truyền thông bẩn

Điều này thấy rất rõ khi khi anh Zuck-buck trong nhiều năm liền đã phải liên tục đứng ra xin lỗi vì không làm tròn tính năng quản lý nội dung của mạng xã hội! Vì phải xin lỗi quá nhiều như vậy, nên đến lúc không kiềm chế được nữa thì đã từng có lần bộc phát văng ra: tôi éo việc gì phải xin lỗi nhé, tại sao phải xin lỗi những cái không phải do tôi gây ra? Ngay từ đầu, ai hiểu biết sẽ dễ dàng nhìn thấu rõ: người làm điều sai thường thể hiện rất nhiều khuôn mặt khác nhau, không nhất quán; quản lý, lọc nội dung gì cái loại chúng mày, chỉ tìm cách tăng tương tác và tối ưu lợi nhuận mà thôi! Nhưng đồng thời cũng phải nhìn nhận rằng, việc quản lý nội dung trên mạng xã hội vượt quá xa khả năng của các nền tảng công nghệ, điều chỉ có thể làm được bằng pháp lý (chính danh) và giáo dục (dần dần nâng cao tiêu chuẩn cộng đồng). Ở Mỹ thì như thế, còn ở VN thì…

Trong chuyện ông Minh Tuệ, các thế lực nước ngoài cáo buộc nhà nước có “ác cảm tôn giáo”, tiến hành cả một chiến dịch truyền thông bẩn chống lại ông. Điều này là khá rõ ràng, nhưng nhà nước không chỉ ác cảm với mỗi ông MT đâu, còn ác cảm với nhiều thứ nữa, miệng thì nói “bỏ tư duy không quản được thì cấm”, muốn khoa học, phát triển, nhưng tâm thì… vẫn ghét và vẫn sợ! Nhưng nếu muốn nói cho tường tận thì không phải chỉ có một mình ông nhà nước đâu, tất cả các cộng đồng Việt, bất kể thành phần chính trị, bất kể xu hướng tôn giáo, bất kể quốc nội hay hải ngoại, đều cùng một giuộc, đều dùng những thủ đoạn bẩn như nhau, suốt ngày ghen ghét và đặt điều vu vạ nhau! Cái cuộc đua xuống đáy (racing to the bottom) này có căn nguyên từ trong cái “dân tộc tính cố hữu và phổ quát”, đó là do tâm ghen ghét, sợ hãi, lưu manh lặt vặt mà ra!

Một giáo sĩ phương Tây, trong một lần được chúa Trịnh tiếp đón chính thức, đã kinh ngạc kể lại trong hồi ký rằng: chúa liên tục hỏi: nghe nói chúa Nguyễn ở trong Nam đã bán thương cảng Hội An cho người Nhật Bản rồi!? Vị giáo sĩ, người mới vừa đi thuyền từ Hội An ra Bắc, đương nhiên phủ nhận điều này, nhưng vẫn bị ông Chúa liên tục “nhét chữ vào mồm”, tìm cách bịa ra và áp đặt một cái “sự thật hiển nhiên đã rồi”. Thế là ông giáo sĩ suốt cả buổi tiếp kiến, gãi đầu gãi tai, không thể hiểu được tại sao cơ sự lại như vậy! Ông ấy không hiểu là đương nhiên, vì cái giống Việt nó là như thế mà! Cũng trong lúc đó thì ở phía Nam, chúa Nguyễn cũng tiến hành một chiến dịch “truyền thông bẩn” tương tự, cáo buộc chúa Trịnh đã bàn giao ải Nam Quan cho người Trung Quốc, làm mất đất đai của tổ tiên. Cái giống Vịt ấy mà, mãi không chịu lớn, xưa giờ, lạ gì…

công nghệ quốc phòng

Thử nhìn lại 2 sự kiện: năm 1858 – 1859, liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng với 3000 quân, đội tàu 14 chiếc, soái hạm là chiếc Némésis tải trọng 2300 tấn, 50 pháo! Quân triều đình có khoảng 7 ngàn người, nhìn chung là đã phòng thủ hiệu quả, khiến cho liên quân Pháp – Tây Ban Nha chịu thiệt hại và phải rút lui. 15 năm sau, 1873, chỉ với 180 lính (!!!) do viên trung úy Francis Garnier chỉ huy cùng hai tàu pháo (tàu nhỏ, còn chưa được gọi là chiến hạm) tấn công thành Hà Nội, khoảng 7000 quân triều đình tan vỡ, tháo chạy! Có điều gì rất “không đúng” khi so sánh hai trận đánh cách nhau 15 năm này, dù cả hai trận, bên phía VN đều có cùng một người chỉ huy là Nguyễn Tri Phương! Điều gì khiến cho một bên chỉ có 180 lính lại dám tấn công một bên có đến 7 ngàn quân!?

