đếm chữ

Coi phim thanh-xuân Trung Quốc cũng thấy y như vậy, họ có truyền thống “đếm chữ”, và chữ nghĩa của họ thì siêu nhiều! Ví dụ như học sinh phổ thông phạm lỗi kỷ luật gì đó là phải về nhà viết bản kiểm điểm “1 ngàn chữ”, nếu lỗi nặng hơn nữa thì sẽ phải viết kiểm điểm “2 ngàn chữ”… Điều này đã từng thấy áp dụng cho cả quan chức chính trị cỡ bự, kỷ luật là cũng phải viết kiểm điểm “5 ngàn chữ”, “1 vạn chữ”, mà chữ TQ thì rất dễ đếm!

Phải công nhận giáo dục phổ thông TQ kỹ hơn VN nhiều, học sinh được học nhiều về văn học, lịch sử… tất cả tạo nên một “corpus”, tập từ vựng, hành văn, diễn đạt, tư tưởng cơ bản. Không như VN, chỉ vài ba năm “đọc viết thông thạo” coi như xong, cùng lắm chỉ đạt đến trình ngôn ngữ báo chí cấp thấp! Nên mới đẻ ra những loại không biết cái gì, loay hoay với những ngôn từ “ngáo ngáo, thiểu năng” mà vẫn tự cho mình giỏi!

bác sĩ Khoa

Vụ này có vẻ “chìm xuồng”, bởi nếu làm rõ ra, khả năng là dính tới nguyên một đám “báo chí bẩn”, chính đám báo chí ba-xu là người nuôi những loại như “Bác sĩ Khoa” chứ không ai khác! Cần phải nói rõ ra để bà con “nhận mặt” đám lưu manh bây giờ, thực tế chúng nó chính là những loại giang hồ mạng thời hiện đại, chuyên sống bằng cách tống tiền, khủng bố cá nhân & doanh nghiệp! Vì bản chất như thế, nên một cách tự nhiên, chúng nó sẽ tìm cách che đậy bằng các thể loại chuyện “cảm động, lấy nước mắt”, sẽ tìm cách tô vẽ bằng các thứ “đạo lý, lương tâm giả cầy”, thậm chí còn tìm cách đóng vai “lương thiện, chính nghĩa” nữa kia!

Đám báo-chí-bẩn kiêm giang-hồ-mạng này, nghiệp chướng chúng nó không xa đâu, người thế nào thì sẽ gặp được loại y chang như thế, từ đám này xuống tới đám đĩ điếm, ma-cô, tội phạm thật sự chả xa mấy… vì thực ra về bản chất, chúng nó cũng một kiểu người giống nhau mà thôi, éo có khác cái gì: ưa hơn người bằng cách đĩ miệng, kiểu học đòi, loay hoay với 3 cái thói vẽ chuyện hư ảo (và trình vẽ đạt đến mức siêu hạng), chỉ thích ăn cướp và phá hoại chứ không thích làm! Nên nói “nồi nào úp vung nấy”, “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” là như thế! Thời buổi đảo điên, thật giả lẫn lộn, mọi người phải nhìn thật kỹ để nhận diện rõ chúng nó!

Có người hỏi: nhà báo ăn tiền doanh nghiệp là chuyện “thường”, nhà báo cũng phải sống chứ! Em trả lời: “thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ”, em không cực đoan đến mức bắt bẻ mọi thứ! Nhưng riêng đám lưu manh này là rất không bình thường, có lẽ chúng nó đã làm quá nhiều chuyện xấu, đã quen vẽ chuyện để che dấu bộ mặt thật! Như trong Harry Potter, mỗi khi làm chuyện cực ác là tâm hồn con người bị “chẻ làm 2” ấy! Bản năng thôi thúc, không thể cưỡng lại, phải “vừa là lưu manh, vừa là chính nghĩa”, “vừa ăn cướp, vừa la làng”, “vừa là đĩ điếm, vừa là thánh nữ” mới chịu! Chúng nó có thể chạy thoát nhiều thứ, nhưng không thể chạy thoát “nghiệp”!

dù rằng

Dù rằng một chữ cũng thơ, Dù rằng một thoáng cũng thừa xót xa. Dù rằng một cánh cũng hoa, Dù rằng một nửa cũng là trái tim! Dù không nói, dù lặng im…

thiên kinh vạn quyển

Phật giáo tóm tắt qua những con số, khởi đầu trực tiếp từ số 2 (không tính từ 1, từ 1 lên 2 bỏ qua, không trả lời những thứ siêu hình, những phạm trù “bất khả tư nghì”, không thể hiểu được với người-trần mắt-thịt). Kinh Phật chứa đầy những danh sách và con số, chúng thường mang ý nghĩa tập hợp và biểu tượng, ví dụ như 8 vạn 4 ngàn (84.000) là biểu trưng cho một đại lượng rất lớn, vì đương thời chưa có khái niệm, ký hiệu “inf – vô tận”. Một vài con số cơ bản: 2. Nhân quả và duyên khởi, 3. Tam pháp ấn, 4. Tứ diệu đế, 5. Ngũ uẩn, 6. Lục căn, 7. Thất tình, 8. Bát chính đạo, etc…

