Hôm nay là sinh nhật người trong hình, một “ông già ăn xin”, quần áo thì rách rưới, tay chống gậy, trên người đeo 3, 4 cái bị, đi trước một hàng quân cũng rách nát không kém, đoàn quân đã đi qua cuộc chiến 10 ngàn ngày, chơi sấp mặt từ thực dân, đế quốc cho đến anh bạn “láng giềng 4 tốt”. Ah, mà trùng hợp hôm nay cũng là sinh nhật tôi!
Tag: Vietnam wars
thích quảng đức
焚我残躯
熊熊圣火
生亦何欢
死亦何苦
为善除恶
唯光明故
喜乐悲愁
皆归尘土
怜我世人
忧患实多
Phần ngã tàn khu, Hùng hùng thánh hoả. Sinh diệc hà hoan, Tử diệc hà khổ. Vi thiện trừ ác, Duy quang minh cố. Hỷ lạc bi sầu, Giai quy trần thổ. Liên ngã thế nhân, Ưu hoạn thật đa!
Dịch nghĩa: Đốt cháy thân ta, trên ngọn lửa thiêng. Sống có gì vui, chết có gì buồn? Vì thiện trừ ác, làm việc quang minh! Vui vẻ âu sầu, cũng về cát bụi. Chỉ thương chúng sinh, chìm trong bể khổ!
chiến khu d
tin giả
Lại nói về tin giả – fake news… ngày 29/04/1975, trong một nỗ lực cuối cùng, CIA rêu rao trên sóng radio rằng vừa có đảo chính xảy ra ở Bắc Việt, VC buộc phải rút 3 sư đoàn trở về, SG đã được giải vây. Chuyện được kể lại trong phim tài liệu “Vietnam war” (Ken Burns & Lynn Novick, 2017). Đưa tin xong, chắc CIA cũng phải gãi đầu gãi tai:
Hình như không được thông minh cho lắm…
Còn người Việt thì cười khẩy: nói éo ai tin! Không phải đến giờ mới có vấn nạn tin giả, bản chất gian dối của nhân loại vốn đã có từ thời… còn là vượn người kia! Khác chăng là ở thời hiện đại, tin giả bùng nổ kinh hoàng với sự trợ giúp của internet và mạng xã hội mà thôi. Giả, cái gì cũng giả, chỉ có khổ đau là có thật…
body count
Cư dân mạng đến giờ vẫn bàn luận, rút cuộc là Mỹ đã thua hay không thua trong cuộc chiến VN. Nghe nhiều lắm rồi, thua hay không thua rút cuộc chỉ là từ ngữ, nhiều người cứ thích “chơi chữ” chứ không thích nhìn vào thực tế! Có một câu chuyện như sau, không biết thật đến mức nào: Nghe đồn là, hồi năm 64, 65 gì đó, bên dưới tầng hầm Lầu Năm Góc, bộ trưởng McNamara đã ra lệnh chế tạo một cái siêu, siêu máy tính!
Rồi người ta nhập vào đó một núi dữ liệu thống kê, hàng vạn chỉ số đo lường: số lượng bom đạn, pháo, tăng, máy bay, tên lửa, các chỉ số hoả lực, bình định, đếm xác này nọ, rồi hỏi máy tính chỉ duy nhất một câu: “đến khi nào thì ta thắng VN!?” Cũng nghe đồn là cái siêu máy tính chạy suốt từ đó đến giờ mà chưa cho ra được kết quả! Ảnh dưới: hố bom trên đường Trường Sơn, quay bằng flycam sau hơn 1/2 thế kỷ…
mỹ lợi
Hơn 500 năm trước, có 2 nhóm người cùng xuất phát từ Sầm Sơn, Quảng Xương, Thanh Hoá, vâng lệnh nhà vua đi trấn giữ biên cương. Một nhóm đi lên phía bắc, lập ra làng Trà Cổ, Móng Cái, Quảng Ninh (đã đề cập đến cách đây vài năm), một nhóm đi về phương nam, chốt chặn dưới chân đèo Hải Vân, lập nên làng Mỹ Lợi, Phú Lộc, Thừa Thiên (quê tôi).
2 ngôi làng này giống nhau một cách kỳ lạ, sau 500 năm vẫn còn bảo lưu một giọng nói, một kiểu khẩu âm giống nhau, vẫn duy trì những tập quán, phong tục, tính cách rất điển hình. Là một trong những làng đầu tiên cả nước treo cờ đỏ búa liềm (1930), là pháo đài chống ngoại xâm trong 2 cuộc kháng chiến, vô số người đi tập kết, danh hiệu Anh hùng LLVT.
Lịch sử một miền quê là phiên bản thu nhỏ của lịch sử đất nước! Những năm 20, có “nhà sư” về dựng chùa trong làng, thực chất là Đảng viên đầu tiên tuyên truyền trong quần chúng. Chế độ Diệm đã sát hại “nhà sư” này và những “đệ tử” của ông, đồng thời ép buộc được vài chục người theo đạo. Diệm đổ, dân làng đốt nhà thờ, “giáo dân” thì… chôn sống!
