thời hoa đỏ – 2

Anh mải mê về một màu mây xa
Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ,
Em thầm hát một câu thơ cũ,
Về một thời thiếu nữ say mê
Về một thời hoa đỏ diệu kỳ…

Chạy dọc trên triền đê sông Thao, rồi qua Nghĩa Lộ, Mù Cang Chải, lên đến Lai Châu… thi thoảng lại bắt gặp cái mầu hoa gạo đỏ nao lòng này… Những ai đã từng tận mắt chứng kiến mùa hoa gạo nở (thử dùng google image search với 2 từ khoá: “chùa Hương” + “hoa gạo”) mới hiểu được cái đẹp quyến rũ đến lạ kỳ của “Thời hoa đỏ”.

tuoitre.vn – Vĩnh biệt nhà thơ Thanh Tùng, tác giả Thời hoa đỏ

Thời hoa đỏ - Nguyễn Đình Bảng 

serene – 3, part 4

Finally, I managed to have some time slots to start the kayak building. Works would be carried out mostly at weekends, and hopefully, the boat could be finished within this year. After much hesitations, procrastinations, and considerations into the very details, I’ve incorporated quite some “innovations” into the final design, as well as some “simplifications” to ease the building process. I “hope” this is also my “last” stitch – and – glue boat, the 6th of “the fleet”, seems to be a lot already!

The past 2, 3 weeks were spent mostly on reviewing, fine – tuning the design, “rehearse” the overall building techniques and process. This is a design that consumes my brainstorm the most! Many building steps could be done very quick now, as they have been done 5, 6 times already. So I would skip documenting in various parts, as they are all similar as in my previous boats, only to highlight things that are different. First is setting up the molding stations, cut from MDF as usual.

There would be 9 molding stations (female type) for the hull, and only 4 stations for the deck, each positioned 0.6m apart. One of my last changes to the deck was modifying its sides’ “slope” to 45 degrees, the deck would have lots of “flare” in the inverted position, that’s to make rolling easier. Once the boat is up – side – down and the deck becomes the bottom, so a “stable” full – shape deck wouldn’t be good for practicing kayak rolling. And I guess it could give some help to the boat’s windage too.

Aleksander Doba

Aleksander Doba, người Ba Lan, 71 tuổi, 3 LẦN CHÈO KAYAK XUYÊN ĐẠI TÂY DƯƠNG! Mặc dù cái định nghĩa về chiếc kayak của ông hoàn toàn khác biệt so với cách mọi người vẫn thường nghĩ, và mặc dù cái chiếc kayak của ông đi ngược lại quan niệm của riêng tôi về tiêu chuẩn kỹ thuật và cái đẹp của một chiếc sea – kayak, mặc dù thậm chí đó có thể được gọi là “kayak” hay không còn tuỳ vào quan điểm của mỗi người…

Và mặc dù, mặc dù 1001 lý do nào khác đi nữa… thì ông ấy đã chèo 3 lần vượt Đại Tây Dương! Cái sự thật hiển nhiên là ông ấy đã hoàn tất, không phải chỉ 1 mà 3 lần, không phải chỉ CHÈO từ Đông Sang Tây mà còn theo chiều ngược lại, khó hơn nhiều lần vì ngược gió! Đôi khi không phải là chiếc thuyền, mà là mục đích của hải hành! Và đôi khi cũng chẳng phải là mục đích của hải hành, mà là những gì có thể làm khi ta 71 tuổi !!!

serene – 3, part 3

There’re so many minor improves here and there, and lots of design considerations too, to maximize the usability of the kayak under various real – world conditions. The aft deck is lowered a bit, to facilitate climbing in the cockpit once thrown own by a complete capsize. There’re two deep – water reentry techniques that I was considering possible with this boat design. Wet – reentry has been a shortcoming of previous designs, being too slim and unstable to make an easy access.

This is not a kayak specially tailored for rolling, but Serene – 3 is designed with concerns of balance – brace and rollings in mind. At the moment, I’m not too sure about its capability to roll under full load and heavy sea conditions, but I’m quite confident for its easy recovering in brace actions. Also, the hatches’ design has been reviewed and modified, to improve their water – tight capability, I’m putting great hope in the new gaskets which would be made by silicone molding to accommodate the hatches.

Also, there would be 3 hatches, all big (no small day hatch) to better utilize the internal containing volume. The rudder design is also reviewed and altered, I need lighter pedaling, and quicker overall responsiveness for the rudder actions, a new type of rudder post, new layout for control cabling too. The electronic system would received a bunch of improves in building techniques, decoupling the whole system into several separable components, to make maintenance and repair easier later on.

