thích quảng đức

焚我残躯
熊熊圣火
生亦何欢
死亦何苦
为善除恶
唯光明故
喜乐悲愁
皆归尘土
怜我世人
忧患实多

hần ngã tàn khu, Hùng hùng thánh hoả. Sinh diệc hà hoan, Tử diệc hà khổ. Vi thiện trừ ác, Duy quang minh cố. Hỷ lạc bi sầu, Giai quy trần thổ. Liên ngã thế nhân, Ưu hoạn thật đa!

Dịch nghĩa: Đốt cháy thân ta, trên ngọn lửa thiêng. Sống có gì vui, chết có gì buồn? Vì thiện trừ ác, làm việc quang minh! Vui vẻ âu sầu, cũng về cát bụi. Chỉ thương chúng sinh, chìm trong bể khổ!

chiến khu d

ai ngày, đạp xe 100km x 2, tưởng là một chuyến đi nhẹ nhàng, giãn gân giãn cốt, đi dạo đổi gió, hoá ra không phải, đường lên chiến khu D nhiều đồi dốc, một số đoạn xấu, trời nắng nóng, đạp xì khói, 1h đi được ko tới 10km, được lúc đạp xe trong rừng rậm luôn mát lạnh, cảm giác rất bình yên.

khởi nghĩa yên bái

…Sau cái nhìn chào non nước bi ai,
Họ thản nhiên lần lượt bước lên đài,
Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng:
“VN muôn năm!”, một đầu rơi rụng,
“VN muôn năm!”, người kế tiến lên.
Và tử thần kính cẩn đứng ghi tên,
Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc.

uối tuần, đọc lại lịch sử… xưa giờ vẫn tự hỏi cái câu: không thành công cũng thành nhân có nguồn gốc từ đâu, giờ thì biết nó được ghi trên tượng đài Khởi nghĩa Yên Bái. Giới trẻ bây giờ có đôi khi còn không biết “cô Giang, cô Bắc” là những ai. Ghi chú: Nguyễn Thái Học và các đồng chí, trước khi chết, thực ra là hô: Việt Nam vạn tuế theo kiểu cũ.

tin giả

ại nói về tin giả – fake news… ngày 29/04/1975, trong một nỗ lực cuối cùng, CIA rêu rao trên sóng radio rằng vừa có đảo chính xảy ra ở Bắc Việt, VC buộc phải rút 3 sư đoàn trở về, SG đã được giải vây. Chuyện được kể lại trong phim tài liệu “Vietnam war” (Ken Burns & Lynn Novick, 2017). Đưa tin xong, chắc CIA cũng phải gãi đầu gãi tai:

Hình như không được thông minh cho lắm… Còn người Việt thì cười khẩy: nói éo ai tin! Không phải đến giờ mới có vấn nạn tin giả, bản chất gian dối của nhân loại vốn đã có từ thời… còn là vượn người kia! Khác chăng là ở thời hiện đại, tin giả bùng nổ kinh hoàng với sự trợ giúp của internet và mạng xã hội mà thôi. Giả, cái gì cũng giả, chỉ có khổ đau là có thật…

body count

ư dân mạng đến giờ vẫn bàn luận, rút cuộc là Mỹ đã thua hay không thua trong cuộc chiến VN. Nghe nhiều lắm rồi, thua hay không thua rút cuộc chỉ là từ ngữ, nhiều người cứ thích “chơi chữ” chứ không thích nhìn vào thực tế! Có một câu chuyện như sau, không biết thật đến mức nào: Nghe đồn là, hồi năm 64, 65 gì đó, bên dưới tầng hầm Lầu Năm Góc, bộ trưởng McNamara đã ra lệnh chế tạo một cái siêu, siêu máy tính!

Rồi người ta nhập vào đó một núi dữ liệu thống kê, hàng vạn chỉ số đo lường: số lượng bom đạn, pháo, tăng, máy bay, tên lửa, các chỉ số hoả lực, bình định, đếm xác này nọ, rồi hỏi máy tính chỉ duy nhất một câu: “đến khi nào thì ta thắng VN!?” Cũng nghe đồn là cái siêu máy tính chạy suốt từ đó đến giờ mà chưa cho ra được kết quả! 😀 Ảnh dưới: hố bom trên đường Trường Sơn, quay bằng flycam sau hơn 1/2 thế kỷ…

mỹ lợi

ơn 500 năm trước, có 2 nhóm người cùng xuất phát từ Sầm Sơn, Quảng Xương, Thanh Hoá, vâng lệnh nhà vua đi trấn giữ biên cương. Một nhóm đi lên phía bắc, lập ra làng Trà Cổ, Móng Cái, Quảng Ninh (đã đề cập đến cách đây vài năm), một nhóm đi về phương nam, chốt chặn dưới chân đèo Hải Vân, lập nên làng Mỹ Lợi, Phú Lộc, Thừa Thiên (quê tôi).