Điều “không đúng” đó chính là… công nghệ! Năm 1858, tuy tàu Pháp to, pháo lớn, nhưng đa số vẫn là loại bắn đạn gang tròn, nạp từ phía trước, công nghệ cơ bản gần giống như thứ nhà Nguyễn sở hữu! Tại thời điểm 1873, đó đã là các loại hải pháo cỡ nòng lớn, nạp đạn đằng sau, dùng đạn trái phá (đạn có nhồi thuốc nổ)! Sau vài loạt đạn đầu tiên, với sức công phá khủng khiếp của nó thì bên phòng thủ đã kinh hoàng bỏ chạy hết cả! Đạn trái phá được người Nga dùng lần đầu tiên trong Hải chiến Sinop, 1853, nhưng phải mất một thời gian để công nghệ này trở nên phổ biến! Nửa cuối TK 19 chứng kiến sự thay đổi đến chóng mặt về công nghệ quốc phòng: tàu buồm vỏ gỗ (ship of the line), rồi tàu buồm vỏ gỗ có dùng phụ thêm động cơ hơi nước (paddle steamer, screw steamer)…

Rồi tàu buồm vỏ gỗ bọc sắt dùng động cơ hơi nước và đạn trái phá (ironclad), rồi tiến dần lên tàu vỏ sắt / thép dùng động cơ steam – turbine, không xài buồm nữa (Dreadnought), kèm theo đó là công nghệ súng đạn mới, tất cả thay đổi nhanh đến chóng mặt, một con tàu mới đóng ra chưa đến 10 năm đã thành lạc hậu. Nên nhiều khi chúng ta học lịch sử theo kiểu chỉ lặp lại một số sự kiện chứ không thật sự hiểu được các yếu tố kỹ thuật, công nghệ nền tảng bên dưới! Cũng trong thời gian đó, nhà Thanh ở Trung Quốc quả thực đã có nỗ lực cải cách, họ đã tự sản xuất được súng trường hiện đại và một vài loại pháo nhỏ, nhưng rút cuộc vẫn không thể cứu vãn được thời cuộc, vì cái sự thua sút về kỹ thuật công nghệ này quá lớn, phải mất nhiều thế hệ để vượt qua.

Winchester 1866

“Cơm vua áo chúa hưởng bấy lâu, Đến khi có giặc phải thuê Tàu…” Câu thơ của Ông Ích Khiêm đó là nói về đội quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, “đánh thuê” cho nhà Nguyễn để chống lại thực dân Pháp! Mà cái yếu tố duy nhất khiến quân Cờ đen có thể đối chọi lại với người Pháp chính là… khẩu súng trường Winchester. Được xem là khẩu súng của miền viễn Tây, thường thấy trong các phim cao bồi Mỹ, có thể nạp đến 7 viên đạn trong một ống chạy song song dưới nòng súng, loại súng mà sự xuất hiện của nó khiến người ta phải thốt lên: nó bắn từ Thứ hai cho đến Chủ nhật!!!

Là ám chỉ cái khả năng nạp 7 viên đạn của nó, vô cùng tiên tiến nếu so với các loại súng hỏa mai mất cả phút vẫn chưa nhồi xong một viên đạn, chưa nạp xong đạn thì bên kia đã bắn 7 phát rồi! Nhưng vẫn chưa rõ phiên bản Winchester mà quân Cờ đen xài là loại đạn vỏ giấy, hay đã là loại đạn vỏ đồng hiện đại! Nhà Nguyễn trả lương cho quân Cờ đen, để họ cùng phối hợp chống Pháp! Nhưng hầu như chỉ có quân Cờ đen đánh thật mà thôi, lính VN… ở phía sau hò reo trợ chiến là chính, đơn giản là không thể tham chiến khi chỉ có đao kiếm và một ít súng hỏa mai cổ lỗ sĩ được.