Đi sâu vào là cả một hệ thống “ma trận” chằng chịt các khái niệm phức tạp về tâm lý và nhận thức! Người mới đọc Phật thường choáng vì không biết bắt đầu từ đâu, vì sách vở Phật giáo đúng nghĩa là “thiên kinh vạn quyển”, hiểu theo đúng nghĩa đen, số lượng kinh văn hiện còn lại qua những biến động lịch sử là trên 1 ngàn (!!!), ngắn thì vài chục dòng, kinh dài thì… vài chục ngàn dòng. Không một tôn giáo nào khác có khối lượng văn bản đồ sộ đến như vậy, chỉ nói loanh quanh về một chữ “tâm”. Nên nói Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là “cognitive science – khoa học nhận thức” là như thế!

net-zero

Tin lớn nhất lâu nay, hành động hướng tới net-zero… bao gồm 2 hướng tiếp cận chính: #1. giảm khí thải, giảm tiêu thụ năng lượng hoá thạch xuống mức tối thiểu, #2. đã bắt đầu có công nghệ hấp thu khí CO2 trong khí quyển và chôn lại xuống đất, tương tự như cách những cánh rừng đang làm, nhưng nhanh hơn! Cho phép mơ mộng tí, nhưng mục tiêu này là hoàn toàn có thể trong cuộc đời chúng ta!

Mơ mộng thêm tí nữa, trong tương lai, doanh nghiệp sẽ được đánh giá bằng hai con số, một là tiền, hai là số ghi nợ trong ngân hàng CO2, cá nhân cũng được đánh giá bằng hai con số: một là tiền, hai là… điểm công dân, hay một cái gì đó tương tự để đo lường nhận thức, ý thức! Phải có tiêu chuẩn gồm nhiều tham số khác nhau, chứ hiện tại, “chỉ có tiền” thì con người chỉ có phá mà thôi! Mơ mộng, mơ mộng…

tathāgata

Tathāgata… trong các kinh Phật, thường thấy xuất hiện chữ Tathāgata – 如來 – Như Lai, chữ này là đại từ nhân xưng tự thân, do đức Phật tự gọi mình, chứ không phải do người khác gọi! Hiểu như thế đọc kinh văn sẽ thấy dễ hiểu hơn. Tatha: do đó, như thế, và gata: đã vượt qua. Có một chút nhập nhằng chỗ này, vì “Tathāgata” (tatha + gata) cũng có thể được chiết tự thành “tatha” và “agata”, mà “agata” là phản nghĩa của “gata”, tức là đến, chứ không phải là đi, Hoa văn hiểu như thế nên dịch thành “lai” (Như Lai). Có nhiều cách hiểu: đã đến hay đã đi, hay đã vượt qua, là vượt qua cái gì? Thật ra ngôn ngữ Phật giáo chỉ trở nên trừu tượng và đầy tính lý luận trong các kinh điển về sau!

Đương thời, Phật dùng từ một cách bình dân, có tính vừa gợi mở, vừa thực tế, tránh các câu hỏi siêu hình hay lý luận hình thức! Một tên hiệu thường gặp nữa của Phật là “Sugata”, ở đây ta bắt gặp cái động từ mà đức Phật rất “thích” dùng: “gate – tiếng Anh: to go”, đi, vượt qua, tiếng Hoa thường dịch “Sugata” thành “Thiện thệ – 善逝” hay “Hảo khứ – 好去”, dịch khá hay, nhưng “lai” hay “khứ” đều không thể hiện chính xác lắm, nên có một chút hàm ý chủ động trong đó! Tathāgata theo tôi, nên hiểu là: người đã vượt qua đến bờ bên kia (của bể khổ)! Về chữ “khổ” – Duḥkha, nó không mang nghĩa “khổ đau, bất hạnh” như chúng ta thường nghĩ, sẽ đề cập đến trong 1 post khác!

tự tính

Bạn có thể đem khỉ ra khỏi rừng, nhưng không thể đem rừng ra khỏi khỉ! Với khỉ, rừng là bản năng, là lẽ sống, hiểu tương đối là một dạng “tự tính – 自性 – svabhāva”! Đốn đến cái cây cuối cùng sẽ nhận ra, hoá ra chúng ta vẫn là những con khỉ nhớ rừng, cần có rừng!

Chính cái ngộ nhận bản thân mình cao cấp hơn nên dẫn đến kiểu suy nghĩ lầm lạc đó! Chừng nào mà cái ham muốn “hơn người bất chấp” còn lớn hơn cái ham muốn “thay đổi bản thân”, thì mọi lý luận vẫn chỉ là nguỵ biện, con người vẫn chỉ là những kẻ phá hoại!

sound of silence

Ngủ một đêm thức dậy, nhận ra mọi thứ rồi cũng sẽ y như cũ, chả khác gì! Như cái thời VN chưa có di động, chưa internet, về bản chất không ổn, nhưng ít ra nó không có phương tiện để nhân rộng. Đến khi có internet rồi, con đen dùng nó vào việc học tập thì ít, mà chat chit, gái gú thì nhiều! Tiếp theo đó thì mọi người biết rồi, các hội nhóm lưu manh, lừa bịp, bài bạc, cá độ, đĩ điếm mọc ra trên net như nấm sau mưa. Sau khi rửng mỡ chán chê, chúng nó sẽ bắt đầu bày trò xỉa xói nhau, tôi là như thế này, anh là như thế kia, đủ trò đấu tố, ghen ghét, lưu manh lặt vặt. Và khi đã la liếm chán chê, chúng nó sẽ học cách tỏ ra trí thức, cũng nghe nhạc, cũng đọc sách (nói xin lỗi, ngó qua đọc sách gì, nghe nhạc gì là biết cũng chỉ như “con khỉ mặc áo”). Tại sao cơ sự lại như vậy!?

