euclidean distance

Đường thẳng có phải là đường ngắn nhất giữa hai điểm!? Nhớ lại hành trình chèo 9 ngày qua 9 cửa sông Cửu Long hai năm trước… tôi luôn cố đi thật xa, không được ôm bờ (shore hugging) quá gần. Nhưng nó gần như là một phản xạ vô hình, một tiềm thức về sự an toàn, khi cứ sau 1, 2 giờ chèo lại thấy mình đi gần sát lại bờ. Khi trong con người mình không có đủ sự tự tin, tin vào thể lực, vào khả năng xoay xở của bản thân, tin vào độ an toàn, bền chắc của các thiết bị trên thuyền, thì gần như là một phản xạ tự nhiên không thể khác, cứ chèo một lúc là lại đi gần bờ.

Dù biết rằng “đường thẳng luôn là đường ngắn nhất giữa hai điểm”, băng từ mũi đất này sang mũi đất kia, nhiều khi không thế thấy được bờ, (một phần cũng do địa hình miền Tây rất thấp, chỉ cách bờ 7, 8 km là coi như đã không thấy gì, rất khó dùng địa hình để định vị). Nhưng đường thẳng có phải là ngắn nhất hay không, nó còn phụ thuộc vào “bản lĩnh” của sailor. Không dể gì đi theo một con đường “duy lý”, “duy ý chí”, một con đường của tiên đề số 1 – hệ tiên đề Euclide (hai điểm xác định một đường thẳng), một lộ trình do la bàn vạch ra để mà nhắm thẳng tới đích.

Bernoulli’s principle – 1

Nhiều người tập chơi buồm nhưng chưa hiểu rõ nguyên tắc vận hành của lá buồm! Không hiểu thì cũng chẳng sao, nhưng hiểu thì dễ cảm nhận và điều khiển lá buồm hơn. Quy tắc vật lý chi phối lá buồm là nguyên lý Bernoulli (Bernoulli’s principle), phát biểu nôm na như sau: dòng chất lỏng / không khí chảy với vận tốc nhanh hơn sẽ tạo ra áp suất thấp hơn so với dòng chất lỏng / không khí chảy với vận tốc chậm hơn. Ví dụ đơn giản của nguyên lý Bernoulli là cái súng phun sơn. Ai đã tự chế súng phun sơn dùng bơm xe đạp lúc nhỏ sẽ hiểu điều này rất rõ! Hơn 30 năm trước, toàn sơn bằng… cái bơm xe đạp, lúc đó không có máy nén khí như bây giờ, một người cầm bình phun, người kia hì hục đẩy bơm! Dòng không khí chảy vuông góc với van ở miệng bình tạo ra một vùng áp thấp, hút sơn ra khỏi bình. Cũng tương tự cho bộ chế hoà khí (carburetor) xe máy.

Ví dụ thứ 2 là cánh máy bay hay lá buồm, hình dạng ko cân xứng tạo nên hai dòng không khí có vận tốc khác nhau, gây ra chênh lệch áp suất giữa hai bên bề mặt. Chính chênh lệch áp suất này tạo ra lực nâng / lực đẩy cho cánh máy bay hay cánh buồm, và cũng lý giải tại sao thuyền buồm thường đi ngang gió, xiên gió lại… nhanh hơn là đi xuôi gió, thậm chí có thể nhanh hơn vận tốc gió! Chỉ trường hợp đi “xuôi gió” thì mới có thể tạm gọi là “gió cuốn cánh buồm đi”. Dĩ nhiên, khí động học của cánh máy bay / lá buồm còn nhiều điều phức tạp hơn thế. Có thể lý giải sự hình thành lực nâng, lực đẩy (lift) bằng nhiều cách, chung quy cũng quay về Định luật 2 Newton. Nhưng giải thích bằng nguyên lý Bernoulli vẫn là sinh động, trực quan và dể hiểu nhất! Những điều này thường tìm thấy trong các sách “Vật lý vui”, phổ biến với học sinh cấp 1, cấp 2 ngày xưa!

stadiametric rangefinding

Các ống nhòm quân sự hay hàng hải chuyên dụng thường có thang đo hiển thị trên khung nhìn, dùng để ước lượng khoảng cách. Mỗi nấc thang đo có đơn vị là mil (mili-radian – 1/1000 radian). Giả sử như biết trước chiều cao của đối tượng đang quan sát (e.g: một ngọn núi) là x, thì khoảng cách tới đó: y = x / k * 1000, với k là giá trị đọc được trên thang đo.