Bao thăng trầm lịch sử, đọng lại trong tôi là văn hoá làng: dân chúng cực kỳ chịu khó và tháo vát, họ làm được mọi việc, mọi nghề: làm lúa, nương, vườn, xây dựng một hệ thống thuỷ lợi siêu phức tạp, làm mộc, nề, các nghề thủ công, đánh cá, đóng thuyền .v.v. Kèm theo đó là bản tính bảo thủ, cứng đầu mà một người gốc từ đó ra đi như tôi đôi khi cũng cảm thấy… hơi hãi!
viết cho 3///
Tôi không thích dùng từ ngữ bao đồng, xúc phạm, vì ở đâu, giới nào cũng luôn có người này, người khác (trong tất cả mọi phe phái). Nhưng thời gian đã qua đi gần nửa thế kỷ, những sự thật lịch sử hiển nhiên, nhiều người vẫn không muốn thừa nhận, hay tìm cách làm sai lệch nó đi! Dưới đây là bức tranh toàn cảnh sân khấu chính trị miền Nam Việt Nam, nói thật ra, Hà Nội có sách lược từng bước, từng bước, hết sức rõ ràng! Bước 1: tìm cách lật chế độ Diệm: một chế độ độc tài, gia đình trị, thiên vị tôn giáo, ngu dốt và tàn ác. Được dựng lên bằng một cuộc bầu cử gian lận, nhưng ít nhất người Mỹ cũng có thể “lu loa” với thế giới rằng đây là một chế độ “bầu”! Bước 2: ai ra ứng cử thổng thống, thủ tướng với tư cách “dân sự” là kêu biệt động thành đi ám sát, ví dụ như vụ GS Nguyễn Văn Bông.
Những sự việc này “chính sử” đã thừa nhận, chẳng có gì phải ngại mà không công khai. Bước 3: chính giới SG chỉ còn lại các tướng lĩnh, các ông này thì chẳng ai chịu ai. Như vụ Thiệu, Kỳ & Nguyễn Chánh Thi, cánh miền Nam & cánh miền Trung đánh nhau năm 66 ở Đà Nẵng, hàng trăm lính thương vong! Bước 4: dùng phong trào đấu tranh của Sinh viên và Phật giáo, đòi hỏi một chế độ “dân sự”. Nhưng trong một cái bẫy đã giương sẵn thì người Mỹ kiếm đâu ra một “chế độ dân sự”, trước sau chỉ có “quân phiệt, độc tài” thôi! Bốn bước trên làm cho miền Nam không bao giờ có được một chế độ dân cử, trước sau đều là các “chính phủ tạm thời” cho các tướng lĩnh đảm nhiệm. Như thế, tính “chính danh” của VNCH là không có, vì đó có phải là một chính phủ do dân bầu đâu!?
Nói trắng ra, là gì nếu không phải là một bộ máy quân sự cho người Mỹ tạo nên, bơm tiền nuôi sống và giật dây điều khiển, sự thật trước sau chỉ có thế! Ngay giới quân phiệt cũng không đồng nhất, thành phần già như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn… tương đối có tư cách, không muốn dính líu quá sâu với người Mỹ, thậm chí muốn đàm phán với MTGP. Thấy không thể chống Cộng với thành phần già, Mỹ giật dây cho các tướng trẻ lên nắm quyền. Từ 1963 đến 1973, 10 năm có 10 cuộc đảo chính, chẳng lúc nào yên, tình hình như thế chỉ có lợi cho MTGP. Lúc đảo chính họ Ngô, ông Nguyễn Văn Thiệu mới là… đại tá, sư trưởng, 40 tuổi, ông Nguyễn Cao Kỳ… trung tá, 33 tuổi, 4 năm sau thì một người thành tổng thống, một người thành thủ tướng, ở độ tuổi trên dưới 40!!!
Trong những thể chế thông thường khác thì phải hơn 20 năm nữa, các ông ấy mới “đủ tuổi” để ngồi vào hai cái ghế ấy! Nên nói cho đúng chỉ là một junta – tập đoàn tướng lĩnh tay sai mà thôi! Phật giáo thời gian đầu giữ lập trường không can thiệp chính trị của họ. Nhưng trước thực trạng bị đàn áp, sát hại quá nhiều, nên họ mới phải đấu tranh, trước sau đều bằng các biện pháp bất bạo động kiểu Gandhi! Tại thời điểm 1963, ông Trí Quang cũng chỉ 40 tuổi, trong hàng giáo phẩm Phật giáo mới ở cỡ… trung bình, các ông “boss” thực sự như Thích Tịnh Khiết, Thích Đôn Hậu… vẫn còn chưa ra mặt. 1000 người chết chỉ là một con số, đôi khi chẳng ai biết! Nhưng cái chết như của hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu lại làm rung chuyển thế giới, đánh thức lương tâm loài người!