2 ngôi làng này giống nhau một cách kỳ lạ, sau 500 năm vẫn còn bảo lưu một giọng nói, một kiểu khẩu âm giống nhau, vẫn duy trì những tập quán, phong tục, tính cách rất điển hình. Là một trong những làng đầu tiên cả nước treo cờ đỏ búa liềm (1930), là pháo đài chống ngoại xâm trong 2 cuộc kháng chiến, vô số người đi tập kết, danh hiệu Anh hùng LLVT.

Lịch sử một miền quê là phiên bản thu nhỏ của lịch sử đất nước! Những năm 20, có “nhà sư” về dựng chùa trong làng, thực chất là Đảng viên đầu tiên tuyên truyền trong quần chúng. Chế độ Diệm đã sát hại “nhà sư” này và những “đệ tử” của ông, đồng thời ép buộc được vài chục người theo đạo. Diệm đổ, dân làng đốt nhà thờ, “giáo dân” thì… chôn sống!

Bao thăng trầm lịch sử, đọng lại trong tôi là văn hoá làng: dân chúng cực kỳ chịu khó và tháo vát, họ làm được mọi việc, mọi nghề: làm lúa, nương, vườn, xây dựng một hệ thống thuỷ lợi siêu phức tạp, làm mộc, nề, các nghề thủ công, đánh cá, đóng thuyền .v.v. Kèm theo đó là bản tính bảo thủ, cứng đầu mà một người gốc từ đó ra đi như tôi đôi khi cũng cảm thấy… hơi hãi! 🙂

viết cho 3///

ôi không thích dùng từ ngữ bao đồng, xúc phạm, vì ở đâu, giới nào cũng luôn có người này, người khác (trong tất cả mọi phe phái). Nhưng thời gian đã qua đi gần nửa thế kỷ, những sự thật lịch sử hiển nhiên, nhiều người vẫn không muốn thừa nhận, hay tìm cách làm sai lệch nó đi! Dưới đây là bức tranh toàn cảnh sân khấu chính trị miền Nam Việt Nam, nói thật ra, Hà Nội có sách lược từng bước, từng bước, hết sức rõ ràng:

Bước 1: lật chế độ Diệm: độc tài, gia đình trị, thiên vị tôn giáo, ngu dốt và tàn ác. Được dựng lên bằng một cuộc bầu cử gian lận, nhưng ít nhất người Mỹ cũng có thể “lu loa” với thế giới rằng đây là một chế độ “bầu”!

Bước 2: ai ra ứng cử thổng thống, thủ tướng với tư cách “dân sự” là kêu biệt động thành đi ám sát, ví dụ như vụ GS Nguyễn Văn Bông. Việc này “chính sử” đã thừa nhận, chẳng có gì phải ngại mà không công khai thông tin.

Bước 3: chính giới SG chỉ còn lại các tướng lĩnh, mà các ông này thì chẳng ai chịu ai. Điển hình như vụ Thiệu, Kỳ & Nguyễn Chánh Thi, cánh miền Nam & cánh miền Trung đánh nhau năm 66 ở Đà Nẵng, hàng trăm lính thương vong!

Bước 4: dùng phong trào đấu tranh Sinh Viên và Phật Giáo, đòi hỏi một chế độ “dân sự”. Nhưng trong một cái bẫy đã giương sẵn thì người Mỹ kiếm đâu ra một “chế độ dân sự”, trước sau chỉ có “quân phiệt, độc tài” thôi!

Bốn bước trên làm cho miền Nam không bao giờ có được một chế độ dân cử, dân bầu, trước sau đều là các “chính phủ tạm thời” cho giới tướng lĩnh đảm nhiệm. Như thế, tính “chính danh” của VNCH gần như là không có, vì đó có phải là một chính phủ dân bầu đâu!? Nói trắng ra, là gì nếu không phải là một bộ máy quân sự cho người Mỹ tạo dựng lên, bơm tiền nuôi sống và giật dây điều khiển!? Mà sự thật trước sau cũng chỉ có thế!