định vị vô tuyến

Trước khi các hệ thống định vị vệ tinh như GPS, GLONASS, Galileo, Bắc Đẩu, etc… ra đời thì phổ biến trong hàng hải và hàng không là khá nhiều các loại hệ thống định vị radio khác nhau, nhưng quan trọng nhất là Hyperbolic navigation. Nguyên tắc hoạt động: giả sử có 2 nguồn phát sóng A và B được đồng bộ hoá để phát đi những tín hiệu lệch nhau một khoảng thời gian cố định, vị trí của A & B trên bản đồ được biết trước. Thiết bị nhận (receiver) nhận và so sánh tín hiệu phát ra từ 2 nguồn A & B, và vẽ thành một đường cong hyperbol mà trên đó hiệu khoảng cách đến A & B là hằng số. Giao hai đường hyperbol (sử dụng thêm một nguồn phát thứ 3 là C) sẽ có được toạ độ hiện tại. Nguyên tắc chung như vậy, nhưng có rất nhiều hệ thống Hyperbolic navigation khác nhau:

Anh và Mỹ xây dựng hệ các thống GEELORAN. Liên Xô thì xây dựng các hệ thống CHAYKAALPHA. Từ khi định vị vệ tinh trở nên phổ biến thì định vị radio dần bị loại bỏ. Tất cả các trạm phát GEE, LORAN đã ngừng hoạt động từ hơn 20 năm nay. Tuy vậy, người Nga vẫn duy trì và tiếp tục phát triển các hệ thống CHAYKA và ALPHA đến tận bây giờ. Sau một loạt những sự cố hàng hải, hàng không gần đây, được cho là có liên quan đến hệ thống định vị toàn cầu, Anh và Mỹ đã chuẩn bị xây dựng lại hệ thống LORAN như trước, làm phương án dự phòng trong trường hợp GPS, GLONASS… không hoạt động vì một lý do nào đó. Độ chính xác của các hệ thống Hyperbolic navigation vào khoảng 50~100 m, tuy không tốt bằng định vị vệ tinh, nhưng vẫn đủ tốt cho đa số các mục đích sử dụng.

usa vs ussr

Khủng hoảng con tin ở Beirut, 1985. Năm 1985, một tổ chức Hồi giáo cực đoan, một nhánh nhỏ của phong trào Hezbollah tại Ly-băng bắt cóc 4 nhà ngoại giao Liên Xô tại thủ đô Beirut. Khi đội đặc nhiệm Alpha của KGB được gởi sang hai ngày sau đó thì một nhà ngoại giao đã bị khủng bố sát hại. Sứ quán Liên Xô tiến hành đàm phán bí mật, đưa ra các lời đe doạ từ nhẹ tới nặng:

+ Anh biết ko, các siêu cường không thích chờ đợi. Chúng tôi nói thả người, thì các anh phải thả! => khủng bố im lặng

+ Chúng tôi đang tập trận, tên lửa nhiều khi cũng bay nhầm, trục trặc kỹ thuật vẫn hay xảy ra! => khủng bố cũng im lặng

Ngay sau đó, nhóm Alpha bắt cóc một người cháu của kẻ chủ mưu, cắt đầu và thiến anh ta, gởi hai bộ phận đó đến trong một cái hộp. 3 nhà ngoại giao Liên Xô còn lại được thả ngay lập tức sau đó! Từ đó, trong suốt 20 năm, khắp cả vùng Trung Đông, không ai dám bắt cóc các công dân Liên Xô nữa. Mãi hơn 20 năm sau, sự kiện 5 nhà ngoại giao Nga bị bắt cóc và sát hại tại Iraq năm 2006 (trước khi có thể tiến hành đàm phán). Putin ra lệnh “loại trừ’ những kẻ khủng bố bằng mọi cách, mọi giá.

Giới bình luận phương Tây nghi ngờ khả năng thực hiện lệnh này, vì Iraq năm 2006 không còn nằm trong vòng ảnh hưởng của Nga như trước. Thế nhưng bằng cách này hay cách khác, đến năm 2010, tất cả những ai có liên quan đến vụ sát hại các nhà ngoại giao Nga đều đã chết: bị bắt và xét xử, hay bị ám sát trong những hoàn cảnh không rõ ràng khác. Những sự kiện thực tế – facts, minh chứng cho những gì có thể làm bởi các cơ quan tình báo đối ngoại, không riêng gì nước nào.

Có những luồng ý kiến khác nhau về cách hành xử như thế. Một ý kiến cho rằng: như thế quá tàn bạo, quá khát máu, đánh khủng bố bằng những biện pháp tương tự, hay còn sắt máu hơn cả khủng bố. Đa số các cơ quan tình báo Tây phương đều cho rằng, đó chỉ có thể là Liên Xô và Nga, chứ phương Tây khó có thể làm như thế. Họ (phương Tây), trên một mặt nào đó, vẫn bị những “tiêu chuẩn lương tâm, đạo đức” chi phối và không thích tay mình dính quá nhiều máu (theo nghĩa đen).