Rất nhiều lực lượng khác nhau, bao gồm gần như là toàn thể xã hội: một số là Cộng sản nằm vùng, một số thân CS, một số có liên hệ với CS, một số chẳng dính dáng gì đến CS, tất cả đều cùng đấu tranh, đó là phản ứng hiển nhiên trong tình trạng bị đàn áp đến mức dầu sôi lửa bỏng! Nên nói các bạn “ba que”, người Mỹ không hiểu Việt Nam đã đành (đó là một trong những sai lầm lớn nhất của họ, dẫn đến thua toàn bộ cuộc chiến), các bạn mang tiếng là người Việt, sống trong lòng dân tộc, mà các bạn chẳng hiểu éo gì về dân tộc. Đương thời, các bạn chẳng đại diện được cho đa số dân chúng, còn đến lúc thua rồi cũng không biết vì sao mà thua, lại còn cay cú đơm đặt, hoang tưởng! Cũng còn may là đất nước, dân tộc này vẫn còn những nguồn nội lực âm thầm & thâm hậu khác!
thích trí quang
深深海底走馬
Cao cao sơn thượng hành thuyền, Thâm thâm hải để tẩu mã.
Cao cao trên đỉnh núi ta chèo thuyền, Sâu sâu dưới đáy biển ta cỡi ngựa.
Đại lão Hoà thượng Thích Trí Quang đã về cõi Phật, giới trẻ bây giờ còn không biết người này là ai. Người ta chụp lên đầu ông đủ thứ “mũ” khác nhau, bên thì gán là CS, bên thì nghi là CIA, người khác nữa thì cho là đại diện “bên thứ 3”, vâng vâng. Riêng ông thì bảo: “Càng nhiều mũ càng tỏ rõ thật không có mũ nào. Trái lại, càng nhiều mũ càng tốt…” Và tôi cũng nghĩ như vậy, trước sau, ông chỉ có cái mũ ni tu hành đó mà thôi!
Lại nói, đám bô bô cái mồm, cái gì mà… “Tiết trực tâm hư” – 節直心虛 (lòng ngay thẳng, tâm trống rỗng như đốt tre) chẳng những không có tư cách để hiểu con người này (và đã phải nhận lãnh nghiệp chướng vì không hiểu sức mạnh thâm trầm của đạo pháp), mà rất nhiều người khác cũng không hiểu ông nốt. Trong một thời đại mà người ta phải “chọn phe”, đứng giữa 2 làn đạn như ông là một bản lĩnh phi thường!
nguyễn văn bảy
Không nhiều người biết đây là phi công chiến đấu số một Việt Nam mọi thời kỳ! Nổi tiếng với lối áp sát bắn ở cự ly 200, 300 mét, khoảng cách đó trên không cũng giống như dưới mặt đất, bộ binh bắn ở khoảng cách 2, 3 mét vậy, không thể nào mà trật được! Về công danh nhiều người hơn ông, ví dụ như: Nước này còn lắm gian truân, Việc gì phải phóng Phạm Tuân lên trời
, về thành tích cũng nhiều người hơn, vì sau khi hạ 7 chiếc máy bay Mỹ thì bác Hồ lệnh ko cho ông Bảy bay nữa, sợ mất một người anh hùng. Nhưng về bản lĩnh chiến đấu – dogfight, thì Nguyễn Văn Bảy là số một!
nguyễn văn minh
Chuyện về thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn (PXA) thì nhiều người đã biết và biết khá nhiều rồi. Nhưng có 1 câu chuyện khác, 1 nhân vật khác cũng ly kỳ không kém, theo một đường hướng hoàn toàn khác.
PXA là 1 điệp viên hạng nhất, điều đó không có gì phải bàn cãi. Sinh ra trong 1 gia đình công chức thuộc địa cao cấp, 1 địa chủ giàu có, được ăn học đàng hoàng. Tham gia CM năm 45, kết nạp Đảng năm 53 bởi chính Lê Đức Thọ, ông trùm nội chính VN, được hướng dẫn bởi bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, 1 nhân sĩ được ông Hồ hết sức yêu mến và tin tưởng, được hỗ trợ và chỉ đạo từ Mười Hương, Tư Cang… những nhân vật tình báo chuyên nghiệp (chuyên nghiệp hiểu trong ngữ cảnh VN, chứ chưa thể so với CIA hay KGB được). PXA là 1 điệp viên hạng nhất trên mọi phương diện, định hướng hoạt động tình báo chiến lược từ sớm, được tổ chức gởi đi Mỹ học, làm việc cho những thông tấn xã hàng đầu thế giới như Time và Reuter, có quan hệ với tất cả những nhân vật tinh hoa, chóp bu của giới quân sự và chính quyền miền Nam, các nhân vật tình báo hàng đầu của tất cả các bên như William Colby, Edward Lansdale, Lucien Conein, Bs. Trần Kim Tuyến…
Còn Nguyễn Văn Minh (Ba Minh – NVM) sinh ra trong một gia đình nghèo khó đông con, chỉ mới học hết lớp 5, gia cảnh khó khăn và sức khoẻ kém, đã từng muốn vào chiến khu tham gia CM nhưng không thực hiện được (cũng vì lý do sức khoẻ). Cho đến năm 54, cái gọi là “hoạt động CM” của ông chỉ dừng lại ở mức “cảm tình viên” ở cấp quận, huyện, chủ yếu là cung cấp những tin tức thuộc loại làng nhàng. Hoạt động tố Cộng, diệt Cộng của Ngô Đình Diệm những năm 55, 56 làm nhiều tổ chức, đường dây bị vỡ, NVM mất liên lạc suốt gần 10 năm. Một số lần đường dây được nối lại, nhưng rồi lại đứt. Những hoạt động của ông giai đoạn đầu chưa thể xem là tình báo, chỉ mới ở mức độ thông tin cấp thấp. Năm 55, ông học đánh máy chữ, chủ động bán nhà lấy tiền hối lộ để được vào làm nhân viên đánh máy ở Bộ tổng tham mưu chế độ cũ, hàm “thượng sĩ nhất”. Đây là bước đi đầu tiên chứng tỏ ông có một kế hoạch, một bài bản để làm tình báo chuyên nghiệp.
