoài hương

ắt chước bạn Trường hói “lăng-xê” (lancer) ở đây ca khúc Tình Hoài Hương – Phạm Duy. Không lần nào nghe bài này mà tôi lại không có cảm giác lâng lâng khác lạ, trăm lần như một, nghe hoài không chán. Mời các bạn thưởng thức bài hát này qua hai giọng ca, một giọng thái dương là Anh Ngọc, một giọng thái âm là Thái Thanh.

Tình hoài hương - Anh Ngọc 
Tình hoài hương - Thái Thanh 

Xin post những bản mp3 chất lượng tốt để các bạn thưởng thức được đầy đủ các chi tiết của bài nhạc. Với những giọng hát như Anh Ngọc hay Thái Thanh, âm thanh từ 128 kbps trở xuống sẽ cắt hết các bội âm, làm cho giọng hát mất hơi rung, mất đi các âm sắc đầy đủ và chiều sâu của nó. Những giọng hát “phẳng” hơn như của Khánh Ly, Lệ Thu thì nhiều khi 64 kbps cũng là tạm đủ.

Ngọc Hạ, giọng ca “trẻ” (1980) nổi tiếng gần đây trên sân khấu Thúy Nga. Cũng là người hát theo phong cách cũ: tự nhiên, chân phương, nặng về luyến láy; hát khá tốt, tuy nhiên hình như đó là kỹ năng bắt chước hơn là cảm; trong bài hát, nhiều chỗ chưa xử lý được cái giọng Quảng Nôm – Đòa Nẽng của mình! 😀