Một ý kiến ngược lại: anh giết của tôi một người, tôi giết của anh một người, dù sao vẫn “công bằng”, và để ngõ khả năng hoá giải hận thù. Phương Tây không thích tay dính máu, họ thích dùng UAV bắn tên lửa từ xa hơn. Việc giết quá nhiều người vô tội, mà không có một đối tượng gây án cụ thể “có thể nhìn thấy” nào, dẫn tới việc các tổ chức khủng bố sẵn sàng hướng đến bất kỳ ai, dùng bất kỳ biện pháp nào để báo thù, và ngày càng trở nên điên cuồng hơn trong việc lựa chọn mục tiêu của chúng.

toán & tính

Nhớ lại ông thầy dạy Toán ở Đại học hồi xưa có nói rằng: cái thứ mà các anh đang học đó, ở cái “trường phổ thông trung học cấp 4” này, nó là “tính” chứ không phải là “toán”! Nhớ lại những ngày đang học lớp 13 hay 14 gì đó (modulo cho 12), câu nói đó đến tận giờ vẫn chẳng hề sai tí nào! Ở Việt Nam, số người làm “toán” thực sự, như GS Ngô Bảo Châu, chỉ đếm được trên đầu ngón tay mà thôi, mà lại là các ngón trên bàn tay của một thằng Yakuza ấy! Và những người như ông thì đa số đại chúng (>99%), chẳng thế éo nào mà hiểu cho được, dù chỉ là phần nhỏ!

Những gì chúng ta học ở cấp 3 và những năm đầu Đại học: vi tích phân, đạo hàm… phần lớn vẫn là “tính”, chúng ta được dạy nhân chia, cộng trừ, chuyển vế đổi dấu các kiểu. Nhưng ai “nhạy cảm” chút sẽ nhận ra rằng, từ “lý thuyết vành”, “lý thuyết trường”… trở đi không còn là “tính” nữa, đó là biểu diễn của thế giới thực qua những mô hình trừu tượng của Toán học. Cuộc phiêu lưu của thằng “Mít đặc” toán là tôi đây dừng lại ở đó, cũng có thể là xa hơn một chút, nhưng đủ để hiểu rằng, Toán nó hoàn toàn khác với Tính, Tính chỉ cần khả năng, Toán cần tài năng.

Ngày GS NBC được trao giải Fields, một người bạn hỏi tôi: liệu rằng lễ trao giải có thượng quốc kỳ, cử quốc ca hay ko!? Tôi nhìn vào mắt anh ấy, như thể nhìn vào một khoảng trống vô hồn, ko nói gì nhưng thầm nghĩ: hoá ra 5 năm ĐH ngành Toán chẳng có tí xíu ích lợi gì với con người này! Cái tư duy chưa vượt qua được luỹ tre làng ấy ko hiểu rằng, có những cộng đồng nhỏ chỉ vài trăm người nhưng uy tín và danh dự cá nhân của họ vượt lên trên ranh giới quốc gia, dân tộc! Hoặc giả như rằng những cái bản ngã nhỏ nhoi đó ko thể hiểu, hay ko muốn chấp nhận điều ấy!

Peter the Great

Hàng năm, vào ngày 30 tháng 7, sinh nhật của Sa hoàng Peter I (vừa qua), chiếc thuyền buồm nhỏ 400 năm tuổi này lại dẫn đầu đoàn diễu hành kỷ niệm Ngày thành lập Hải quân Nga trên sông Neva. Sau 400 năm, con thuyền 7m đóng bằng gỗ sồi này cỡi trên boong một con tàu khác chứ không thể tự bơi như trước. Tất cả chiến hạm của Hải quân Nga đều phải nghiêm chào khi con thuyền này đi qua. Peter I tìm thấy chiếc thuyền buồm trong nhà kho của ông nội, và học cách điều khiển nó năm 14 tuổi. Vài năm sau, ông tự tay đóng những chiếc thuyền buồm khác, “from keel to mast” – từ đáy lên tới đỉnh, và sau đó giong thuyền hàng trăm cây số trong bão tố trên vịnh Baltic, mặc cho bà mẹ của ông sợ hãi can ngăn.

Một cậu bé siêu tò mò và hiếu động, lập ra những “đại đội” đầu tiên từ các gia nhân, những người hầu cận của mình để chơi đánh trận giả. Hơn 3000 thiếu niên được huy động để lập nên hai trung đoàn: một đóng vai quân xanh, một đóng vai quân đỏ, và để xây dựng những pháo đài gỗ cho các trò chơi của cậu bé này. Ngày qua ngày, các chàng trai đó lớn dần lên, trò chơi trận giả ngày càng trở nên thật hơn. Đến một lúc, họ tập trận với gươm thật, súng thật, và từ đó trở thành 2 trung đoàn PreobrazhenskySemenovsky, đội ngự lâm quân của các Sa hoàng sau này. Những cậu bé chơi trận giả với Peter, về sau, đa số đều trở thành những sĩ quan thành danh trong các đơn vị quân đội khác nhau của vương quốc.

Không quan tâm nhiều đến sách vở, chỉ ham mê các trò chơi vận động. Nhưng ham thích thuyền buồm, nên đã học toán, học thiên văn để biết cách dùng kính lục phân (sextant), đã học nghề mộc, học cách tự may buồm, học cách rèn đúc đại bác, vũ khí, và tất cả những nghề nghiệp có liên quan khác. Năm 1697, lúc 25 tuổi, Peter du hành ẩn danh (incognito) qua nhiều quốc gia châu Âu, dừng chân 4 tháng ở Amsterdam để học nghề mộc đóng thuyền. Trong suốt thời gian 4 tháng này, ai gọi Peter là “bác cả” (thợ mộc) thì ông trả lời, còn ai gọi là “điện hạ”, “hoàng thượng” thì ông làm lơ không đáp. Peter đến Đức, Anh, Áo và nhiều quốc gia châu Âu khác, học hỏi mọi thứ có thể trên đường đi, nhất là những tiến bộ kỹ thuật!