Trong suốt 18 năm, từ 1955 đến 1973, NVM tìm cách nối lại đường dây liên lạc với tổ chức, nhiều lần không thành công. Một số lần thành công thì cái vị trí, cấp bậc quá thấp của những người trong đường dây làm cho những tin tức của ông không được đánh giá đúng, mặc dù theo như lời NVM, ông đang “ngồi trên một núi vàng”, vì rõ ràng cái vị trí dù chỉ là nhân viên đánh máy trong Bộ tổng Tham mưu cho phép NVM tiếp cận với những thông tin thuộc loại tối mật. Không mất kiên nhẫn, trong suốt 18 năm đằng đẵng, NVM tìm cách liên hệ và chờ đợi cái ngày mà người ta đánh giá đúng những thông tin mà ông có thể cung cấp! Không biết chắc là vì những lý do gì, nhưng mãi cho đến cuối năm 1973, mạng lưới điệp báo A.3 mới chính thức được thành lập, và 1 dòng chảy thông tin trực tiếp từ Bộ tổng Tham mưu được hình thành. Người ta bắt đầu đánh giá đúng về giá trị của tình báo viên NVM, dù chỉ trong khoảng 1 năm rưỡi cuối cùng của cuộc chiến.
Nhà nghèo với 10 đứa con, lương của một “thượng sĩ nhất” không đủ nuôi chừng đó miệng ăn. Nhưng ngày nào ông cũng làm việc 15, 16 tiếng chép tay lại toàn bộ thông tin để đưa ra ngoài. NVM học thêm tiếng Anh chừng 1 năm để có thể copy được tài liệu tiếng Anh, và như ông có nói: tôi ít học, không đủ trình độ để phân tích, đánh giá thông tin, tôi chỉ làm 1 việc nhỏ nhoi, nhưng làm rất tốt! Có lần, tổ chức đưa 200 000 để ông mua chiếc xe máy để tiện cho việc đi lại, liên lạc. NVM mua chiếc xe Honda 67 hết hơn 100 000, trả phần còn lại! Sau này được hỏi về hành động đó, sao không giữ lại tiền mà nuôi 10 đứa con, ông trả lời: “tôi không bán tin, tôi cũng làm CM như các anh thôi!” Cách trả lời cho thấy ông ấy hoàn toàn ý thức về vai trò cũng như giá trị của một điệp viên hạng nhất! Chất lượng của những thông tin ông ấy cung cấp không phải bàn cãi, khi sau 75, người ta thăng anh “thượng sĩ” lên đại tá, và trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Tóm tắt về nhân vật, để thấy rằng NVM không có những gì PXA có: không sinh ra trong 1 gia đình truyền thống giàu có, không được học hành đầy đủ, thậm chí không có được sức khoẻ tốt! Không được “giác ngộ cách mạng” với những nhân vật lão thành hàng đầu như Lê Đức Thọ, Phạm Ngọc Thạch, không được hỗ trợ bởi 1 đội ngũ điệp báo hạng nhất như Mười Hương, Tư Cang, không được định hướng và đào tạo về hoạt động tình báo bài bản từ sớm như PXA. NVM khởi đầu chỉ là một “cảm tình viên” cấp quận, huyện, và hầu như không có một tiếp xúc, định hướng, huấn luyện nào về nghiệp vụ tình báo! Đôi lúc có cảm tưởng rằng, mọi đường đi nước bước là tự ông ấy tính toán lấy, từ việc vào làm ở Bộ Tổng tham mưu, cho đến việc móc nối, chờ đợi 18 năm để người ta có thể hiểu đúng giá trị của mình! Và thậm chí có cảm giác rằng, trong nhiều năm, người ta không tin tưởng NVM, có thể vì ông ấy không nằm trong diện được đào tạo, được “quy hoạch”.