Sự nhanh nhạy cộng với khả năng giao thương bằng thuyền buồm rộng khắp khiến cho người TQ mua được nhiều vũ khí hiện đại! Tuy không thể có thuyền to, pháo lớn như người Pháp, nhưng so với súng trường Chassepot của Pháp thì Winchester vẫn cùng một thế hệ, vẫn “bám thắt lưng địch mà đánh”, vẫn ở thế có thể cầm cự được! Nên phải hiểu các yếu tố kỹ thuật đóng một vai trò sống còn, khi thành Ninh Bình do 1700 quân Việt giữ lại… đầu hàng một nhóm lính Pháp chỉ có… 7 người, chiếm cả đồng bằng Bắc bộ, người Pháp dùng chưa đến 300 quân!

working corner

Cuối tuần dọn dẹp góc làm việc, gom cả 2 cái màn hình về 1 cái máy Mac, 1 màn hình xoay dọc lại, dùng để đọc các file code dài rất tiện, không phải cuộn lên xuống nhiều. Con Aquarium-PC chạy Debian thì thực ra không cần đến màn hình, bàn phím gì cả, chỉ khởi động lên rồi SSH vào xài là được!

Như thế chỉ cần 1 cặp bàn phím + chuột không dây mà không phải xài đến các loại KVM switch và dây nhợ phiền phức… Và có thể dùng tính năng Continuity của Mac để điều khiển luôn con Macbook đặt ở bên cạnh! Hình chụp bằng tính năng Panorama của điện thoại nên có hơi méo!

máy đuôi tôm

Xem clip là thấy rõ, giao thông thế nào tức là con người như thế đó… nói thẳng ra là những người chưa tự nhận thức, chưa học được cách điều chỉnh, kiểm soát bản thân, vừa ngây ngô và lại vừa ngạo ngược như thủa hồng hoang vậy, nói không chịu lớn quả không sai! Đã xảy ra bao nhiêu vụ việc, chết bao nhiêu người, thiệt hại bao nhiêu rồi mà vẫn vậy, vì cái “tâm” vẫn không thay đổi được! Hồi mới vào Nam, tôi thấy kỳ quặc nhất là cái máy đuôi tôm, thường được chế lại một cách ngẫu hứng, tạm bợ từ các loại động cơ nổ đơn giản, gác lên phía sau chiếc xuồng bằng chỉ một cái chốt! Kiểu máy này có ưu điểm là… dễ chế tạo, dễ lắp đặt, giá rẻ…

Và nhất là không phải thay đổi kết cấu sẵn có của chiếc xuồng! Nhưng nhược điểm là khó kiểm soát, không an toàn, nhất là khi chạy ở tốc độ cao, hay khi gặp sóng gió, thuyền lắc lư rất dễ mất điều khiển, cái đuôi đó đánh trúng thì cắt người làm 2 mảnh chứ không đùa! Thuyền phía Nam đa số đáy bằng và nông, được chế tạo để đi chủ yếu trên kênh rạch nên khả năng chịu sóng rất kém! Đến một lúc, phải cấm máy đuôi tôm, bắt phải dùng máy outboard / inboard / sterndrive đúng chuẩn (các loại máy này hiện đã có những phiên bản giá rất bình dân), cùng với đó là bắn tốc độ, áp dụng luật giao thông đường thủy nghiêm nhặt!

Mendelssohn

Chương trình âm nhạc cuối tuần, từ nhỏ là đã thích bản Violin Concerto này của Mendelssohn, nhạc của ổng màu sắc, nhưng trực tiếp, vừa đủ “đơn giản”, vừa có tính dân ca gần gũi, lại có dáng vẻ hiện đại đáng kinh ngạc, tất cả trong tưởng tượng của một đứa trẻ muốn sau này lớn lên… đi làm cướp biển, nhưng lại bị cuộc đời đẩy đưa trở thành biên trình viên! :D :V

bạch lạp

Facebook nhắc lại ngày này năm trước, Bạch lạp truyền kỳ… Tôi còn nhớ ông nội tôi kể, thời trẻ, khoảng những năm 193x, thường theo ghe bầu đi buôn bán, từ Thuận Hóa ngược ra bắc, Thanh Hóa, Nghệ An hay xa hơn, tại đây thường có nhiều ghe thuyền từ Trung Quốc sang. Những câu chuyện được kể lại tựa hồ vô cùng sống động, một thời ghe thuyền xuôi Nam, ngược Bắc, những ghe từ Bình Định ra thường tổ chức đấu võ, những cuộc đấu giao hữu hàng đêm trên bãi biển, mà dân làng tôi luôn tham gia để cho cái quan hệ giao thương này được thêm phần xôm tụ, gắn kết!