Tại vì công nghệ phát triển mà con người thì không! Công nghệ tạo ra những cái tâm “vọng động”, cho họ cơ hội để trở thành “một người khác”, trong chốc lát trở thành bất kỳ điều gì mà họ muốn, cũng là một kiểu “ngáo”. Chứ thực sự, “cái tôi” bên trong không hề thay đổi, “cái tôi” chỉ được nuông chiều, chứ không được rèn luyện. Thiếu những giá trị dẫn đường, những mục tiêu hướng thượng, thiếu xây dựng và chia xẻ giá trị giữa người với người, thì có loay hoay cỡ nào, rồi cũng trở thành một kiểu “trò chơi con mực” mà thôi, không hơn! Ấy, mà nói “giá trị, tư tưởng”, đừng vội đem sách “triết” ra đọc nhé! Chuyện đơn giản chỉ là sự phát triển của mỗi cá nhân, là nhìn vào bên trong và tự vấn bản thân ấy, đừng vội ra ngoài mua sách, không có “tự vấn”, đọc làm màu vô ích!

Hello darkness, my old friend, I’ve come to talk with you again. Because a vision softly creeping, left its seeds while I was sleeping. And the vision that was planted in my brain still remains within the sound of silence… And the people bowed and prayed, to the neon god they made…

shakya

Về cái mà tôi hay gọi là “sự diễn dịch, phân tích lịch sử theo chiều ngược”, một “lỗi tư duy” phổ biến của 99% con người, tìm cách mô tả lại sự việc từ vị trí mình đang đứng, hay rất thường khi, diễn dịch lại quá khứ theo cách có thể đáp ứng (có lợi cho) các nhu cầu của cuộc sống hiện tại! Đó là một lỗi tư duy phổ biến, cố hữu, và hết sức nguy hiểm! Về đức Thích-ca Mâu-ni, thường được xem là “hoàng-tử” của dòng họ, “vương-quốc” Thích-ca (Shakya). Nhiều ý kiến cho rằng Shakya chính là Scythia, một nhánh người Aryan cổ! Theo các nghiên cứu hiện đại, thể chế chính trị của Shakya là Cộng-hoà (Republic) và nghị-viện, chứ không phải là Phong-kiến quân-chủ.

Cũng như nhiều quốc gia khác đương thời, hình thức chính quyền là Cộng-hoà, y hệt như La Mã trước thời Caesar, từ sau Caesar mới là đế chế, Caesar là Hoàng-đế đầu tiên! Trong tiếng Sanskrit, chữ Raja (Royal) chỉ người đứng đầu, người cầm quyền, chứ không mang nghĩa Hoàng-gia như sau này! Thực tế, thể chế phong kiến đầu tiên ở Ấn Độ cổ chỉ bắt đầu với Maurya, Bindusara và Ashoka, những Hoàng-đế mãi hơn 300 năm sau thời của đức Phật. Chính vì không có kiến thức về các thể chế Cộng-hoà thời cổ đại nên các sử gia (phong kiến) đời sau lần ngược trở lại, giải thích lịch sử “từ vị trí mình đang đứng”: Shakya trở thành vương-quốc và đức Phật trở thành hoàng-tử!

pali

Về Pali, và các ngôn ngữ khác của kinh Phật như: Sanskrit, chữ Phạn, etc… Sinh thời, đức Phật thuyết giảng bằng tiếng Prakrit, người anh em “bình dân” của Sanskrit. Vốn gốc đều là chung một ngôn ngữ, nhưng Prakrit là phần dễ hơn, bình dân hơn, phổ biến rộng rãi trong đại chúng, trong khi Sanskrit được ngữ pháp hoá chặt chẽ bằng các quy luật và trở thành ngôn ngữ chính xác của “tầng lớp trên”. Tuy vậy nhiều nghiên cứu cho rằng 2 nhánh ngôn ngữ này thông hiểu được với nhau chứ chưa đến mức trở thành các ngôn ngữ riêng biệt như sau này! Đã có lúc, có đệ tử đề nghị đức Phật truyền dạy giáo pháp bằng Sanskrit, nhưng đức Phật kiên quyết phản bác, đơn giản ông ấy muốn nói bằng thứ ngôn ngữ bình dân mà đại chúng có thể nghe và hiểu được! Càng về sau, Sanskrit càng trở nên chuẩn hoá, hàn lâm hoá, được dùng trong các nghi lễ tôn giáo Hinduism, Jainism, và Phật giáo!

