từ nguyên: giá cả

ừ nguyên: giá cả (价格, âm Hán Việt: giá cách). Chữ “cách” (cùng một chữ cách như trong: nhân cách, phẩm cách, tư cách, etc…) nguyên nghĩa là mức, vạch dùng trong các thiết bị đo lường, nên “giá cả” sẽ hiểu như là thang giá, mức giá, bảng giá… Lần nữa, chỉ ghi chú lại ở đây, không giải thích nhiều 🙂 nhưng đặt câu hỏi là: tại sao nhân *cách*, phẩm *cách*, nhưng lại là giá *cả* !?

từ nguyên: hoảng hồn

ừ nguyên: hoảng hồn (惶恐, âm Hán Việt: hoàng khủng). Đôi khi âm Quan Thoại qua các thời kỳ và âm Hán Việt rất khác nhau, tiếng Hoa du nhập vào VN tại nhiều giai đoạn khác nhau, suốt từ Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, etc… lúc nào cũng du nhập thêm từ mới! Nên việc truy về từ nguyên rất khó khăn, nhưng cũng chính vì thế nên không muốn bàn cãi cũng như giải thích, chỉ note lại như thế..

từ nguyên: ba hoa

ừ nguyên: ba hoa (八卦, âm Hán Việt: bát quái). Từ điển tiếng Việt giải thích “ba hoa” bắt nguồn từ “bavard” trong tiếng Pháp, Anh có nghĩa là “lắm lời”. Tôi ngờ rằng cách giải thích này không đúng, thực sự bắt nguồn từ chữ “bát quái”, ngoài nghĩa “âm dương, bát quái” trong Văn ngôn, với Bạch thoại còn có nghĩa là người nói chuyện tào lao, buôn dưa lê! Đúng hay sai thì tôi không muốn giải thích, chỉ note ở đây!

cẩu thả

ừ nguyên, cẩu thả – 狗且, trong tiếng Việt thường hiểu “cầu thả” là: không cẩn thận, lộn xộn, tắc trách, nhưng nghĩa gốc của nó lại hoàn toàn khác, và rất thô tục nên từ điển chính thống cũng không ghi nhận. “Cẩu” là chó thì đã dễ hiểu, còn “thả”, mười mấy năm trước, An Chi đã giải thích, chính là chữ tượng hình, chỉ “nam tính sinh thực khí”, cứ nhìn hình dạng của chữ là rõ. Như thế, “cẩu thả” không phải là làm việc lộn xộn, mà chính là chỉ hành vi nam-nữ tính-giao bất-chính, nghĩa hiện dùng chỉ là phái-sinh về sau.

đức

áo chí VN chuyên lặp lại cái câu “để đức cho con”, mà nói cho ngay, vừa mở miệng ra là đã biết không hiểu “Đức” là gì! Dần dần, vì thiếu sự minh định, nên nhiều người cho rằng “đức” là một thứ tài sản vô hình, một loại may mắn, một kiểu kết quả có thể để lại cho con cháu. Hiểu như thế sai hoàn toàn, tra từ điển thấy ngay, chữ “đức” dịch sang tiếng Anh là: “merit” hay “virtue”, tiếng Việt hiểu là: phẩm chất, phẩm hạnh, tính tốt.

Ở thời của Khổng tử, chữ “đức” chỉ hiểu đơn giản là phẩm chất của con người: làm việc siêng năng là đức, nói năng thật thà là đức, đối đãi chân thành là đức, .v.v. “Đức trị” hiểu nôm na tức là “lead by example”, dùng bản thân làm gương để người khác noi theo! Thế thì quay về tự vấn bản thân đi chứ làm sao mà “để đức cho con” được!? Chính vì không hiểu “đức” là gì nên tìm cách lái nó sang khái niệm vật chất là… “công đức”! 🙂

nha đầu

ừ nguyên, nha đầu – 丫頭. Trẻ con TQ ngày xưa (không phân trai gái), tóc cột rẽ sang 2 bên như chữ nha () nên gọi là nha đầu, tức là đầu hình chữ Y. Trong ảnh: 2 tiên đồng của Trấn Nguyên đại tiên (phim Tây Du Ký, 1986), tên là: Thanh Phong (gió mát) và Minh Nguyệt (trăng thanh) đoạn này, Tề Thiên ăn trộm quả nhân sâm… 😀

vong bản

忘本

hường hiểu như là quên nguồn, mất gốc, xét trong tương quan giữa một con người với quê hương, nguồn cội. Nhưng “vong bản” có nghĩa rộng hơn thế, ngữ nghĩa Phật giáo, nếu một người quên mất giá trị thật bên trong, chạy theo những vọng tưởng phù phiếm, đó là “vong bản” (quên mất bản thân). Tôi khoái xài từ ngữ nghĩa rộng, những đầu óc “con vẹt” cứ nghĩ: à ta biết rồi, nó là như thế này… nhưng thực ra, hoàn toàn khác! 😀