Sự thực là suốt 20 năm hoạt động tình báo, NVM chưa bao giờ là Đảng viên, ông chỉ gia nhập đảng CS sau 1975, 1 bước “thủ tục” cần thiết để có thể thăng ông ấy lên đại tá và trao tặng danh hiệu Anh hùng. Nhiều sự việc nằm ngoài hiểu biết của tôi, hay có điều gì “một nửa sự thật” mà ngành tình báo đến giờ vẫn không thể nói ra!? Trong suy nghĩ của tôi, điều đó gần như là không thể, khi con 1 nhà lao động nghèo ít học, không có được bất kỳ tiếp xúc gì với các thành phần “lý tưởng”, “tinh hoa CM”, gần như không được hướng dẫn, hỗ trợ bởi một tổ chức! Gần như là đơn phương, đơn tuyến, tự mình vạch ra đường đi nước bước, tự mình liên hệ và chờ đợi để người ta hiểu đúng về giá trị của những thông tin mà mình cung cấp! Lòng yêu nước “thuần thành” hay còn điều gì khác!? PXA đã là 1 câu chuyện ly kỳ, NVM là 1 điều kỳ diệu! Dân tộc VN tồn tại được qua nhiều biến động của lịch sử vì có những điều kỳ diệu chưa thể được lý giải đầy đủ như thế!
ngày này năm xưa
Kháng chiến 9 năm bùng nổ, Hồ Chủ tịch chỉ định Luật sư Phan Anh làm bộ trưởng quốc phòng. Ông Phan Anh lấy lý do tuổi trẻ, không có kinh nghiệm quân sự thoái thác. HCT bảo: việc đánh đấm cứ để cho Giáp nó lo (sic – nguyên văn). Cái con mắt dùng người ấy có cái gì đó rất bài bản, rất Tây, nó khác xa những mô hình quân sự cứng nhắc của khối XHCN sau này.
Đánh đấm là việc của Tổng tham mưu trưởng (Chief of the General Staff), là một quân nhân, còn Bộ trưởng QP là một chính khách, lo những công việc như: di dân làng nghề đúc đồng Ngũ Xá ven Hà Nội lên chiến khu, đúc đạn cho quân đội lâu dài, vận chuyển 2 vạn tấn muối từ Nam Định lên rừng, số muối này dự tính đủ ăn trong 10 năm, và vô số những công việc tương tự.
Trong con mắt HCT, vào cái thời gian mà chiến sự hãy còn chưa ác liệt và kéo dài nhiều thập kỷ như sau này, thì ông Giáp có thể là một vị tướng cấp cao nhất, đủ tài năng để chỉ huy binh sĩ đánh đấm trên chiến trường, nhưng chưa phải là một người có tầm suy nghĩ rộng, đủ bao quát để có thể hoạch định sách lược, kế hoạch quốc phòng với tầm nhìn dài hạn.
Trong cái giai đoạn mà ông Giáp hãy còn rất trẻ ấy, nhiều điều sâu xa ông chưa thể hiểu hết về HCT, quyết tâm đánh đấm có thừa, nhưng kinh nghiệm ông chưa có. Nhất là giai đoạn ngay sau tháng 8, 1945, tướng Giáp thường xuyên tỏ ra khó hiểu hay phản đối, không hài lòng trước những chính sách mềm mỏng đến mức đáng ngạc nhiên của ông Hồ.
Giai đoạn 45 ~ 47 ngay sau đó là những chuỗi đại bại, những đơn vị cấp sư đoàn của tướng Giáp liên tục thua trận và chịu tổn thất, cơ bản là vì tướng Giáp muốn ngay lập tức đánh lớn, đánh tay đôi với một quân đội chuyên nghiệp, hiện đại như của thực dân Pháp. Các sử gia nước ngoài đánh giá ông Giáp “nướng quân” chủ yếu là vì giai đoạn đầu này.
Sau đó phải chuyển sang mô hình “đại đội độc lập – tiểu đoàn tập trung”, phân tán nhỏ lực lượng đánh du kích. Lúc đó mới thấy những tính toán ban đầu về đường lối, đạn dược, lương thực, muối ăn… của ông Hồ có cái chiều sâu của nó. HCT mặc dù tin tưởng vào quyết tâm của ông Giáp, nhưng không tin hoàn toàn vào những tính toán của ông ấy.
Nên một lúc nào đó, HCT buộc lòng phải đưa một ông đại tướng thứ hai là ông Nguyễn Chí Thanh lên như một phương án bổ sung, dự phòng, phòng khi biết đâu ông Giáp tính toán sai lầm. Ông Thanh thì đánh đấm rất ít, nhưng viết lách, nói năng, lý luận rất hay, có sức thuyết phục quần chúng, suy nghĩ có tầm bao quát, hay ít ra cũng có vẻ là như thế!