Ngay trong giới quân phiệt cũng không đồng nhất! Thành phần già như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn… tương đối có tư cách, không muốn dính líu quá sâu với người Mỹ, thậm chí muốn đàm phán hoà bình với MTGP. Thấy không thể chống cộng với các tướng lĩnh già, Mỹ giật dây cho các tướng trẻ lên nắm quyền. Từ 1963 đến 1973, trong 10 năm có 10 cuộc đảo chính khác nhau, chẳng lúc nào yên, tình hình như thế chỉ có lợi cho MTGP.

Lúc đảo chính họ Ngô, ông Nguyễn Văn Thiệu mới là… đại tá – sư trưởng, 40 tuổi, ông Nguyễn Cao Kỳ còn là… trung tá, 33 tuổi, 4 năm sau thì một người trở thành tổng thống, một người thành thủ tướng, ở cái độ tuổi… trên dưới 40 (!!!). Trong những thể chế chính trị thông thường khác thì phải hơn 20 năm sau nữa, các ông ấy mới “đủ tuổi” để ngồi vào hai cái ghế ấy! Nên nói cho đúng chỉ là một junta – tập đoàn tướng lĩnh tay sai mà thôi!

Phật giáo thời gian đầu giữ lập trường không can thiệp chính trị vốn có của họ. Nhưng trước thực trạng bị đàn áp, sát hại quá nhiều, nên họ mới phải cử người ra đấu tranh, trước sau đều bằng các biện pháp bất bạo động kiểu Gandhi! Tại thời điểm 1963, ông Trí Quang cũng chỉ 40 tuổi, trong hàng giáo phẩm Phật giáo mới ở cỡ… trung bình, các ông “boss” thực sự như Thích Tịnh Khiết, Thích Đôn Hậu, etc… vẫn còn chưa ra mặt.

1000 người chết trên chiến trường chỉ là một con số, đôi khi chẳng ai biết đến! Nhưng một cái chết như của hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu lại làm rung chuyển thế giới, đánh thức lương tâm loài người! Rất nhiều lực lượng khác nhau, gần như là toàn XH: một số là CS, một số thân CS, một số có liên hệ với CS, một số chẳng dính gì đến CS, tất cả đều cùng đấu tranh, đó là phản ứng chung, hiển nhiên trong tình trạng xã hội dầu sôi lửa bỏng!

Nên nói các bạn “ba que”, người Mỹ không hiểu Việt Nam đã đành, các bạn mang tiếng là người Việt Nam, sống trong lòng dân tộc, mà các bạn chẳng hiểu éo gì về dân tộc. Đương thời, các bạn chẳng đại diện được cho đa số dân chúng, còn đến lúc thua rồi cũng không biết vì sao mà thua, lại còn cay cú đơm đặt, hoang tưởng! Cũng còn may là đất nước, dân tộc này vẫn còn những nguồn nội lực âm thầm & thâm hậu khác!

thích trí quang

高高山上行船
深深海底走馬

Cao cao sơn thượng hành thuyền, Thâm thâm hải để tẩu mã.

Cao cao trên đỉnh núi ta chèo thuyền, Sâu sâu dưới đáy biển ta cỡi ngựa.

ại lão Hoà thượng Thích Trí Quang đã về cõi Phật, giới trẻ bây giờ còn không biết người này là ai. Người ta chụp lên đầu ông đủ thứ “mũ” khác nhau, bên thì gán là CS, bên thì nghi là CIA, người khác nữa thì cho là đại diện “bên thứ 3”, vâng vâng. Riêng ông thì bảo: “Càng nhiều mũ càng tỏ rõ thật không có mũ nào. Trái lại, càng nhiều mũ càng tốt…” Và tôi cũng nghĩ như vậy, trước sau, ông chỉ có cái mũ ni tu hành đó mà thôi!