Bản thân Peter thành thạo hơn 16 nghề, thành thạo thật sự chứ không phải chỉ làm cho có. Cuộc hành trình 2 năm ở châu Âu đã đem về Nga hàng chục ngàn đầu sách, đích thân Peter phỏng vấn và tuyển chọn gần 1000 chuyên gia nước ngoài để phục vụ cho việc đóng tàu, khai khoáng, luyện kim, chế tạo vũ khí, huấn luyện binh lính, etc… Họ được trả một mức lương hậu hĩnh để phục vụ trong quân đội, hải quân, trong chính quyền và các ngành nghề công nghiệp khác của Nga. Nên biết rằng lúc này châu Âu đã qua kỷ nguyên Ánh sáng và chuẩn bị bước vào kỷ nguyên Công nghiệp hoá, trong khi nước Nga vẫn còn là một quốc gia trung cổ cực kỳ lạc hậu, đơn thuần nông nghiệp dựa trên chế độ “nông nô” (serfdom).

Để mở mang bờ cõi, phía Nam, Peter xây dựng hạm đội biển Đen và gây chiến với Thổ Nhĩ Kỳ. Phía Bắc, ông lập nên hạm đội biển Baltic và tuyên chiến với Thuỵ Điển, quốc gia hùng mạnh nhất châu Âu lúc bấy giờ. Hai hạm đội này, lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga, mở được đường ra biển, giao thương với châu Âu và thế giới. Trước đó, người Nga hầu như chưa biết biển là gì! Peter khởi đầu với vị trí bombardier – pháo thủ, tự tay kéo pháo, tự tay nhồi đạn. Ông làm việc trên công trường đóng tàu như một người thợ mộc bình thường khác. Suốt mấy chục năm chinh chiến, ông được “thăng chức” bởi… chính các tướng lĩnh của ông, dần dần sau mỗi trận chiến, từ đại uý, đại tá và cuối cùng là đại tướng.

Mặc dù hiển nhiên, Sa hoàng mới thực sự là người chỉ huy cao nhất. Tất cả giống như là một vở kịch lớn, một trò chơi lớn, tiếp nối những trò chơi trận giả lúc nhỏ. Lúc đang xây dựng thành phố mới St. Peterburg, dự tính sẽ là thủ đô mới của nước Nga bên bờ vịnh Baltic, Peter sống trong một ngôi nhà gỗ 3 gian tạm bợ, với người vợ, sau này là nữ hoàng Catherine. Trong suốt nhiều năm, Catherine tự tay nấu ăn và giặt giũ, chăm sóc con cái, còn Peter tự tay làm vườn, họ sống như một cặp vợ chồng nông dân bình thường khác, trong căn nhà gỗ nhỏ thậm chí không có ống khói. Thư từ gởi đến và đi, đề tên là Peter Mikhailov, chứ không phải là Sa hoàng. Căn nhà này bây giờ trở thành một viện bảo tàng ở thành phố St. Peterburg.

Catherine, một phụ nữ gốc gác nông dân, “xuất thân hèn kém”, cả đời không biết đọc và viết, nhưng theo chồng Nam chinh Bắc chiến, chia xẻ mọi khó khăn, cực khổ, hiểm nguy trên chiến trường, nhiều khi còn tự tay nấu ăn cho lính tráng. Bà cứu mạng chồng mình trong một lần thua trận, bị quân Thổ Nhĩ Kỳ bao vây, bằng sự thông minh khôn khéo và can đảm của mình. Còn những khi chiến thắng trở về, Sa hoàng Peter, trong quân phục một đại uý, diễu hành qua cổng Khải hoàn môn ở Mát-cơ-va, đi phía sau những tướng lĩnh chỉ huy của ông như một người lính bình thường nhất. Giới quý tộc truyền thống Nga nhìn vào Hoàng đế của họ với tất cả những sự ngỡ ngàng, khó hiểu, xen lẫn với tức tối và bất mãn.

Công cuộc lột xác của nước Nga từ một nước nông nghiệp trung cổ lạc hậu, bước sang công nghiệp hoá trải qua nhiều đau đớn. Bản thân giới quý tộc không muốn từ bỏ các đặc quyền đặc lợi. Bản thân Nhà thờ Chính thống giáo không muốn mất đi các đất đai sở hữu và những quyền lợi khác. Peter đã ra lệnh tháo tất cả chuông của tất cả Nhà thờ trên toàn thể lãnh thổ Nga xuống để lấy đồng đúc súng đại bác, một hành động mà sau đó ông bị xem là “anti – Christ”. Giới quý tộc được lệnh phải văn minh hoá, phải học theo kiểu cách Tây phương. Áo choàng dài bị cắt ngắn, những hàm râu quai nón rậm rạp đặc trưng của quý tộc Nga bị cạo sạch, ai còn muốn để râu phải đóng “thuế râu”, phải trả một khoản tiền lớn.