Có giai đoạn, hầu như tuần nào tướng Thanh cũng được ăn tối chung với ông Hồ một bữa, một vinh dự mà ngay cả ông Giáp cũng không thường xuyên có được. Chính trị VN nó thế, người ta sẽ đếm số lần ăn tối này để dự đoán ai lên ai xuống. Rất may là ông Giáp đã nhanh chóng học được từ kinh nghiệm thực tế, để mà 9 năm sau đó, chúng ta có được trận Điện Biên Phủ.
Nhiều điều sau này tướng Giáp thừa nhận thẳng thắn trong hồi ký của mình: “chúng tôi là một đội ngũ trẻ, làm những công việc vượt quá sức của mình, nên gặp sai sót là điều không thể tránh khỏi…” Ai đó công tâm sẽ nhận thấy vai trò của một người thầy, người mà kinh nghiệm, sự từng trãi trong cuộc sống vượt xa tầm nhận thức của rất nhiều người..
địa đạo kỳ anh
bắc hành – 2016, phần 45
Chặng 45: Vịnh Mốc ❯ tt. Cửa Tùng ❯ tt. Cửa Việt ❯ tx. Quảng Trị ❯ Hải Lăng ❯ An Lỗ ❯ Sịa ❯ Bao Vinh ❯ tp. Huế
Bắc hành 2016 p1
Mai Châu, Mộc Châu 2016
Điện Biên 2016
Lai Châu 2016
Hà Giang 2016
Cao Bằng 2016
Lạng Sơn 2016
Bắc Ninh 2016
Ninh Bình 2016
Bắc hành 2016 p2
Ghé thăm địa đạo Vịnh Mộc, Vĩnh Linh. Điều đặc biệt là huyện Vĩnh Linh có nhiều xã là đất đỏ bazan (một số xã là đất cát), người dân trồng nhiều hồ tiêu, cao su… Cũng chính nhờ cái đất ấy nên địa đạo mới có thể hình thành được, đơn giản là với phương tiện thô sơ ngày trước, không thể đào hầm trong đất cát. Quy mô nhỏ hơn địa đạo Củ Chi nhiều…
Nhưng Vịnh Mốc có một vai trò khác biệt, là điểm gần với đảo Cồn Cỏ nhất, con đường tiếp tế cho đảo đi qua đây, thế nên Vịnh Mốc chịu sự đánh phá ác liệt. Toàn bộ cuộc sống ở đây ngày xưa được tổ chức dưới lòng đất, nhìn tổng thể như một pháo đài 3 tầng, ngầm trong một sườn đồi, hướng ra biển cả. Bức ảnh cô du kích Vịnh Mốc ai đó chụp đến là đẹp!
Hành trình tiếp tục đi ven biển, cửa Tùng (sông Bến Hải), cửa Việt (sông Thạch Hãn)… Biển Cửa Tùng, Cửa Việt rất đẹp, bắt đầu từ nơi đây trở vô Nam, con đường di dân của người Việt ngày xưa từ phía Bắc, bắt đầu chủ yếu bằng đường biển với ghe thuyền, chứ không phải trên bộ như các vùng Nghệ An, Hà Tĩnh nữa. Đất miền Trung dài và hẹp vì như thế!
Người ta chỉ đi bằng ghe thuyền đến các vùng đất có thể cư trú được dọc theo bờ biển, rồi cứ thế tiếp tục xuôi về Nam, chứ không mở rộng ra về phía núi (phía Lào). Một lúc nào đó, cùng với chiếc kayak của mình, tôi sẽ rong chơi cho bằng hết tất cả những vụng biển, đầm phá, bãi bờ, sông nước này! Đến để thấy một nụ cười hồn nhiên thật quá là xinh!
bắc hành – 2016, phần 15
Chặng 15: Điện Biên
Bắc hành 2016 p1
Mai Châu, Mộc Châu 2016
Điện Biên 2016
Lai Châu 2016
Hà Giang 2016
Cao Bằng 2016
Lạng Sơn 2016
Bắc Ninh 2016
Ninh Bình 2016
Bắc hành 2016 p2
Hiện tượng rét bất thường trên toàn miền Bắc, khi tuyết rơi ở Ba Vì, ngay gần Hà Nội chứ không phải chỉ ở Sapa, Mẫu Sơn, Y Tý, Bát Xát… như các năm trước, nhiều nơi đã xuống độ âm. Thời tiết ở Điện Biên ngày này thấp nhất 3℃ vào giữa trưa, lạnh hơn cả năm ngoái cũng tầm này lúc tôi ở Sapa, trời mù, mưa lâm thâm, nhưng thật ra vẫn không quá khó chịu.
Thời tiết thật lý tưởng để đi bộ tham quan khắp cánh đồng Mường Thanh, cho cơ thể được vận động chút, thay vì đi xe máy: sông Nậm Rốm, cầu Mường Thanh, hầm chỉ huy của tướng Christian de Castries, đồi A1 (Eliane 2)… Đã đọc khá nhiều đầu sách về Điện Biên Phủ, nhưng phải đến tận nơi đây, chui vào các lô cốt và các đường hầm, thì mới hiểu được tại sao…
Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An (sau này là thượng tướng) phải mất hơn 50% quân số của trung đoàn 174, đại đoàn 316 (chỉ mới tính số hy sinh, chưa tính số bị thương) và 36 ngày đêm ròng rã mới chiếm lĩnh được ngọn đồi này! A1 đổi chủ không biết bao nhiêu lần trong suốt 36 ngày đêm đó, mỗi bên chiếm một nửa, giằng co qua lại trong phần lớn thời gian!