Lại nói, đám bô bô cái mồm, cái gì mà… “Tiết trực tâm hư” – 節直心虛 (lòng ngay thẳng, tâm trống rỗng như đốt tre) chẳng những không có tư cách để hiểu con người này đã đành (và đã phải nhận lãnh nghiệp chướng vì không hiểu sức mạnh thâm trầm của đạo pháp), mà rất nhiều người khác cũng không hiểu ông nốt. Trong một thời đại mà người ta phải “chọn phe”, đứng giữa 2 làn đạn như ông là một bản lĩnh phi thường!!!

nguyễn văn bảy

hông nhiều người biết đây là phi công chiến đấu số một Việt Nam mọi thời kỳ! Nổi tiếng với lối áp sát bắn ở cự ly 200, 300 mét, khoảng cách đó trên không cũng giống như dưới mặt đất, bộ binh bắn ở khoảng cách 2, 3 mét vậy, không thể nào mà trật được! Về công danh nhiều người hơn ông, ví dụ như: Nước này còn lắm gian truân, Việc gì phải phóng Phạm Tuân lên trời 😃! về thành tích cũng nhiều người hơn, vì sau khi hạ 7 chiếc máy bay Mỹ thì bác Hồ lệnh ko cho ông Bảy bay nữa, sợ mất một người anh hùng. Nhưng về bản lĩnh chiến đấu – dogfight, thì Nguyễn Văn Bảy là số một!

nguyễn văn minh

huyện về thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn (PXA) thì nhiều người đã biết và biết khá nhiều rồi. Nhưng có 1 câu chuyện khác, 1 nhân vật khác cũng ly kỳ không kém, theo một đường hướng hoàn toàn khác.

PXA là 1 điệp viên hạng nhất, điều đó không có gì phải bàn cãi. Sinh ra trong 1 gia đình công chức thuộc địa cao cấp, 1 địa chủ giàu có, được ăn học đàng hoàng. Tham gia CM năm 45, kết nạp Đảng năm 53 bởi chính Lê Đức Thọ, ông trùm nội chính VN, được hướng dẫn bởi bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, 1 nhân sĩ được ông Hồ hết sức yêu mến và tin tưởng, được hỗ trợ và chỉ đạo từ Mười Hương, Tư Cang… những nhân vật tình báo chuyên nghiệp (chuyên nghiệp hiểu trong ngữ cảnh VN, chứ chưa thể so với CIA hay KGB được). PXA là 1 điệp viên hạng nhất trên mọi phương diện, định hướng hoạt động tình báo chiến lược từ sớm, được tổ chức gởi đi Mỹ học, làm việc cho những thông tấn xã hàng đầu thế giới như Time và Reuter, có quan hệ với tất cả những nhân vật tinh hoa, chóp bu của giới quân sự và chính quyền miền Nam, các nhân vật tình báo hàng đầu của tất cả các bên như William Colby, Edward Lansdale, Lucien Conein, Bs. Trần Kim Tuyến…

Còn Nguyễn Văn Minh (Ba Minh – NVM) sinh ra trong một gia đình nghèo khó đông con, chỉ mới học hết lớp 5, gia cảnh khó khăn và sức khoẻ kém, đã từng muốn vào chiến khu tham gia CM nhưng không thực hiện được (cũng vì lý do sức khoẻ). Cho đến năm 54, cái gọi là “hoạt động CM” của ông chỉ dừng lại ở mức “cảm tình viên” ở cấp quận, huyện, chủ yếu là cung cấp những tin tức thuộc loại làng nhàng. Hoạt động tố Cộng, diệt Cộng của Ngô Đình Diệm những năm 55, 56 làm nhiều tổ chức, đường dây bị vỡ, NVM mất liên lạc suốt gần 10 năm. Một số lần đường dây được nối lại, nhưng rồi lại đứt. Những hoạt động của ông giai đoạn đầu chưa thể xem là tình báo, chỉ mới ở mức độ thông tin cấp thấp. Năm 55, ông học đánh máy chữ, chủ động bán nhà lấy tiền hối lộ để được vào làm nhân viên đánh máy ở Bộ tổng tham mưu chế độ cũ, hàm “thượng sĩ nhất”. Đây là bước đi đầu tiên chứng tỏ ông có một kế hoạch, một bài bản để làm tình báo chuyên nghiệp.

Trong suốt 18 năm, từ 1955 đến 1973, NVM tìm cách nối lại đường dây liên lạc với tổ chức, nhiều lần không thành công. Một số lần thành công thì cái vị trí, cấp bậc quá thấp của những người trong đường dây làm cho những tin tức của ông không được đánh giá đúng, mặc dù theo như lời NVM, ông đang “ngồi trên một núi vàng”, vì rõ ràng cái vị trí dù chỉ là nhân viên đánh máy trong Bộ tổng Tham mưu cho phép NVM tiếp cận với những thông tin thuộc loại tối mật. Không mất kiên nhẫn, trong suốt 18 năm đằng đẵng, NVM tìm cách liên hệ và chờ đợi cái ngày mà người ta đánh giá đúng những thông tin mà ông có thể cung cấp! Không biết chắc là vì những lý do gì, nhưng mãi cho đến cuối năm 1973, mạng lưới điệp báo A.3 mới chính thức được thành lập, và 1 dòng chảy thông tin trực tiếp từ Bộ tổng Tham mưu được hình thành. Người ta bắt đầu đánh giá đúng về giá trị của tình báo viên NVM, dù chỉ trong khoảng 1 năm rưỡi cuối cùng của cuộc chiến.