Tiếng Hoa có một đặc tính là tính trừu tượng, tổng quát của nó rất cao, nhưng mặt khác, lại thiếu tính chi tiết, cụ thể. Thế nên Đường Tam Tạng mới phải đi Tây Thiên thỉnh kinh, sống 20 năm ở Ấn Độ, theo học 2 năm tại học viện Phật giáo danh giá Nalanda, chở về quê hơn 600 bộ kinh trên lưng 20 con ngựa, đem bộ môn Duy thức luận – Yogachara về giảng dạy tại Trung Quốc, nhưng đó là một câu chuyện hấp dẫn khác sẽ được đề cập về sau.

vay mượn

gôn ngữ và văn hoá TQ ảnh hưởng khắp Á Đông: Đài, Hàn, Nhật, etc… không chỉ riêng gì Việt Nam, từ cả ngàn năm trước cho đến thời hiện đại. Dưới đây là 3 ví dụ về những thời điểm khác nhau mà một từ tiếng Hoa du nhập vào tiếng Việt, ví dụ đầu tiên là chữ… “ví dụ”:

1. 比如 âm Hán – Việt: tỉ như, âm Bắc Kinh hiện đại đọc là… ví dụ. Hiện tại, trong tiếng Việt, “tỉ như” và “ví dụ” dùng tương đương nhau, cả 2 thực ra chỉ là một từ, nhưng du nhập vào VN tại 2 thời điểm khác nhau, một là cả ngàn năm trước, một có thể chỉ mới vài trăm năm gần đây!

2. 如果 âm Hán – Việt: như quả, âm Bắc Kinh hiện đại đọc là: rút cuộc, hiểu theo nghĩa: kết quả là, cuối cùng thì… “Như quả”, từ này trong Hán Nôm rất ít thấy ghi nhận. Rút cuộc, có thể kết luận từ “rút cuộc” du nhập vào tiếng Việt tại một thời điểm chưa quá xa.

3. âm Hán Việt: toan, toán. Từ này du nhập vào tiếng Việt chỉ vài năm gần đây, âm Bắc Kinh đọc giống như là… xoã, chính là từ “xoã” của giới trẻ hiện tại với ý nghĩa: bỏ đi, quên đi, thư giãn. Hãy copy cụm từ: 算了,回家了 vào translate.google.com xem nó đọc và dịch thế nào!

Một số người thành kiến với ngôn ngữ và văn hoá TQ, nhưng không nhận ra ảnh hưởng sâu rộng của nó khắp Á Đông, cũng chẳng khác gì ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp – La Mã với phương Tây vậy. Hình dưới: cổ động viên bóng đá Nhật Bản đeo băng-rôn đề chữ: Tất Thắng – 必勝.

ban chỉ

班指

em phim kiếm hiệp, cổ trang thường thấy một loại nhẫn khá lớn, đeo ở ngón tay cái, thoạt tiên nghĩ đó là một loại trang sức, nhưng thấy có điểm không ổn, vì ngón tay cái làm rất nhiều việc, đeo chiếc nhẫn lớn như thế rất vướng víu. Suy nghĩ và “google” một lúc thì biết đó không phải đơn thuần là chiếc nhẫn, tiếng Trung gọi là: ban chỉ – 扳指. Nguyên thuỷ là dụng cụ để kéo cung, bảo vệ ngón tay khi phải giương những chiếc cung to và nặng, nhất là khi phải bắn nhiều phát liên tục.

Dần dà, với những nhà quyền quý, công cụ này trở thành vật mang tính chất trang sức, biểu tượng, không còn tính thực dụng ban đầu, và được làm bằng những vật liệu quý như vàng, ngọc. Trích đoạn phim: Kỷ Hiểu Lam kiến nghị mắt đã khỏi bệnh, có thể phục chức làm quan, Càn Long chưa muốn KHL trở lại làm quan, làm bộ muốn kiểm tra mắt, đưa bàn tay ra hỏi có bao nhiêu ngón (指 – chỉ – ngón tay). Dĩ nhiên là câu đố mẹo này lừa được KHL vì Càn Long đếm có 6 ngón (chỉ), kể cả cái “ban chỉ”! 😬

thò lò

ông cụ hiện đại khiến cho ai cũng có thể trở thành “nhà ngôn ngữ học”, đôi khi cũng muốn tập làm một “cụ An Chi”, người phụ trách chuyên mục “Chuyện đông chuyện tây” trên bán nguyệt san “Kiến thức ngày nay” một thời đã khá xa xưa 😀. “Thò lò” – 陀螺, âm Hán Việt đọc là “đà loa”, “đà” tức là quán tính, “loa” là con ốc.

Để rõ hơn, mở trang translate . google . com, nhập 陀螺 và bấm nút phát âm, nghe hầu như là giống âm Việt “thò lò”. Vậy đã rõ “thò lò” trong thành ngữ “quay tít thò lò” nghĩa làm sao (con quay, con vụ). Và cũng có thể đoán thêm, từ này du nhập VN mới sau này, nên âm đọc của nó gần với âm Bắc Kinh hiện đại hơn là âm Hán Việt cổ!