Con em các nhà quý tộc và thơ lại được gởi đi châu Âu, học ngoại ngữ, học toán, học luyện kim, đóng tàu, kiến trúc, xây dựng, etc… và tất cả những ngành nghề cần thiết khác. Thể chế dựa trên đặc quyền, đặc lợi xa xưa dần dần bị bãi bỏ, tất cả được xây dựng lại trong một hệ thống dựa trên tài năng và công trạng. Thăng tiến trong chính quyền hoàn toàn dựa trên những thành quả đạt được. Và những đổi thay đó rất đau đớn, ở đây thể hiện một mặt khác trong cá tính con người Peter, một sự tàn bạo đến khát máu, sẵn sàng ra lệnh treo cổ hàng ngàn người chỉ trong một ngày, tất cả những ai dám chống đối, dám cản đường ông, tất cả chỉ để thực hiện cho bằng được chính sách “Duy tân” của mình.

Lịch sử nước Nga từ đó bước sang một trang khác, một kỷ nguyên khác, nổi lên như một siêu cường ở châu Âu. Cả châu Âu run sợ trước một thế lực mới, vừa văn minh hiện đại, vừa dã man tàn bạo! Không một ai có được vai trò như của Peter đối với nước Nga, trên tất cả các phương diện: khoa học, kỹ thuật, quân sự, văn hoá, thể chế luật pháp, chính quyền, kiến trúc, xây dựng, etc… Và cũng chỉ duy nhất một mình Peter được sử sách Nga chính thức gọi bằng cái tên: Piotr Veliki – Peter the Great – Peter vĩ đại. Tất cả được kể lại một cách hết sức chi tiết và sống động trong cuốn sách đồ sộ Peter the Great của Alexei Tolstoy, bản dịch tiếng Việt: Pie đệ nhất, một trong những cuốn sách yêu thích nhất của tôi lúc nhỏ.

thằng ngốc mùa hè và thằng ngốc mùa đông

Văn học, phim ảnh Nga thường có hình tượng “thằng ngốc”. Không biết có phải vì cái lãnh thổ quá rộng lớn của nước Nga, nhiều vùng xa biển, và do đó thiếu muối hay không, nhưng quả thực là văn hoá Nga có một chủ đề khá phổ biến, cũng khá đặc trưng, đó là chủ đề “thằng ngốc”. Một kiểu “mentally impaired”, một loại “abnormal personality trait”, hay một dạng khiếm khuyết về thần kinh, trí tuệ nào đó.

Họ phân biệt có hai dạng ngốc khác nhau, dạng thằng ngốc mùa hè: vừa thoáng thấy nó đi ngoài chợ, “nhặt lá, đá ống bơ”, khoa chân múa tay, nói năng la hét um sùm là đã biết ngay rằng nó ngốc! Dạng thứ hai gọi là thằng ngốc mùa đông, ngoài trời bão tuyết, phải chờ nó vào hẳn trong nhà, lột mũ, cởi áo khoác, ngồi nói chuyện vài câu rồi mới biết là nó ngốc! Ở Việt Nam, có khi phải ngồi nhậu với nó 4, 5 lần rồi mới biết nó ngốc!

tại sao kayak? phần 15

Những hành trình dài với kayak có thể là một điều gì đó rất đau đớn và đòi hỏi (painful and demanding). Hầu hết mọi người trong chúng ta đều không có khả năng trở thành một vận động viên chèo thuyền Olympic, nhưng có một khả năng rất khả quan là các vận động viên chèo Olympic chưa chắc đã có thể theo kịp chúng ta trong những cuộc hành trình kéo dài nhiều ngày. Phải chèo thuyền 12 ~ 16 tiếng một ngày (hay thậm chí còn hơn thế) có thể là một cuộc hành xác đau đớn kinh khủng.

Càng kinh khủng hơn nữa nếu phải rơi vào tình huống không thể dừng chèo, vì nếu dừng thì sẽ bị dòng nước hay gió đẩy ngược trở lại, cũng có nghĩa là những nỗ lực trước đó sẽ trở nên vô ích. Nó sẽ trở thành một cuộc đua ai chịu đựng đau đớn giỏi hơn ai, một cuộc đua mà những người bình thường như chúng ta lại có thể thắng được các vận động viên Olympic. Những tay chèo hàng đầu thế giới có thể chèo liên tục 25 ~ 30 tiếng mà chỉ dừng rất ít để ăn uống, và không hề được ngủ!

Sẽ mất khá nhiều thời gian tập luyện để có thể xem những thử thách như thế là việc bình thường. Trong những hành trình dài hơi đầu tiên, tôi đã đem theo vài viên sủi Efferagal codeine làm thuốc giảm đau, nhưng dần dà không còn phải dùng tới chúng nữa. Cũng cần phải nói rõ ràng rằng, đó không phải là một cuộc cạnh tranh, hơn thua với ai cả! Đơn giản chỉ có bạn, con thuyền và biển khơi rộng lớn, chẳng còn ai khác để trách móc, chẳng phải riêng điều đó đã rất tuyệt với sao!?