Đây chỉ là công thức tính nhẩm gần đúng, vì công thức tính toán chính xác có liên quan một chút đến cosine, nhưng cos của góc rất nhỏ xấp xỉ bằng 1. Ví dụ như, ta biết trước chiều cao của đỉnh núi Thánh Giá – Côn Đảo là 570 m, nếu như trong ống nhòm quan sát thấy núi có độ cao là 20 nấc, thì khoảng cách đến đảo xấp xỉ là: 570 / 20 * 1000 = 28.5 km.

down to earth

Trở lại không gian một thành phố hãy còn là tỉnh lẻ, hơn 1/4 thế kỷ trở về trước, một Đà Nẵng nhỏ bé, nghèo nàn và lạc hậu. Hàng sáng cứ khoảng 4h là nhiều người dân lại đạp xe 10, 15 km đi tắm biển, bơi lội chán chê đến hơn 6, 7h mới về, chậm rãi ăn sáng rồi thong thả đi làm. Thành phố thời bao cấp, cũng chẳng có mấy công việc, tội gì phải vội!? Thế nên dân chúng giữ được thói quen tập thể dục đúng giờ rất lành mạnh! Một vài người đi bơi, mùa hè cũng như mùa đông, biển êm cũng như khi dông bão, dù trời lạnh cóng, họ vẫn bơi đều đặn hàng chục km mỗi sáng!

Một lối sống cực kỳ “xa xỉ” so với cuộc sống ở Sài Gòn thời bây giờ: mở mắt ra là kẹt đường đầy xe, khói, bụi, chen lấn, dẫm đạp, chửi bới nhau, thời gian ăn sáng chưa chắc có, nói gì đến việc đi bơi 1, 2 tiếng mỗi sáng? Đúng là thói quen “xa xỉ”, đúng là đồ “dở hơi biết bơi”, chỉ có dân “thượng lưu” mới có điều kiện như thế! Tôi vẫn thường luôn nhớ về những tháng ngày xa xưa ấy, những gì rất cơ bản, rất sơ đẳng, tạm gọi là “down – to – earth”, sống gần mặt đất! Những thói quen có ích cho sức khoẻ thể chất và tinh thần, nó tạo ra những con người rất tough – rất cứng!

alma mater mea

Bắc hành 2017 p4

Sitting in the sandpit, life is a short trip… It’s so hard to get old without a cause. Youth’s like diamonds in the sun, and diamonds are forever…

Sơn Trà, chỉ là bán đảo nho nhỏ, đường vòng quanh chưa đầy 60 km. Những năm cấp 2, bọn tôi thường rong chơi ở đây: leo núi, băng rừng, cắm trại, tắm biển… Khi đó chưa có đường nhựa như giờ, chỉ là đường mòn rộng chừng 0.5m làm năm 1979 để đưa pháo cối ra đặt ngoài đó (đề phòng Trung Quốc đổ bộ đường biển). Đến giờ, tôi lờ mờ hiểu ra rằng, đã có những người dành cả đời để bảo vệ một đám xanh nhỏ nhoi như thế, và cũng sẽ có những kẻ tìm cách phá hoại bằng mọi giá.

Tạm dịch: (từ lúc còn) ngồi trong “hố cát”, (đến giờ) cuộc đời chỉ như một chuyến rong chơi ngắn. Thật khó để già đi mà không cho ta một lý do nào. Tuổi trẻ long lanh như kim cương trong ánh nắng, mà kim cương là mãi mãi… Hố cát (sandpit) là cái ô chứa cát ở vườn trẻ, làm để cho trẻ nghịch phá, đào bới, chơi đùa. Dễ có mấy chục năm, hôm nay mới trở lại cái “hố cát” tuổi thơ tôi, nguyên một vùng bán đảo Sơn Trà tuyệt đẹp, cái “hố cát” của một thời nghịch phá, vẫy vùng, mơ mộng.

somewhere out there

Hồi trẻ, có trò hay chơi là trồng chuối hít đất (chống đẩy). Trò này tôi rất “tự hào” vì trồng chuối nhiều người làm được, nhưng trồng chuối hít đất: hạ xuống từ từ cho đỉnh đầu chạm đất, rồi lại nâng thẳng tay lên, cứ thế 15, 20 lần, rất ít người làm được vì siêu khó, cần phải có cơ tay và vai rất khoẻ, không tin cứ thử làm xem, ngã gãy cổ đừng trách!