Những lời dạy của đức Phật vốn được thể hiện bằng ngôn ngữ Prakrit! Vậy còn Pali là cái gì!? Cái tên Pali nhằm mô tả loại ngôn ngữ được sử dụng trong các kinh văn Theravada – Phật giáo nguyên thuỷ, nhưng cái tên đó chưa từng bao giờ được lịch sử ghi nhận! Người ta biết đến Pali, gọi bằng tên Pali thực chất chỉ qua các kinh văn của Theravada. Pali với Sanskrit có một mối liên hệ tương đối gần, tập từ vựng gần như tương đương, nhưng ngữ pháp Pali đơn giản hơn! Hiểu nôm na, Pali chính là một cái “hoá thạch”! Hoá thạch của một sinh vật cổ thực ra là cục đá mang hình dạng con sinh vật đó, chứ bản thân cục đá đó không phải là sinh vật! Tương tự như vậy, Pali chính là Prakrit thời kỳ đức Phật hoằng pháp, nhưng trong khi Prakrit tiếp tục phát triển, trở thành nhiều ngôn ngữ khác (sinh ngữ), còn Pali dừng lại, bất động với thời gian (tử ngữ), trở thành một ngôn ngữ kinh viện để lưu truyền hậu thế!

ananda

Về A-nan, người thị giả của đức Phật… khi Phật đã bắt đầu có tuổi, người muốn chọn một người hầu cận gần gũi phục vụ cho các công việc hàng ngày, lo ăn uống, sinh hoạt, lo tổ chức và truyền đạt các chỉ dạy cho Tăng-đoàn. Ca Diếp (và nhiều người khác) là các đại đệ tử của đức Phật, về học vấn đứng vào hàng đầu, nhưng lúc đó cũng đã có tuổi, người được chọn là A-nan vì nhiều lý do khác nhau. A-nan là em họ của đức Phật, bố của A-nan là anh em với bố của đức Phật, về quan hệ họ hàng là gần gũi. Kế đến nữa là A-nan còn trẻ, nhanh nhẹn phù hợp với công việc. A-nan với đức Phật một lòng tôn sùng, thành kính, chu đáo, và đặc biệt A-nan nổi tiếng với khả năng ghi nhớ siêu phàm, hàng vạn lời đức Phật nói ra, nói lúc nào, ở đâu, nói như thế nào, A-nan có thể lặp lại không sai sót.

Đại hội Kết-tập lần thứ nhất sau khi đức Phật nhập diệt, các đệ tử họp lại để “chuẩn hoá” những lời dạy, hội nghị này do Ca Diếp tổ chức! Hội nghị phụ thuộc rất nhiều vào A-nan, vì cái trí nhớ siêu phàm của ông ấy! Các kinh điển Phật giáo thường bắt đầu bằng câu: Evaṃ mayā śrūtaṃ, 如是我聞, Như thị ngã văn, Tôi nghe như vầy…, được cho là lời thuật của A-nan, A-nan thuật lại từng lời một, nếu tất cả 500 vị A-la-hán của Tăng-đoàn đều đồng ý thì lời đó trở thành kinh văn chính thức! Nhưng có một điều, A-nan là người duy nhất, trong số 500 thành viên hội đồng chưa… đắc quả A-la-hán! Chính bởi cái trí nhớ siêu phàm, cái gì cũng nhớ đó nên A-nan chưa thể đắc pháp, ít nhất là cho đến sau khi đức Phật khứ thế, những người khác, vì ít vướng bận vào ngôn ngữ, nên lại dễ thành công hơn!

Bát nhã tâm kinh

Bát-nhã tâm kinh – 般若心经 – Prajnaparamita hrdaya – Heart sutra. Nói rõ một điều là em hoàn toàn không hiểu gì nội dung kinh này, chỉ nói về cái chất lượng âm nhạc như thôi miên của nó! Nhất là đoạn: Gate, gate, pāragate, pārasaṃgate – Qua rồi, qua rồi, đã qua bờ bên kia, đã hoàn toàn qua bờ bên kia rồi… Cứ mỗi lần chèo kayak vượt biển những đoạn dài 20, 25 km hay hơn…

Là em vừa chèo xuồng đi, vừa “niệm chú” như thế: Gate, gate, pāragate, pārasaṃgate – Qua rồi, qua rồi, đã qua bờ bên kia, đã hoàn toàn qua bờ bên kia rồi… em ngu nên chỉ có thể hiểu theo nghĩa đen như thế thôi! Nói thêm chút về ngữ nghĩa, có hai cách hiểu câu này, một cách chủ động và một cách bị động, không diễn tả được trong tiếng Việt, hiểu thế nào là tuỳ vào chủ thể!

Aaryaavalokiteshvara – bodhisattvo gambhiiraayaam prajnaapaaramitaayaam caryaam caramaano vyavalokayati sma: panca skandhaah; taamshca svabhaava – shuunyaan pashyati sma.

Iha Shaariputra ruupam shuunyataa shuunyataiva ruupam, ruupaan na prithak shuunyataa, shuunyataayaa na prithag ruupam, yad ruupam saa shuunyataa, yaa shuunyataa tad ruupam. Evem eva vedanaa – samjnaa – samskaara – vijnaanaani. Iha Shaariputra sarva – dharmaah shuunyataa – lakshanaa, anutpannaa, aniruddhaa, amalaa, na vimalaa, nonaa, na paripuurnaah. Tasmaac Chaariputra shuunyaayaam na ruupam na vedanaa na samjnaa na samskaaraa na vijnaanaani. Na cakshuh – shrotra – ghraana – jihvaa – kaaya – manaamsi. Na ruupa – shabda – gandha – rasa – sprashtavya – dharmaah. Na cakshurdhaatur yaavan na mano – vijnaana – dhaatuh.