Và cũng chẳng có ai khác để nhờ vả, giúp đỡ hay nương tựa, cuối cùng, đó chỉ là cuộc chiến với chính bản thân mình, tìm cách vượt qua chính mình. Mỗi người có một sức chịu đựng riêng, một giới hạn riêng, chẳng tranh giành hơn thua với ai cả! Ngày hôm sau tốt hơn ngày hôm trước, có một chút gì đó khác biệt, tiến bộ. Một đôi khi, một số tình huống sẽ giống như là cỡi lên lưng cọp, bạn sẽ chẳng có một backup option hay plan B, hay một câu hỏi dạng what if I fail nào cả!

Những điều đó làm cho “sea – kayaking” khác với những bộ môn thể thao thuyền khác. Không tiện nghi, nhanh chóng như thuyền máy, không thanh lịch, tài khéo như thuyền buồm, không “hồi hộp nhưng ngắn ngủi” như chèo thuyền vượt thác, etc… Chèo kayak đường dài là một điều gì đó rất “đơn giản”, rất “cơ bản”, rất “nguyên thuỷ”… và cũng rất thú vị, cái tiến độ chậm rãi và đau đớn của nó sẽ khiến bạn có thừa đủ thời gian để hoà nhịp trở lại với thế giới sóng nước, với thiên nhiên xung quanh!





tại sao kayak? phần 14

Cái định nghĩa ấy dần dà bao gồm cả những kỹ thuật tự cứu hộ (self – rescue techniques) như brace (thuyền nghiêng), roll (thuyền lật) và wet – entry (kỹ thuật leo vào thuyền sau khi đã lật). Cái định nghĩa ấy dần dà bao gồm luôn cả trang thiết bị (ví dụ như thường có 2 mái chèo, 1 dùng chèo trong điều kiện bình thường, và 1 nhỏ hơn, gọi là storm – paddle, dùng để chèo trong dông bão). Như thế, định nghĩa của qajaq là một tập hợp bao gồm thiết kế thuyền, trang thiết bị và kỹ thuật vận hành.

Một bộ 3 đúng như thế, được thiết kế, phát triển và tinh lọc dần dần như một môn thể thao chuyên biệt, vì những trang thiết bị và kỹ thuật đó chỉ có thể áp dụng được đúng với thiết kế thuyền như thế, mà hầu như không thể áp dụng được trên những thiết kế kayak khác. Sự giải thích có thể dài dòng và khó hiểu, nhưng với những ai đã chịu khó chèo kayak đường dài trong một quãng thời gian nhất định đều dần dà sẽ nhận ra rằng, tất cả những yếu tố đó kết hợp lại với nhau, hoàn hảo một cách tự nhiên.

Dường như rằng chúng (3 yếu tố nêu trên: thiết kế, kỹ thuật và trang thiết bị) được “sinh ra là để dành cho nhau”. Thật ra, đó là một quá trình tiến hoá, liên tục phát triển, đúc kết kinh nghiệm trong nhiều thập kỷ của cộng đồng chơi sea – kayak. Điểm khác biệt nằm ở chỗ, họ, những sea – kayaker vốn dĩ đã là những kẻ thích những cuộc “phiêu lưu nhỏ”, kéo dài nhiều ngày (hay nhiều tuần, nhiều tháng), đi qua những dạng hình bờ biển khác nhau, trải qua những biến động thời tiết khác nhau.

Nếm trải bởi chính bản thân họ, thường là không có ai khác, không có lực lượng hỗ trợ hay cứu hộ. Và cái cộng đồng sea – kayaer quốc tế ấy, nó thực sự đông đảo và năng động, họ luôn luôn nghĩ ra những kỹ thuật mới, đi kèm với nó là những trang thiết bị mới. Tại sao vậy!? Đơn giản bởi vì sea – kayak giúp cho những người bình thường, những kẻ chẳng có tài năng hay danh tiếng gì trong xã hội (như tôi) có cơ hội được trở thành một kẻ phiêu lưu, một loại adventure nho nhỏ, vừa sức mình, có kiểm soát.

Dù sao thì những phiêu lưu nho nhỏ ấy cũng tốt hơn ngàn lần, thay vì dành thời gian tán láo và chia sẻ “fake news” trên internet, ít nhất cũng là cơ hội để có thể làm 1 điều gì đó, tuy nhỏ nhoi nhưng có ý nghĩa với bản thân mình. Trong xã hội thông tin tràn ngập như bây giờ, sea – kayak giúp chuyển đổi vai trò của một cá nhân, từ “consumer” (kẻ “tiêu thụ”, “sử dụng” thông tin) trở thành “producer” (người sản xuất, tạo ra thông tin), ít ra cũng là một điều gì đó hữu ích, năng động và lành mạnh.





tại sao kayak? phần 13

Lại tiếp tục tản mạn với những suy nghĩ rời rạc, không hệ thống về kayak. Như đã đề cập trong các phần trước, do bản thân khái niệm “kayak” vốn dĩ không phải là chính xác, nhiều người đã đem vào đó rất nhiều loại thuyền khác nhau, nên có một khuynh hướng hiện đại là sử dụng một từ mới: qajaq, một phiên âm khác gốc từ thổ dân Inuit, Eskimo… từ này dùng để chỉ một loại thiết kế riêng biệt, dành riêng để thực hiện những chuyến đi biển nhiều ngày, để phân biệt nó với những loại “kayak” khác.