Bây giờ, sau 20 năm, không tài nào làm được như thế nữa (các bạn hẳn đã rất chán tôi luôn kể chuyện… ngày xưa, bao giờ cho đến ngày xưa!?) Chỉ một bức hình thoáng qua là bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu trò đùa vui, xông xênh của tuổi trẻ hiện về! Ở một nơi nào đấy ngoài kia, “somewhere out there”, vẫn có một chiếc thuyền neo đợi ta bên bờ biển!

thương nhớ mười hai

Nhớ hồi 4 năm ĐH, chiếc xe đạp cà tàng đụng vào đâu kêu đó: yên xe cọt kẹt, xích líp nhộn nhạo, đùi đĩa lắc cắc, cả cái xe đụng đâu kêu đó… duy có một cái đụng vào không kêu tiếng nào… là cái chuông!

binary chemical weapon

Haizzza, đây chẳng phải chính là loại độc dược 2 thành phần (binary chemical weapon) mà năm đó, tại Lục Liễu sơn trang, Triệu Mẫn quận chúa đã dùng để ám toán (không thành công) Trương giáo chủ Vô Kỵ ca ca và các huynh đệ Minh giáo đó sao!? Thủ pháp thật là vi diệu, 2 thành phần để riêng lẻ thì không có độc tính, không thể dò tìm ra được, lúc phối hợp lại với nhau mới phát tác. Muốn biết sự tình sao lại có thể xảo diệu đến như thế, xin hãy đọc Ỷ Thiên Đồ Long ký, chương 41 & 42 sẽ rõ!!!

thương nhớ đồng quê

Chăn trâu đốt lửa trên đồng, rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều. Mải mê đuổi một con diều, củ khoai nướng để cả chiều thành tro – lại nhớ 3 cái Tết ở Đồng Văn – Đi ra rồi lại đi vào, quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ!

bến my lăng

Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.

Từng có một “xứ Nẫu” “như thị ngã văn” – như là tôi biết, hoàn toàn khác biệt, cũng chẳng phải “hoa vàng trên cỏ xanh”, so với trí nhớ thời trai trẻ của chính mình cũng đã khá là xa cách tịch liêu, mà trong mắt giới trẻ bây giờ chỉ e rằng là một viễn tượng như cổ tích…

Russian Victory Day Parade 2018

Như thông lệ, ngày này hàng năm, gấu Nga lại khoe cơ bắp! Năm nay đặc biệt khoe người ít, khoe vũ khí nhiều. Quảng trường Đỏ với 2 nhà thờ Kazan và Basil nằm ở 2 đầu dường như đã trở nên quá chật hẹp để khoe những dàn vũ khí, khí tài “khủng”, một số là những loại “sử dụng các nguyên tắc vật lý mới”, “độc nhất vô nhị trên toàn cầu”. Stalin từng ra lệnh phá dỡ cả 2 nhà thờ Kazan & Basil, lấy chỗ rộng rãi để duyệt binh. Các kiến trúc sư thời đó đã cố gắng hết sức nhưng chỉ cứu được 1 trong 2, bằng cách biến Basil thành viện bảo tàng…

Cách duy nhất có thể cứu một công trình tôn giáo khỏi bị phá huỹ trong cái thời khắc nghiệt đó. Kazan mới được xây dựng lại như cũ sau này. Phần lễ, nhạc đã được rút ngắn đáng kể so với thời Sô-viết. Nhưng cũng là cái giọng đọc “basso profondo” (giọng nam siêu trầm) đó, giống y như của Yuri Levitan, phát thanh viên radio nổi tiếng thời WW2, chất giọng đầy uy lực, dể dàng khiến người ta lạnh gáy: “Vnimanie, vnimanie, govorit Moskva…” – “Chú ý, chú ý, Mát-cơ-va đang nói…”

chiều về trên sông – 1

Chiều buông trên dòng sông cuốn mau, thương đời thương lẫn nhau trong chiều. Về đây bọt bèo muôn khắp nơi, vui buồn cho có đôi không nhiều…

Cách đã vài tháng, có dịp thử cái “máng heo” – thuyền buồm nhỏ Optimist này trên một đoạn sông Sài Gòn gần An Phú Đông, quận 9. Một chiều gió rất nhẹ, vừa đủ để chiếc xuồng nhẹ nhàng chậm rãi lướt đi…

Chiều về trên sông - Thái Thanh 
Chiều về trên sông - Quỳnh Giao 

chuyện cái mo cau

Đã vài thập niên về trước, những làng quê miền Trung nghèo khó, cái mo cau có một công dụng ít người biết và còn nhớ đến… đó là thay giấy. Những ghi chép, khế ước trong thôn xã, hợp đồng, cam kết giữa hai đối tượng dân sự, cứ lấy mo cau mà viết và ký tên lên đó. Nhiều khi kiện cáo ra uỷ ban, cầm cái mo cau đi làm chứng cứ. Chuyện vẫn chưa xa, giờ nghe bàn cách mạng công nghiệp 4.0 cứ như… vịt nghe sấm!