Hàng hóa trao đổi bao gồm rất nhiều thứ: đồ đồng, đồ sắt, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ, giấy, bút mực, sách vở và… một thứ không thể thiếu là… bạch lạp! Đến thời tôi mấy chục năm sau, trong nhà vẫn còn lưu lại rất nhiều đồ đạc từ một cái thời xưa như quả đất, những loại hàng hóa theo các chuyến tàu buồm đi khắp nơi! Và chúng ta vẫn xài “bạch lạp” mãi cho đến khi có loại đèn “Huê kỳ” dùng dầu hỏa, xài suốt mấy trăm năm như thế nhưng không học được cách người TQ chế tạo ra nó! Bạch lạp truyền kỳ, câu chuyện về một “công nghệ” vô cùng quan trọng của TQ thời cổ!

công phu “đá bèo”

Trước làm việc và quen một ku người Pháp, thỉnh thoảng vẫn trao đổi với nó, bằng cái loại tiếng Pháp “école primaire – tiểu học” han gỉ vì đã lâu không xài đến của mình! Như khi bắt đầu một mối tiếp xúc thì cả hai bên đều có những thao tác rào đón, khách sáo, đãi bôi nhất định. “Mày biết không, người Pháp chúng tao có một cái rất dở, là đi đến đâu thì đều phá đến đó, chỉ có ăn hại, phá nát chứ không làm được gì, từ Việt Nam cho đến Algeria…” Đương nhiên mình hiểu đây là những câu xã giao, nhưng nghĩ lại, e cũng là một cách diễn đạt rất là lắt léo, xỏ xiên… Trở lại với việc học ngoại ngữ, cũng như 2000 năm trước tổ tiên chúng ta học chữ Hán vậy…

Đọc được vài cuốn kiểu Kinh dịch, Hoàng đế nội kinh, blabla, vội cho đó là chân lý, rồi bắt đầu “Âm dương, ngũ hành, kim mộc thủy hỏa thổ”, dùng cái loại “huyền học” đó đi lòe bịp người. Chỉ mới đọc ABC như thế chứ đâu hiểu rằng, từ hàng trăm năm trước, người TQ đã biên soạn những bộ sách như Cổ kim đồ thư tập thành, 10 ngàn quyển, 100 triệu chữ, hay Vĩnh Lạc đại điển, 11 ngàn tập, 50 triệu chữ, nhiều gấp 3, 4 lần nội dung Wikipedia hiện đại (!!!), bao quát vô số vấn đề từ thiên văn, địa lý, sinh học, kinh tế, võ bị… Học tiếng Anh như hiện tại thì cũng như 2000 năm trước học chữ Hán thôi, kiểu công phu “đá bèo” này không biết rồi sẽ đi về đâu?!

penicillin

Cứ hễ phim mà có Trương Tịnh Nghi là mình lại xem :) ! Phim có nhiều sạn, dù diễn xuất theo tôi khá là đạt! Về Penicillin: được tìm ra một cách tình cờ năm 1928 bởi Alexander Fleming, nhà vi sinh vật học người Scotland, được áp dụng chữa bệnh trên người lần đầu năm 1930, nhưng mãi đến 1943 mới sản xuất được ở quy mô lớn và có ứng dụng rộng trong chiến tranh. Cỡ năm 1943, Liên Xô cũng đã có những nghiên cứu, phát hiện về Penicillin nhưng vẫn chưa thể đạt đến quy mô ứng dụng đại trà! Penicillin thật sự là một phát minh vô cùng quan trọng đã làm thay đổi lịch sử! Giải Nobel Y – Sinh năm 1945 đã trao cho Alexander Fleming và hai tác giả khác!

Và năm trước đó, 1944, Fleming đã được phong tước hiệp sĩ – “Sir” như một sự ghi nhận về đóng góp của ông, về vai trò của Penicillin – gần như là loại kháng sinh đầu tiên đã giúp cứu vô số mạng người trong Thế chiến 2! Nên tại thời gian trong phim là năm 1930, địa điểm là Thượng Hải, Trung Hoa dân quốc… thì cơ bản người ta vẫn còn chưa biết Penicillin là cái gì! Xem phim Trung Quốc, nhiều khi ta thấy toát lên cái dáng vẻ “cấp tiến” rất đáng sợ! Thực sự thì văn hóa TQ trên một số mặt là rất “cấp tiến”, nhất là trong các vấn đề quốc kế dân sinh, nhưng dĩ nhiên lịch sử không đơn giản, ngây thơ và hàm hồ như mô tả trong phim ảnh!