Một số thiết kế kayak được thiết kế chuyên biệt cho những vùng nước nhiều biến động như các đoạn ghềnh thác trên sông, hay các vùng sóng gần bờ, loại này được gọi là “white – water – kayak” (white water ám chỉ màu của sóng vỡ, sóng bờ – breaking waves), đặc điểm thân thuyền thường ngắn (dưới 12 feet), hơi rộng, được làm bằng vật liệu mềm dẻo để có thể chịu va đập. Một số thiết kế khác gọi là “surfski” với kiểu “open cockpit” – khoang ngồi mở đặc trưng, đây là loại chuyên dùng để surf.

Cả hai loại “white water” ấy đều phải hy sinh tải trọng để có được sự linh hoạt cần thiết trong môi trường biến động. Những chiếc kayak “địa hình” thường chỉ chở được đúng người chèo, không thêm gì khác. Những chiếc surfski phải nhẹ, luôn luôn tiến về phía trước để nước không ngập hoàn toàn vào khoang ngồi mở. Như thế có nghĩa là những kayak thuộc loại “white – water”, mặc dù hết sức phù hợp trong môi trường sóng biến động, lại không phù hợp với những hành trình dài hơi.

Sea – kayak, hay qajaq là loại kết hợp giữa “white water kayak” và “touring kayak”, nghĩa là vẫn có những khả năng nhất định để hoạt động trong môi trường biến động, nhưng cũng có đủ tải trọng để chứa được lương thực, thực phẩm, trang thiết bị, etc… cần thiết cho những hành trình dài. Touring kayak được thiết kế để mang lại tiện nghi cho người chèo không chuyên nghiệp trên những đoạn đường không quá dài. White – water kayak là một loại thể thao giải trí, mạo hiểm ngắn hạn, thường chỉ kéo dài vài giờ.

Còn qajaq (hay tên cũ là sea – kayak) đã dần dần được hình thành trong một định nghĩa tương đối chính xác, là loại thuyền dành cho những cuộc hành trình kéo dài nhiều ngày (thậm chí nhiều tuần, nhiều tháng), thường là đi ven bờ, qua một loạt những loại địa hình địa lý khác nhau, nhưng cũng có khi là những quãng vượt biển kéo dài cả trăm cây số… Cái định nghĩa của qajaq không phải chỉ nằm ở những thân thuyền dài và hẹp, giúp tiết kiệm sức lực khi chèo cắt, trượt qua những con sóng.





serene – 3, part 2

Also, the deck height right after the cockpit is reduced, so that climbing in the kayak would be easier. The hull’s upper bilges now have much more flare, especially at the 2 ends, to help improving secondary stability, that also has Cp (prismatic coefficient) increased to about 0.52 ~ 0.53, a value usually seen on a faster cruising kayak, unlike the quite – low value of 0.5 on my previous Serene – 2. Transverse metacentric height – Kmt increased to 26 ~ 27 cm, which indicates satisfactory initial stability.

Thus, Serene – 3 is designed with a shift to (primary and secondary) stability concerns. Directional stability (reflected by the Cb – block coefficient value of 0.39) is ensured with an improved rudder system. The beam is slightly widen to 46 cm, and LOA stays at 17 feet. The 5.2m length is an important factor, cause it could entirely fit into a 4 meter truck, which could be easily hired to transport the boat if needed, otherwise at 18 feet, I would need a larger truck, which could be hard to find.

The hull features a deeper V – bottom, something similar to that of the Illorsuit. In all three Serene – 1, 2, 3 designs, I’ve always tried to combine deep V – hull with a narrow beam, something until now I’ve only partially succeeded. Various other improves would be incorporated into this boat. I would build different hatches with big silicone gaskets, to completely solve the water leaking problem (hopefully). Also, there would be 3 hatches along the kayak, to better utilized the storage volume inside.

serene – 3, part 1

It’s time to move on to a new kayak design. Lessons learnt from my last failed trip signifies the necessity for a boat design that is geared toward a wide range of self – rescue actions such as: balanced brace, roll and wet – entry. Thanks to the very dynamic world – wide sea – kayak community, which constantly invents and improves various techniques, I’ve updated myself to some newer self – rescue techniques which I consider to be critically important for long cruising trips.