đồng đen, 1

Nhân có người “bạn” nhắc về “đồng đen”… Haizza, đã là thế kỷ 21 rồi mà dân tình vẫn như thời Trung cổ, cứ mơ mơ hồ hồ, để cho bao nhiêu trò bịp bợm sơ đẳng lộng hành. “Đồng đen” là gì thì chưa bao giờ có định nghĩa rõ ràng. Nhưng trong những gì người ta biết về các loại hợp kim đồng (copper alloys) thì có 2 thứ sau có thể xem là “đồng đen”:

  • Shibuichi là hợp kim 3/4 đồng với 1/4 bạc, có màu đen tuyền tự nhiên rất đẹp (hình dưới, bên trái).

  • Shakudō là hợp kim đồng với khoảng 4~10% vàng, tự nhiên có màu vàng đồng. Đáng lưu ý là Shakudō thường được xử lý bề mặt bằng các loại hoá chất để tạo nên nhiều màu sắc khác nhau, từ vàng đồng đến màu đen tuyền (hình dưới, bên phải).

Ngày xưa, ở khắp các nước Á Đông: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, etc… Shakudō thường được dùng để đúc chuông, vì nó cho màu đẹp và tiếng hay. Cả 2 loại hợp kim trên đều quý vì chứa hàm lượng bạc, vàng kha khá. Nhưng chỉ như thế thôi, ngoài ra chẳng có thuộc tính “siêu nhiên” gì khác như những trò “ảo thuật” của bọn bịp bợm!


nồi đồng

Ký ức tuổi thơ – ai đã từng ăn cơm nấu trong những chiếc nồi đồng như thế này!? Loại nồi này chỉ được sản xuất trước năm 45, nên nếu có thì tối thiểu là từ đời ông bà để lại. Nồi được đúc bằng đồng, khá dày và nặng, dáng bầu tròn, rất khó múc cơm và cọ rửa, nhưng cũng do cấu trúc bầu tròn mà nhiệt lan toả đều cả bên trên và dưới nên rất ngon cơm.

Những cái “garde-manger” – chạn, tủ đựng đồ ăn bằng gỗ, 4 chân kê trên 4 chiếc bát nước nhỏ nhằm ngăn kiến và riện leo lên. Quá khứ và ký ức phải trôi qua, cuộc sống là phải đi lên phía trước. Nhưng đôi khi vẫn có cảm giác rằng, trong “tâm hồn” và “văn minh” Việt, chúng ta vẫn đang sống tối tăm, lạc hậu như trong một “thời đại đồ đồng” (bronze age) xa xưa…

vạc đồng

Hình chụp cách đây hơn 20 năm, sau lưng điện Thái Hoà, Huế (chụp bằng máy cơ, thời chưa có máy ảnh kỹ thuật số). Ngày trước, hai bên mỗi cung điện lớn trong Đại Nội đều có bày một vài đôi vạc đồng thế này, loại lớn nhất đường kính đến 2.2m, nặng đến hơn 1.5 tấn, có thể chứa được 3, 4 khối nước. Xưa giờ vẫn nghĩ đây chỉ là đồ vật mang tính lễ nghi, trang trí.

Giờ thì biết nó có một công dụng khác rất thực tế, hiển nhiên… là chứa nước cứu hoả! Cung điện xưa xây phần nhiều bằng gỗ, thường dể bị cháy, cần có nước ngay bên cạnh để “phản ứng nhanh”, nếu vận chuyển nước từ các giếng, hồ, ao gần đó thì không kịp. Cái này biết là do xem film cổ trang Trung Quốc… Ngày xưa, kiểm tra thấy vạc không có nước là thái giám bị phạt!

điện ảnh

Căn bản, cách làm phim của Trung Hoa đại lục và Hồng Kông, Đài Loan rất khác nhau. Với Đài Loan, HK, diễn viên thường được chọn từ các cuộc thi sắc đẹp, dĩ nhiên là có ngoại hình. Còn ở Đại lục, đa số diễn viên, nhất là các thế hệ đầu, và đến tận bây giờ, thường chọn ở các đoàn ca kịch: Kinh kịch, Bình kịch, Xuyên kịch, Tương kịch… Các thể loại Kịch đại lục có bề dày lịch sử lâu đời, công phu đáng nể, diễn viên không chỉ học diễn xuất, mà còn học vũ đạo, võ thuật, nhiều trò tạp kỹ, và nhất là văn thơ cổ. Nên về ấn tượng ngoại hình, trang phục thì HK, Đài Loan có thể có chút ưu thế, nhưng về chiều sâu văn hoá, tâm lý, thì không thể qua mặt Đại lục.