Nhà nghèo với 10 đứa con, lương của một “thượng sĩ nhất” không đủ nuôi chừng đó miệng ăn. Nhưng ngày nào ông cũng làm việc 15, 16 tiếng chép tay lại toàn bộ thông tin để đưa ra ngoài. NVM học thêm tiếng Anh chừng 1 năm để có thể copy được tài liệu tiếng Anh, và như ông có nói: tôi ít học, không đủ trình độ để phân tích, đánh giá thông tin, tôi chỉ làm 1 việc nhỏ nhoi, nhưng làm rất tốt! Có lần, tổ chức đưa 200 000 để ông mua chiếc xe máy để tiện cho việc đi lại, liên lạc. NVM mua chiếc xe Honda 67 hết hơn 100 000, trả phần còn lại! Sau này được hỏi về hành động đó, sao không giữ lại tiền mà nuôi 10 đứa con, ông trả lời: “tôi không bán tin, tôi cũng làm CM như các anh thôi!” Cách trả lời cho thấy ông ấy hoàn toàn ý thức về vai trò cũng như giá trị của một điệp viên hạng nhất! Chất lượng của những thông tin ông ấy cung cấp không phải bàn cãi, khi sau 75, người ta thăng anh “thượng sĩ” lên đại tá, và trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Tóm tắt về nhân vật, để thấy rằng NVM không có những gì PXA có: không sinh ra trong 1 gia đình truyền thống giàu có, không được học hành đầy đủ, thậm chí không có được sức khoẻ tốt! Không được “giác ngộ cách mạng” với những nhân vật lão thành hàng đầu như Lê Đức Thọ, Phạm Ngọc Thạch, không được hỗ trợ bởi 1 đội ngũ điệp báo hạng nhất như Mười Hương, Tư Cang, không được định hướng và đào tạo về hoạt động tình báo bài bản từ sớm như PXA. NVM khởi đầu chỉ là một “cảm tình viên” cấp quận, huyện, và hầu như không có một tiếp xúc, định hướng, huấn luyện nào về nghiệp vụ tình báo! Đôi lúc có cảm tưởng rằng, mọi đường đi nước bước là tự ông ấy tính toán lấy, từ việc vào làm ở Bộ Tổng tham mưu, cho đến việc móc nối, chờ đợi 18 năm để người ta có thể hiểu đúng giá trị của mình! Và thậm chí có cảm giác rằng, trong nhiều năm, người ta không tin tưởng NVM, có thể vì ông ấy không nằm trong diện được đào tạo, được “quy hoạch”.

Sự thực là suốt 20 năm hoạt động tình báo, NVM chưa bao giờ là Đảng viên, ông chỉ gia nhập đảng CS sau 1975, 1 bước “thủ tục” cần thiết để có thể thăng ông ấy lên đại tá và trao tặng danh hiệu Anh hùng. Nhiều sự việc nằm ngoài hiểu biết của tôi, hay có điều gì “một nửa sự thật” mà ngành tình báo đến giờ vẫn không thể nói ra!? Trong suy nghĩ của tôi, điều đó gần như là không thể, khi con 1 nhà lao động nghèo ít học, không có được bất kỳ tiếp xúc gì với các thành phần “lý tưởng”, “tinh hoa CM”, gần như không được hướng dẫn, hỗ trợ bởi một tổ chức! Gần như là đơn phương, đơn tuyến, tự mình vạch ra đường đi nước bước, tự mình liên hệ và chờ đợi để người ta hiểu đúng về giá trị của những thông tin mà mình cung cấp! Lòng yêu nước “thuần thành” hay còn điều gì khác!? PXA đã là 1 câu chuyện ly kỳ, NVM là 1 điều kỳ diệu! Dân tộc VN tồn tại được qua nhiều biến động của lịch sử vì có những điều kỳ diệu chưa thể được lý giải đầy đủ như thế!