My previous boat, Serene – 2 has some obvious shortcomings though: initial stability is still slightly problematic, especially for reentry; the electricity system, though working very well, is hard to repair or upgrade, this is due to my inexperience with electrical wiring. I would incorporate into this kayak design various small improves here and there: the storage compartments and hatches would be rearranged to better utilize the boat’s volume, a new rudder system with better responsiveness, etc…

For the last 2 months, most of my free times is directed toward working with FreeShip, the very helpful boat – designing software. Some design parameters: LOA: 5.2m (17′), Beam: 46 cm, Displacement: 120 kg, Cp (prismatic coefficient): 5.3, S (wetted surface): 1.95, Cb (block coefficient): 0.39, Cw (waterplane coefficient): 0.7… The most important change compared to Serene – 2 is a significant increase in rocker, the boat is now much curvy, having the mid section deeper seated in water.

hard vs soft chines

Vẫn đang loay hoay suy nghĩ về thiết kế kayak, hard-chine hay là soft-chine, những đường cong mềm mại, hay những cạnh vát sắc nét, mỗi cái đều có ưu, nhược riêng. Dù anh có đi theo hướng nào, thì vẫn luôn có người làm ngược lại, đó đơn giản là sự đa dạng của suy nghĩ con người. Trong một thế giới lành mạnh, sự khác biệt đúng ra là để hỗ trợ, bổ sung cho nhau, thay vì kình chống nhau…

string theory

Ngày chèo thứ 2, bình minh trên cửa biển Soài Rạp… Hình ảnh từ 1 thế giới song song… Theo Lý thuyết dây (string theory) thì vũ trụ bao gồm nhiều thế giới khác nhau, tồn tại song song nhưng độc lập với nhau. Về nguyên tắc, đứng từ thế giới này không thể thấy hay hiểu, hay cảm được thế giới kia, nhưng thỉnh thoảng chúng vẫn giao thoa và để lại trong ta những hình ảnh nhất định…

Svalbard seed vault

Sai lầm nguyên thuỷ, lớn nhất của nhân loại, ấy là việc… Noah và các sinh vật khác đã kịp lên con tàu Ark trước khi cơn đại hồng thuỷ tràn ngập toàn bộ hành tinh. Và giờ đây chúng ta phải tiếp tục xử lý sai lầm này! Mọi người hãy nhớ lấy địa chỉ này nhé: Ngân hàng hạt giống có khả năng lưu trữ hơn 2 tỷ hạt ở nhiệt độ -18 độ C sâu trong lòng núi! Sau khi cơn đại hồng thuỷ qua đi, anh em ai còn sống sót, hãy bơi thuyền đến đảo, lấy một ít hạt giống đem về, để gieo trồng lại cây xanh trên “mảnh đất… lắm người nhiều ma” này!

a sailor’s wedding

A unique event in the Vietnamese recreational boating community, a community that is so small that even a kayaker like me have chances to know other players of other water sports such as sailboat, SUP, motor canoes, free or Scuba diving… And that’s the wedding of my friend, who helps founding and running VTSA – Vũng Tàu sailing club. Assembled together for the parade is 4 big sailboats, 2 monohulls and 2 catamarans.

A small parade with those 4 sailboats, about 20 nautical miles, running from Vũng Tàu city to VietsoPetro resort, where the wedding celebration and party were held on the beach. The weather was so fine, though winds are a bit weak. Taking parts in the parade are the bride and groom, their sailor friends and some invited guesses. Such a special event, and such joyful moments among our friendly circle that we could never forget.

mare liberum

Nhiều thế kỷ về trước, người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha tiên phong khai phá Tân thế giới, họ đề cao học thuyết “Mare clausum” – tiếng Latin nghĩa là biển đóng, những vùng biển được tuyên bố chủ quyền triệt để. Người Anh, Pháp chậm chân hơn, họ đề cao học thuyết “Mare Liberum” – biển tự do, biển mở: chỉ công nhận lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế, ngoài khu vực đó là vùng biển… quốc tế, không ai có thể tuyên bố chủ quyền.

Dần dà, học thuyết Mare Liberum thắng thế, đơn giản vì với khả năng thời đó, rất khó thực thi chủ quyền trên những vùng đại dương rộng lớn, thay vào đó nên chấp nhận quyền khai thác chung. Tuy vậy, đây vẫn là một dạng luật của kẻ mạnh, vì ai có khả năng khai thác, nếu không phải là kẻ có tàu to, súng lớn!? Đến ngày nay, đa số các quốc gia đều ủng hộ học thuyết Biển tự do, chỉ có một số ít không ủng hộ, đơn cử ví dụ như là… Trung Quốc.

Việt Nam cũng đi theo với xu thế của thế giới, cũng đã thừa nhận tinh thần của trường phái suy nghĩ “Mare Liberum” này, hay ít nhất cũng có vẻ như thế, trên hình thức là như thế! Nhưng nói thì dể, mà làm không dễ… muốn có được cái tự do rộng lớn ngoài kia, thì trong nội địa, trong mọi sinh hoạt sản xuất, xây dựng, kinh doanh, trong ý chí, hoài bão của con người, phải có tự do trước đã… Suy cho cùng, nó vẫn là luật của tàu to, súng lớn…