Thế nên mới có chuyện “diễn vai nào là chết vai đó”, nhiều diễn viên cả đời chỉ đóng một vai: Hoàng hậu (độc ác), Hoàng thượng (lăng nhăng), Phi tần (hiền từ), Hoàng thái hậu (ba phải), Công chúa (nghịch ngợm), etc… Đó là mô thức truyền thống của Kịch nghệ, vốn đã chuyên sâu như thế, có giỏi đến đâu cũng khó lòng vượt qua. Làm phim hiện đại căn bản là nhiều chiêu trò nhảm nhí để lôi kéo khán giả. Nhưng đại lục làm phim, luôn luôn lồng ghép trong đó nhiều văn hoá cổ, phải là người dụng tâm tinh tế mới nhận ra và thưởng thức được, đôi khi là những chi tiết rất nhỏ, ví dụ như nghệ thuật cắt giấy trang trí cổ truyền TQ trong hình dưới đây.

ban chỉ

班指

Xem phim kiếm hiệp, cổ trang thường thấy một loại nhẫn khá lớn, đeo ở ngón tay cái, thoạt tiên nghĩ đó là một loại trang sức, nhưng thấy có điểm không ổn, vì ngón tay cái làm rất nhiều việc, đeo chiếc nhẫn lớn như thế rất vướng víu. Suy nghĩ và “google” một lúc thì biết đó không phải là chiếc nhẫn, tiếng Trung gọi là: ban chỉ – 扳指. Nguyên thuỷ là dụng cụ để kéo cung, bảo vệ ngón tay khi phải giương những chiếc cung to và nặng, nhất là khi phải bắn nhiều phát liên tục.

Dần dà, với những nhà quyền quý, công cụ này trở thành vật mang tính chất trang sức, biểu tượng, không còn tính thực dụng ban đầu, và được làm bằng những vật liệu quý như vàng, ngọc. Trích đoạn phim: Kỷ Hiểu Lam kiến nghị mắt đã khỏi bệnh, có thể phục chức làm quan, Càn Long chưa muốn KHL trở lại, làm bộ kiểm tra mắt, đưa bàn tay ra hỏi có bao nhiêu ngón (指-chỉ-ngón tay). Dĩ nhiên là câu đố mẹo này lừa được KHL vì CL đếm có 6 ngón (chỉ), kể cả cái “ban chỉ”!

thò lò

Công cụ hiện đại khiến cho ai cũng có thể trở thành “nhà ngôn ngữ học”, đôi khi cũng muốn tập làm một “cụ An Chi”, người phụ trách chuyên mục “Chuyện đông chuyện tây” trên bán nguyệt san “Kiến thức ngày nay” một thời đã khá xa xưa. “Thò lò” – 陀螺, âm Hán Việt đọc là “đà loa”, “đà” tức là quán tính, “loa” là con ốc.

Để rõ hơn, mở trang translate . google . com, nhập 陀螺 và bấm nút phát âm, nghe hầu như là giống âm Việt “thò lò”. Vậy đã rõ “thò lò” trong thành ngữ “quay tít thò lò” nghĩa làm sao (con quay, con vụ). Và cũng có thể đoán thêm, từ này du nhập VN mới sau này, nên âm đọc của nó gần với âm Bắc Kinh hiện đại hơn là âm Hán Việt cổ!

phí & giá

Dĩ nhiên không nên đổi “học phí” thành “học giá”. Về mặt từ nguyên mà nói: giá (): giá cả, hầu như là quy thành tiền, phí (): khoản hao tổn, không nhất thiết có thể quy thành tiền. Ngày xưa, đi học chữ với thầy, ít khi phải trả bằng tiền, thầy thời xưa thường được đền đáp bằng tiền, gạo và nhiều dạng lễ vật khác, vì nhiều lý do khác nhau. Một mặt, người ta không muốn biến nó thành một giao dịch thương mại thẳng thừng.

Mặt khác, muốn biến nó thành một món nợ ân tình, mà tình nghĩa thì có cách hoàn trả khác biệt. Ngày nay, đi học chữ với thầy, không nhất thiết chỉ cần tiền. Còn phải nói ngon nói ngọt, dẫn thầy đi nhậu, vận động từ hành lang cho tới tận đâu, hao phí rất nhiều công sức! Nên nói “phí” nó nặng hơn “giá”, không thể quy thành tiền được. Dù là hiểu theo nghĩa nào, xưa hay nay, thì “phí” nó vẫn khác với “giá”, đâu cần phải đổi!?