Gần đỉnh đồi, cái hố cực lớn tạo ra bởi một tấn thuốc nổ, chỉ bằng cách đào đường hầm sâu vào trong thân ngọn đồi, đặt thuốc nổ để thổi bay nó đi thì đồi A1 mới thực sự bị đánh bại. Sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, với chiến thắng bước ngoặt ở đồi A1 này, số phận của trận chiến Điện Biên đã được định đoạt. Lịch sử đã được viết bằng máu như thế đó!
bắc hành – 2016, phần 14
Chặng 14: Điện Biên
Bắc hành 2016 p1
Mai Châu, Mộc Châu 2016
Điện Biên 2016
Lai Châu 2016
Hà Giang 2016
Cao Bằng 2016
Lạng Sơn 2016
Bắc Ninh 2016
Ninh Bình 2016
Bắc hành 2016 p2
Thăm bảo tàng Điện Biên, một công trình có phần hơi đơn giản, sơ sài, thiếu chi tiết, so với một sự kiện tầm cỡ như trận Điện Biên Phủ. Tượng đài chiến thắng nằm ở ngay trung tâm thành phố, bên trên một quả đồi cao (đồi D1, Dominique 2), cái công trình kiến trúc – điêu khắc ấy… không gây được trong tôi bất kỳ một cảm xúc thẩm mỹ nào, dù là nhỏ nhất!
Điều hứng thú duy nhất là đứng trên đỉnh đồi này, có thể nhìn ra bao quát toàn bộ cánh đồng Mường Thanh (không quá rộng lớn) và nhìn xuống trung tâm thành phố, những ngọn đồi bao quanh với mây mù vần vũ, một cảnh tượng rất ngoạn mục! Có cảm giác mọi quy hoạch đô thị ở cái thành phố này đều xoay quanh chủ đề… trận chiến Điện Biên Phủ.
Các loa phóng thanh khắp các phố phường vẫn hàng ngày loan tin, tạo ra một cái không khí như là… của thời bao cấp, hơn 30, 40 năm về trước! Đến cả cô hướng dẫn viên bảo tàng vẫn khóc mỗi khi thuyết minh cho du khách nghe về trận Điện Biên và Đại tướng. Không có ý bất kính, nhưng tôi đoán rằng mỗi ngày, cô ấy khóc khoảng chục lần như thế!
Tin về nửa đêm, hoả tốc, hoả tốc! Ngựa bay lên dốc, đuốc chạy sáng rừng… Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. Máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn…
. Không cần phải nhờ đến tượng đài hay bảo tàng, lịch sử ngày xa xưa ấy tự nó đã là một điều vĩ đại! Dừng chân Điện Biên ít ngày trước khi bước tiếp hành trình!
the junk blue book, 3
the Junk Blue Book – Marion C. Dalby, by its mission definition, is to provide knowledge to help identifying various Vietnamese indigenous boats, a military technical manual to be precise, not a book about boat design and construction. However it’s among the very rare well – written and fully – illustrated documents available today for us to know how, just half a century ago, our ancestors were operating sailing crafts. As in most of the world the working Vietnamese seamen had little interest in chronicling their environment, or perhaps they had no idea that such everyday life would be of interest to anyone…
VN people is, as always, extremely easy to forget the past, and we’re today placed at a fait accompli
of a now vanished culture!
Around mid 20th century, the Age of Sail has been long over in the Western world, while in Indochina, sailing crafts were widely used still, and Westerners came to VN seeing them from a “recreational sport” point of view. Many of whom were surprised by the diversity in boat designs and constructions, some were astonished by unique features that only VN boats have, some admired the beauty and performance characteristics of certain VN sailing crafts. One such person is J.B. Piétri and his book Voiliers d’Indochine (Sailboats of Indochina). A marvellous book, no photographs, but all beautiful hand – drawn sketches, not only do they clearly show technical details, but also illustrate the other artistic side of the subject. To be presented in my up – coming posts!
the junk blue book, 2
M ore pictures from The Junk Blue Book – Marion C. Dalby, more about cargo boats (the previous post presents mainly fishing boats). First image in the series: a typical ghe bầu, the main “work – horse” of Southern people in the old days, ancestor of cargo boats usually seen in the Mekong delta nowadays (though the hull shape has changed significantly with introduction of combustion engine, I suppose). At the time of The Junk Blue Book, boats of this type were usually found around 100 ton in displacement, though in previous centuries, they were often constructed bigger at a few hundreds ton to be used for both trading and naval purposes. Ghe bầu composed the ‘spiral – cord’ of Vietnamese landlords’ navies in feudal time.