Na vidyaa, naavidyaa, na vidyaa – kshayo, naavidyaa – kshayo, yaavan na jaraa – maranam na jaraamarana – kshayo, na duhkha – samudaya – nirodha – maargaa, na jnaanam, na praaptir apraaptitvena. Bodhisattvasya prajnaapaaramitaam aashritya viharaty acittaavaranah. Cittaavarana – naastitvaad atrasto, viparyaasaatikraanto nishtha – nirvaanah. Tryadhva – vyavasthitaah sarvabuddhaah prajnaapaaramitaam aashrityaanuttaraam samyaksambodhim abhisambuddhaah. Tasmaaj jnaatavyo prajnaapaaramitaa – mahaamantro mahaavidyaa – mantro ‘nuttara – mantro ‘samasama – mantrah, sarvadukha – prashamanah, satyam amithyatvaat, prajnaapaaramitaayaam ukto mantrah. Tad yathaa gate gate paaragate paarasamgate bodhi svaaha!

 

Avalokiteshvara while practicing deeply with the Insight that Brings Us to the Other Shore, suddenly discovered that all of the five Skandhas are equally empty, and with this realisation he overcame all Ill-being.

“Listen Sariputra, this Body itself is Emptiness and Emptiness itself is this Body. This Body is not other than Emptiness and Emptiness is not other than this Body. The same is true of Feelings, Perceptions, Mental Formations, and Consciousness. “Listen Sariputra, all phenomena bear the mark of Emptiness; their true nature is the nature of no Birth no Death, no Being no Non-being, no Defilement no Purity, no Increasing no Decreasing. “That is why in Emptiness, Body, Feelings, Perceptions, Mental Formations and Consciousness are not separate self entities. The Eighteen Realms of Phenomena which are the six Sense Organs, the six Sense Objects, and the six Consciousnesses are also not separate self entities. The Twelve Links of Interdependent Arising and their Extinction are also not separate self entities. Ill-being, the Causes of Ill-being, the End of Ill-being, the Path, insight and attainment, are also not separate self entities. Whoever can see this no longer needs anything to attain.

Bodhisattvas who practice the Insight that Brings Us to the Other Shore see no more obstacles in their mind, and because there are no more obstacles in their mind, they can overcome all fear, destroy all wrong perceptions and realize Perfect Nirvana. “All Buddhas in the past, present and future by practicing the Insight that Brings Us to the Other Shore are all capable of attaining Authentic and Perfect Enlightenment. “Therefore Sariputra, it should be known that the Insight that Brings Us to the Other Shore is a Great Mantra, the most illuminating mantra, the highest mantra, a mantra beyond compare, the True Wisdom that has the power to put an end to all kinds of suffering. Therefore let us proclaim a mantra to praise the Insight that Brings Us to the Other Shore: Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha!

first & original

First-hand-knowledge – kiến thức trực tiếp: tự biết một chuyện gì đó bằng chính bản thân mình, càng trực tiếp càng tốt, không nghe qua người thứ 2, thứ 3, thứ 4… thứ n. Khi kiến thức trực tiếp không thể có thì nên giữ thái độ trung dung! Original thoughts – suy nghĩ tự thân: phát ngôn bằng chính suy nghĩ của bản thân, hạn chế copy lại từ các nguồn khác! Riêng việc tự suy nghĩ, tự phát ngôn là đã cho thấy cá nhân có sự vận động nội tại, có tư duy và lý tính riêng, chứ không phải đơn giản chỉ là một cái máy photocopy! Hai cái này, một đầu vào, một đầu ra, liên quan chặt chẽ với nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Người không biết giá trị của “first – hand – knowledge” sẽ chỉ la liếm chuyện thiên hạ, bản thân không có sự phân tích, chọn lọc bên trong.

Mà ngành Computer Science có câu: GIGO – garbage in, garbage out, bỏ vào là rác, thì thứ lấy ra cũng sẽ chỉ là rác! “Original thought”: bản thân hiểu mới là việc quan trọng, tự suy nghĩ, tự viết ra được mới là việc quan trọng, copy lại lời người khác không có giá trị phát triển cá nhân! Chúng ta đang sống trong một thời đại suy đồi, sự vô minh của con người ngày càng lớn! Nhân danh cái tào lao gọi là trí tuệ nhân tạo, hoang tưởng có thể hiểu và kiểm soát được nội dung của con người, đó chỉ là nguỵ biện để che dấu lý do thực là tối ưu hoá “lợi nhuận”. Việc đơn giản, có thể làm được ngay, mà cứ mãi không chịu làm, đó là hoàn thiện các cơ cấu kỹ thuật, nền tảng pháp lý, làm sao để bảo đảm được 2 yếu tố: first & original, hay nói cách khác là tính… “chính danh”!

pháp diệt tận kinh

Pháp diệt tận kinh – 法灭尽经, hay còn gọi là “Phật thuyết Pháp diệt tận kinh”, là một kinh văn lưu hành rất sớm, phổ biến trong cả 2 phái Nam, Bắc tông, được dịch sang Hán-ngữ từ nguyên bản tiếng Sanskrit và trở thành thành văn bản chính thức trong bộ Đại-tạng-kinh – Tripiṭaka. Trong kinh này, đức Phật đưa ra các lời tiên đoán về thời kỳ suy tàn rồi diệt vong của Phật-giáo sau khi Ngài nhập Niết-bàn! Dưới đây trích lại một vài đoạn trong nguyên bản, có sửa lại hành văn cho dễ hiểu hơn:

Tôi nghe như vầy: một lần, đức Phật ở thành Câu-thi-na. Như-Lai sẽ nhập Niết-bàn trong 3 tháng nữa, nên các tì-kheo cùng nhiều giáo chúng kéo đến, cung kính đảnh lễ. Thế-tôn tĩnh lặng, không nói một lời và ánh hào quang cũng không xuất hiện. Ngài A-nan cung kính đảnh lễ và hỏi: bạch Thế-tôn, từ trước đến nay khi Thế-tôn thuyết pháp, ánh sáng uy nghiêm đều xuất hiện, nhưng hôm nay không thấy nữa, chắc hẳn có nhân duyên gì, chúng con mong nghe đức Thế-tôn giảng giải.