bình xuyên, bình khang

Không sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn, tôi không có những ký ức đẹp đẽ như nhiều tác giả đã và đang viết, ca ngợi, đánh bóng, tô hồng, cố tình tạo ra một cái tâm trạng nào là “hoài cổ”, nào là “vang bóng một thời”… và cũng rất thường khi vẽ nên những điều không thật. “Ký ức” của tôi về vùng đất này có được là do tìm hiểu lịch sử, mà theo lịch sử thì.. mới chỉ gần đây thôi, một thời còn chưa xa lắm, vùng đất này được biết đến chủ yếu nhờ 2 cái địa danh lừng lẫy mang chữ Bình: một là Bình Xuyên và hai là Bình Khang!

Bình Xuyên là khu giang hồ, trộm cướp khét tiếng, cướp cạn, cướp sông, bảo kê bến xe, sòng bạc… và Bình Khang là khu nhà thổ, đĩ điếm, cả hai phải nói là đều đã đạt đến quy mô… đại công nghiệp với hàng mấy chục ngàn “lao động”! Ối, thế thì khác nào bảo: “trai giang hồ, gái làng chơi”, nói thế có phải là vỗ mặt phũ phàng không?! Đôi khi cứ phải nói thẳng ra như thế, để tự nhận ra mặt bằng văn hóa chung đang ở đâu, dân trí đang ở mức nào so với người khác, chứ bốc thơm, hoang tưởng mãi không ổn chút nào!

trường hận ca, 2

Bữa rảnh rỗi nhảy vô hỏi ChatGPT: bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị bắt đầu thế này, “Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc… – Hoàng đế nhà Hán say mê nữ sắc, luôn nghĩ đến giai nhân nghiêng nước nghiêng thành”, vậy cụm từ “Hán hoàng” thực ra là nói về ai!? ChatGPT trả lời : “Hán hoàng” là nói về Đường Minh hoàng, vị hoàng đế thứ 7 đời Đường. Khá là kinh ngạc vì ChatGPT thông minh như vậy, liền hỏi tiếp: nhưng “Hán hoàng” nghĩa đen tức là hoàng đế nhà Hán mà, sao lại nói về hoàng đế nhà Đường được?! ChatGPT liền giải thích loanh quanh: đây là một cách diễn đạt mang tính thi ca, ước lệ, thực chất không đề cập đến Hoàng đế nhà Hán!

Nghĩ kỹ, hóa ra ChatGPT không thông minh đến như thế, nó chỉ lặp lại những gì được nhồi nhét cho mà thôi, thực sự không có chút tìm hiểu hay suy luận nào! Một ví dụ nữa là bài “Yên ca hành” của Cao Thích, mở đầu thế này: “Hán gia yên trần tại đông bắc”, rõ ràng là nói chuyện thời nhà Đường, nhưng mở đầu cứ phải là “Hán hoàng, Hán gia”. Đơn giản là vì Bạch Cư Dị, Cao Thích là quan lại, thần tử của Đường Huyền tông, người đương thời không ai dám nói về “đương kim hoàng đế” một cách trực tiếp thẳng thừng cả, đều phải nói chệch, nói tránh đi! Đây là điều mà ChatGPT không hiểu, nhưng thực ra kiến thức của nó cũng đã hơn rất nhiều người!

trường hận ca, 1

Rất lâu về trước, đọc Trường hận ca – Bạch Cư Dị, đến đoạn: Quy lai trì uyển giai y cựu, Thái Dịch phù dung Vị Ương liễu. Phù dung như diện liễu như mi, Đối thử như hà bất lệ thùy… 歸來池苑皆依舊,太液芙蓉未央柳。芙蓉如面柳如眉,對此如何不淚垂。 để ý thấy: “cựu” và “liễu” không được hợp vận cho lắm, còn nếu đọc là “kiệu”, theo cùng một cách như rượu – riệu…

Thì lại rất đúng vần, hợp với “liễu”, từ đó có thể suy ra, ngay từ thời Đường, âm của nó đã là “kiệu”, “riệu”, còn “cựu” và “rượu” có lẽ là âm còn xưa hơn nữa. Đương nhiên, vấn đề ngữ âm không thể chỉ suy luận đơn giản như vậy, nhưng cũng có lý do để tin rằng lối đọc “kiệu, riệu….” không phải là một loại giọng địa phương của VN, mà chính là ảnh hưởng từ TQ!