According to records of Western missionaries, adventurers, soldier – of – fortunes… who worked in Vietnam in the late 18th century, the Nguyễn and Tây Sơn lords’ navies both had a few 70 – guns mans – of – war, built and equipped to Western designs, but the majority is of ghe bầu type, with 20 ~ 60 guns mounted, capable of transporting upto 700 troops. Though these facts are likely, they’re still vague descriptions, there’s a lack of details and evidences. 50 – guns warship is a very strong frigate indeed, could be classified as 4th – rate ship – of – the – line, par the Royal Navy rating system, and should have the displacement at least at 1,000 (metric) tons, a question mark whether Vietnamese traditional boat building at the time was having such a capability.
the junk blue book, 1
More pictures from The Junk Blue Book – Marion C. Dalby. Some history background: in the early 60s, Northern Vietnam government (DRV) started an infiltration campaign to support the Southern communists by way of sea. The task force, designated: Group 579, deployed numerous boats, built and camouflaged as Southern fishing or cargo boats, smuggled weapons and war materials onto various spots along southern coast below the 17th parallel. The advantages of secret lines of boats are obvious: only need a small number of well – trained sailors, much larger cargo capacity, harder to trace and intercept (compared to e.g: transporting by trucks, which required lots of labours for road building and protecting, which is hard to keep secret).
The US Navy took countermeasures, first by carrying out a study on VN indigenous boats: designs and constructions, outer appearances, sail plans, navigational equipments, operational zones and routes, methods and habits of fishing… in an effort to help identifying which are real Southern VN boats, and which are camouflaged Northern ones. The result is The Junk Blue Book, the study was taken place at a time when the majority of VN boats (over ~ 70%) was still operating primarily on sails. Ironical facts of history, that a work conducted initially against Vietnamese people, has now turned into a record of knowledge on Vietnamese sailing tradition, a tradition that has been long forgotten by its owner, very few people still care or even aware of it nowadays!
17 tháng 2…
Anh ở Lào Cai, Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt. Tháng hai mùa này con nước, Lắng phù sa in dấu đôi bờ. Biết em năm ngóng tháng chờ, Cứ chiều chiều ra sông gánh nước. Nên ngày ngày cùng bạn bè lên chốt, Anh lại xuống sông Hồng cho thoả nỗi em mong. Đài báo gió mùa em thương ở đầu sông, Đỉnh đồi cao chiến hào anh gặp rét. Biết mùa màng đồng quê chưa cấy hết, Tay em ngập dưới bùn lúa có thẳng hàng không? Nếu chúng mình còn cái thủa dung dăng, Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy. Em ra sông chắc em sẽ thấy, Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông… Thì hỡi em yêu ở cuối sông Hồng, Nếu gặp dòng sông ngầu lên sắc đỏ, Là niềm thương anh gửi về em đó, Qua màu nước sông Hồng, em hiểu chiến công anh! (Gửi em ở cuối sông Hồng – Dương Soái)
Đêm tháng Năm vào bình độ bốn trăm, Đoàn xe trôi êm êm, tầm đại bác. Thuốc súng tanh lá rừng kêu xào xạc, Chúng no máu rồi không cắn nữa đâu!? Lắc lư xe quan tài vượt về sau, Máu dỏ xuống đường cuốn vào cát bụi. Lại xe quan tài vượt lên lầm lũi, Tốp thương binh bê bết máu mặt mày. Đám cướp kia Thánh, Phật dạy ăn chay, Chẳng kiêng gì ngày rằm mùng một. Đạn cày xới đất tơi trồng cây tốt, Tưới máu người cướp, giữ đất biên cương. Tư lệnh Hoàng Đan trận này cầm quân, Ông bảo rằng: sống chết thời vận số. Cả trung đoàn ào ào như thác lũ, Bình độ Bốn trăm bình địa trận người. Những chàng trai sống chết trận này ơi! Mưa đổ xuống ông trời tuôn nước mắt. Ơn nhớ mãi thân người đi giữ đất, Người trở về ăn, sống, ở ra sao? (Bình độ bốn trăm – Nguyễn Mạnh Hùng)
cq – 88
Bức tranh này do cậu bé TKXuyên vẽ năm 1988, màu nước trên giấy, hiện vẫn treo trong phòng làm việc của mình (mọi người đừng cười một người chưa bao giờ có khiếu vẽ vời gì dù chỉ là một chút xíu). Dĩ nhiên là tôi còn nhớ rất rõ là vẽ vì những lý do gì, trong bối cảnh như thế nào. Mọi người hẳn chưa thể nào quên sự kiện CQ – 88 mà ngay cả một cậu bé 9 tuổi là tôi lúc bấy giờ cũng từng ngày dõi theo. Nghĩ mà buồn, đến nay hơn 20 năm rồi mà mọi chuyện vẫn thế. Dòng chữ đề trong bức tranh: Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ, Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong
, cụ Nguyễn Công Trứ có sống lại mà nhìn bối cảnh bây giờ…