Đức Phật vẫn im lặng không trả lời, A-nan thỉnh cầu đến 3 lần, lúc đó đức Phật mới bảo: sau khi Như-Lai nhập Niết-bàn, giáo pháp sẽ bắt đầu suy yếu, ma đạo dần thịnh hành, đội lốt tăng nhân, xuyên tạc phá hoại giáo pháp. Chúng mặc y phục đẹp đẽ, uống rượu, ăn thịt, giết hại sinh vật, không có lòng từ bi, thường mang sân hận, đố kỵ lẫn nhau. Trong Tăng-đoàn, giữa tháng, cuối tháng tuy có tụng kinh, nhưng cũng chỉ là hình thức. Chẳng bao lâu, việc tụng tập kinh điển cũng sẽ chấm dứt.

Khi chính pháp sắp mất, phụ nữ sẽ trở nên tinh tấn và thường làm việc công đức. Đàn ông sẽ trở nên lười biếng, không còn ai coi trọng giáo pháp nữa. Khi chính pháp sắp tàn, chư-thiên khóc lóc, sông ngòi khô cạn và các loại ngũ cốc không chín, kéo theo đó là nạn đói. Bệnh dịch thường xuyên xảy ra, cướp đi vô số mạng người. Dân chúng cực khổ, quan chức mưu tính lợi riêng, không thuận theo đạo lý. Người ác nhiều như cát biển, người thiện rất ít, hầu như chỉ có được một vài người.

Khi kiếp sắp hết, vòng quay của mặt trời và mặt trăng trở nên ngắn hơn và mạng sống của con người giảm lại. Bốn mươi tuổi đầu đã bạc trắng. Đàn ông dâm dục, cạn kiệt tinh lực nên thường chết trẻ, thường là trước 60. Mạng sống của nam giới giảm, mà mạng sống cuả nữ giới tăng đến 70, 80, 90 hoặc hơn. Nước lớn bất ngờ dâng cao, chúng sinh các loại, chìm đắm nơi biển cả, làm mồi cho tôm cá, nhưng con người vẫn không mảy may quan tâm! Người các chủng tộc lai tạp lẫn nhau.

Tuy nhiên trong 52 năm, các bộ kinh như Thủ-lăng-nghiêm, kinh Bát-chu Tam-muội, dần dần bị sửa đổi, mười hai bộ kinh sẽ dần bị huỹ diệt hoàn toàn và không bao giờ xuất hiện trở lại nữa. Văn tự kinh điển sau đó hoàn toàn biến mất, không còn được biết đến, giới y của sa-môn sẽ biến thành màu trắng. Khi giáo pháp của ta sắp mất, cũng giống như ngọn đèn dầu tỏa sáng lên trong chốc lát trước khi tàn lụi, chính-pháp cũng bừng sáng rồi suy tàn. Từ đó về sau khó nói chắc được điều gì.

Thời kỳ Mạt-Pháp này sẽ kéo dài suốt hàng chục triệu năm, cho đến khi Di-lặc, vị Phật tương lai, sẽ thị hiện ở thế gian để thành vị Phật tiếp theo. Các nơi đều được an vui, khí độc tiêu tan, mưa gió thuận hoà, các loại ngũ cốc tươi tốt, cây cối sum suê cao lớn, và con người sẽ cao đến tám trượng, tuổi thọ lên đến đến 8 vạn 4 ngàn năm, chúng sanh độ được Chính-pháp nhiều khó có thể đếm hết! Này A-nan, kinh này gọi là Pháp Diệt Tận, hãy truyền bá rộng rãi cho mọi người được biết!

法滅盡經

parable of the poisoned arrow

Malunkyaputta, một đệ tử của đức Phật, cảm thấy bất mãn vì Như Lai luôn từ chối trả lời 14 câu hỏi siêu hình (kiểu như: vũ trụ có vĩnh hằng hay không, có vô tận hay không .v.v.) Một ngày nọ, anh ta đến gặp đức Phật và tuyên bố: nếu những câu hỏi đó không được trả lời thì anh ta sẽ không tin theo đức Phật nữa! Như Lai đáp lại bằng một câu chuyện, chuyện rằng: Có người bị bắn bằng mũi tên tẩm thuốc độc, bác sĩ muốn lấy mũi tên ra ngay để cứu người, nhưng nạn nhân không chịu, cứ đòi muốn biết người bắn mũi tên là ai, xuất thân từ đâu, học vấn thế nào, cao thấp ra sao, tại sao lại bắn! Nếu cứ chấp vào những câu hỏi đó thì chắc chắn anh ta sẽ chết, chết mà vẫn chưa biết được câu trả lời. Ý nghĩa của câu chuyện: đời người ngắn ngủi, nên tập trung vào những việc có nghĩa, đừng phí công sức cho những câu hỏi siêu hình vô ích!

Chuyện tương tự cũng xảy ra ở các “tôn giáo” khác! Khổng Tử cũng từ chối trả lời các câu hỏi mang tính siêu hình – metaphysics, bảo rằng chuyện con người còn chưa biết, quan tâm làm gì chuyện trời đất, quỷ thần, chuyện sống còn chưa biết, quan tâm làm gì chuyện chết! Lão Tử cũng trả lời đại khái tương tự như vậy, bảo rằng “đạo” là thứ phi thường, không thể diễn giải được (đạo khả đạo, phi thường đạo…). Đó là phương Đông nhé, sang đến phương Tây, từ Aristotle, Platon cho đến Nietzsche, Kant đều cho thấy một điều tương tự, hoá ra các triết gia phương Tây, họ cũng không nhắm vào những vấn đề và câu hỏi như thế! Thay vào đó, họ thảo luận các khía cạnh về khả năng nhận thức của con người: chúng ta có thể biết được những gì!? Đọc khắp Đông, Tây, kim, cổ đều chỉ thấy những chuyện như vậy!

Nên, chỉ có mấy ku “thiểu năng trí tuệ” Việt Nam mới suốt ngày bô lô bô la “triết học” là như thế này, như thế kia, đầu óc đã trở nên “ngáo” nặng vì bị trúng tên thuốc độc! Hoặc giả, học đâu đó được vài ba câu chữ lảm nhảm, chưa từng đọc cái gì cho thấu đáo, nên nghĩ rằng lặp lại một số vấn đề “ngu ngơ” như thế là cao siêu, là hơn người! Hoặc giả, chúng nó cho rằng người khác cũng tư duy như thế, cũng có cái “não trạng” y như thế, cũng đem mấy câu hỏi của đứa trẻ lên 3: “ai làm ra mặt trăng” đi làm khó người khác! Từ trong sự mông muội như “thủa hồng hoang” đó, chúng nó cho rằng cứ là dạng “trí tuệ của đứa trẻ” là tự nhiên đã trở thành “triết gia” rồi! Nực cười, một đám “thiểu năng”, em mà gặp ai như thế là em không ngần ngại văng thẳng vào mặt 4 chữ “triết cái con c…”, thẳng thừng như thế cho chúng nó tỉnh ra!

The fallacy of high-level programming

For the last 5 years or so, I’ve stopped writing on technical subjects on this blog. But that doesn’t mean I stop writing completely, in fact, I keep on writing a lot, but keep them to myself instead of posting out. For reasons too numerous to tell, or to be short, just because I’m lazy. Software engineering is a still a relatively – young industry, hence, naivety, untruthfulnesses, deceptions, myths, lies, and dogmas are… countless. In that environment, writings could be controversial and misleading, so I choose to note down my ideas in private.

I started with Turbo-C on DOS, then move on to different dialects of the C language: Watcom C, Borland C++, C++, glibC, Obj-C… For me, the most important thing in programming is… crashes. It crashes right away to tell you that you’ve done something wrong! It crashes when you access a null pointer, it crashes when you use an API the wrong way, it crashes when you allocate an infeasible amount of memory, it crashes when you access a dangling pointer referencing to an object which has gone out of scope, just because you can’t track on the life-cycle of that object. It doesn’t even throw an exception and try going on until the situation is unmanageable. Simply put, there’s NO exception, you’re punished immediately, as soon as you’ve done something wrong!

I strongly advocate the use of ARC for memory management, in fact, I would call it the most brilliant feature of the Obj-C language for the last 25 years or so, ARC makes life much more easier. But I also advocate the use of crashes as a “graceful” way to tell that you’ve done something wrong with the deallocated blocks. It crashes right away when you allocate an unbearable amount of memory so that you would know that your algorithms and data – structures are not efficient enough, and you will need to improve, to do tuning, optimization! For me, modern languages are good and friendly, the down side is that it’s also too friendly to the developers, without punishments, how can the devs’ skills could be improved!

Thus, by the interacting between you – the coder and the computer & compiler combination, the reward – punishment model will help greatly boost the devs’ skills over time, and help producing good code. There’re huge differences between an experienced programmer who write good code, and foresee possibilities of bugs, and a novice one who only try to make it… just run. I really want to emphasize here, that the “reward – punishment” model of programming is what made a good programmer! Also by learning to handle memory problems by yourself give you opportunities to follow and understand the life cycles of objects, of memory blocks, understand the precise flows of code, understand the cost-and-benefits of each coding approaches.

ut glory

Sáng đọc tin thấy buồn quá, “UT Glory” là người “bạn vong niên” của em từ nhiều năm nay, chèo trên sông lúc nào cũng gặp, gặp thường hay nói chuyện qua bộ đàm, từ khắp SG ra đến VT! Hoá ra là nó có vai trò như thế! Đúng ra em phải sớm đặt câu hỏi nó cứ loanh quanh mãi như thế để làm gì, chả thấy chở hàng gì! Từ những ngày giãn cách, em nấu ăn bằng hai cái bếp, một bếp cồn và một bếp xăng là đã thấy bất thường, xăng để lại quá nhiều muội than, nhiều một cách kinh hoàng!

Ôi, Việt Nam, đất nước của một triệu lẻ một trò lưu manh, gian dối! Vụ làm giả xăng dầu này e là tinh vi và quy mô hơn nhiều so với vụ Trịnh Sướng! Việt Nam, đất nước của hơn 13,000 (mười ba ngàn) tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường, đủ cả chả thiếu cái gì! Một đống hỗn tạp, vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân, vừa ăn cướp vừa la làng, vừa là thánh nữ, cũng đồng thời là đĩ điếm, vừa tự tạo nghiệp, vừa tự chịu đựng! Tất cả đều là những “cái tôi” méo mó, quái dị, éo ra hình thù gì!

outcast

Người Việt xưa nay vẫn xem “dân vạn đò” là tầng lớp thấp kém, thậm chí là “outcast”, tầng lớp “ngụ cư”, ngoài lề xã hội! Thử nhìn lại dải đất dài, hẹp hình “con rắn độc” này sẽ thấy, người Việt vừa sợ biển, vừa sự núi, xuống biển thì không chịu được hiểm nguy, lên rừng thì không chịu được gian khổ, dần dần bị ép vào một cái thế dài ngoằng ra như thế! Đạo ông Trần, Long Sơn, Vũng Tàu, dù nội dung nó là gì đi nữa, vẫn cho thấy một mô hình cộng đồng xa xưa còn sót lại! Một tiến trình di dân ven biển, một hình thức “tôn giáo” đơn giản theo kiểu “đạo ông bà”, môi trường để lưu trữ kiến thức, học vấn, chữ nghĩa, môi trường để duy trì các nghề thủ công, các phong tục, tập quán tốt đẹp xưa cũ. Tất cả cho đến khi… người Mỹ đến, và uproot – nhổ gốc dân cư ra khỏi các làng xã truyền thống của họ.

Những người này bị lùa vào các khu tái định cư (ấp chiến lược) hay bị xua đuổi về thành thị! Nuôi sống bằng bơ sữa, đồ hộp, bằng nhạc rock và cần sa, khiến cho họ mơ mộng về một nền kinh tế phồn vinh huyễn hoặc! Khi người Mỹ đi rồi, bộ phận lớn bị bỏ lại với cái hoang tưởng kinh tế, xã hội của họ, trở lại với cái thực tại năng lực sản xuất vốn có như cả ngàn năm trước! Nghiêm trọng hơn, những lề thói xưa cũ giúp làng xã, cộng đồng ổn định đã bị phá huỹ đi mất! Không còn ai nhớ đến chúng là như thế nào nữa, hình thành một tầng lớp thị dân không ra thị dân, nông dân cũng chẳng phải, không dung hợp được vào đâu cả! Kinh nghiệm cho thấy rằng, chính cái thành phần ngô không ra ngô, khoai không ra khoai này (kiểu đám bolero) là thành phần ngu dốt, manh động và phá hoại nhất!

dựng hình

wikipedia.org – Pseudomathematics

Nói chuyện bên lề, cái biểu tượng compass và thước kẻ lồng vào nhau, chính là logo của Freemasonry – hội Tam Điểm, nguyên gốc là một hội kín, nhưng kiểu “haute société”, tập trung toàn thành phần tri thức, tinh hoa của xã hội! Benjamin Franklin, George Washington, Wolfgang Mozart, John Brown, James Watt, Mark Twain, Winston Churchill, Harry Truman, Franklin Roosevelt, Gerald Ford, Alexander Fleming, Paul Robeson, Douglas MacArthur, Steve Wozniak, và vô số người khác… đều là thành viên hội Tam Điểm!

Nhớ lại hồi cấp 2, bọn tôi được học ba năm chỉ một môn “dựng hình”, môn mà bây giờ người ta gọi là “classical construction”, dựng hình cổ điển, dùng thước thẳng và compass, chỉ hai thứ ấy thôi, là thành một nhánh toán học học nhiều năm không hết, đương nhiên đi sâu vào thì “hình” và “số học” liên quan chặt chẽ với nhau, học cái này bắt buộc phải học thêm cái kia! “Hình” và “số” là hai cái cơ bản của dân “chuyên tán” (toán)!

Một chút kỷ niệm về toán “dựng hình”… có ba bài toán sau đây, phát biểu cực kỳ đơn giản! Chỉ nội ba bài toán này thôi là đã đủ tạo ra biết bao nhiêu sóng gió trong suốt lịch sử loài người, suốt cả ngàn năm, cãi nhau, đập bàn đập ghế, đâm chém, đủ cả, chỉ để chứng tỏ là ta đây giải được! Mặc dù phát biểu siêu đơn giản như thế, nhưng cả 3 bài toán đều đã được chứng minh (từ thế kỷ 19) là không giải được bằng compa và thước thẳng!

1. Cho một hình tròn bất kỳ, hãy dựng hình vuông có diện tích bằng hình tròn đó.

2. Cho một góc bất kỳ, hãy chia góc đó thành 3 phần (3 góc con) bằng nhau.

3. Cho một khối lập phương bất kỳ, dựng khối lập phương có thể tích gấp đôi khối ban đầu!

Chính vì cái phát biểu đơn giản như vậy, nên gây lầm lạc với những “nhà tán học”. Thực ra hiện tượng “giả khoa học” không phải giờ mới có. Ngay từ những năm 17xx, châu Âu bùng nổ kỷ nguyên Khai-sáng và Công-nghiệp-hoá cũng là bùng nổ vô số “nhà tán học”, lúc nào cũng xưng ta đã chứng minh được điều này điều kia! Ban đầu các hội đồng chuyên môn còn xem xét, về sau, họ mệt mỏi và loại thẳng tay những công trình kiểu như Bùi Minh Trí!