đức thành thuyền tử

Nhị thập niên lai giang thượng du, Thủy thanh ngư kiến bất thôn câu. Điếu can chước tẫn trọng tài trúc, Bất kế công trình đắc tiện hưu. – Hai chục năm qua dạo sông chơi, Nước trong nên cá chẳng ham mồi. Hết cần trồng trúc làm cần mới, Đâu quản nhọc nhằn được mới thôi!

二十年来江上游,
水清鱼见不吞钩,
钓竿斫尽重栽竹,
不计工程得便休。

bát trạo ca

Facebook nhắc lại ngày này năm trước, chùm thơ “Bát trạo ca” của “Đức Thành thuyền tử” (cái tên này có nghĩa là: người chèo thuyền Đức Thành), thi nhân, thiền sư thời Đường. Đây là một chùm nhiều bài lấy chủ đề sông, nước, thuyền, trăng, câu cá (vì là nhà sư nên ông ta luôn câu bằng lưỡi câu thẳng, nôm na, thực chất chính là… đi cho cá ăn). Các làng chài ven biển miền Trung Việt Nam có lối “Hát bả trạo”, chính là từ chữ “bát trạo” mà ra! Bát trạo ca, tức là bài ca chèo thuyền, chỉ là một trong vô số nội dung của thơ Đường. Nói về các chủ đề của Đường thi…

Đầu tiên là dòng thơ cung đình, toàn những lời chúc tụng, hoa mỹ, sáo rỗng. Đối lập với nó là dòng thơ điền viên, diễn tả niềm vui, sự an lạc của cuộc sống nơi thôn dã. Một dòng nữa tạm gọi là “khuê trung oán”, mô tả nỗi ai oán, sầu não của người phụ nữ chốn khuê phòng khi trượng phu ra trận đã lâu ngày. Dòng mà tôi thích đọc nhất là Biên tái, có nội dung về chiến trận, sa mạc, đời sống nơi biên ải, kiểu như: Chiến sĩ quân tiền bán tử sinh, Mỹ nhân trướng hạ do ca vũ!Chiến sĩ nơi trận tiền nửa sống nửa chết, Mà dưới trướng, người đẹp vẫn múa hát!

Có dòng thơ hiện thực khốc liệt của Đỗ Phủ, hay lãng mạn cao vời của Lý Bạch, lại có những dòng thơ thể hiện rõ ảnh hưởng của Đạo giáo, Phật giáo như của Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên. Cứ thử đọc thử vài ngàn bài, để thấy cái thế giới tâm hồn, cái kỹ năng sử dụng ngôn từ của người ta phong phú đến cỡ nào, mà đó đã là thời của hơn một ngàn năm ba trăm trước nhé! Có tác giả đã nhận xét về Đường thi: Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến nay, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần… Không phải là lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch!

Nhiều khi nghĩ mà buồn, có những loại bên trong trống hoác, đến bản thân dốt, kém chỗ nào cũng chưa thể tự nhận thức, không thể tự luận ra được! Lại có những loại ngồi trước TV xem toàn phim Trung Quốc suốt mấy chục năm, ấy thế mà vẫn không học được điều gì! Và cũng có những loại, loay hoay hiểu được một vài câu chữ rồi… mắc cứng luôn vào đó, dùng câu chữ như một loại “bùa chú” để “lòe người” chứ không thực sự lĩnh hội được cái tinh thần, hồn cốt bên trong! Và khổ nỗi, đó chính là những loại vỗ ngực: “ta đây là nhà thơ” các kiểu!

kiểm soát vũ khí

Xem phim cổ trang TQ, một vị hoàng đế mặc thường phục vi hành… Trong ảnh có thể thấy mấy người thị vệ cầm đoản đao, dài chưa đến 5 tấc kể cả cán. Nghĩ bụng cẩm y vệ mà không sắm được trường đao cho nó đàng hoàng hay sao!? Nhưng nghĩ lại, đây là thời Tống, vũ khí được kiểm soát chặt chẽ!

Mang trường đao thì khác nào tự để lộ thân phận lính triều đình!? Thời Tống, xã hội dân sự phát triển cao, nhiều quy định kiểm soát vũ khí rõ ràng! Ví dụ quy định dân thường được xài đao dài tới bao nhiêu, quy cách thế nào!? Ấy thế mà thời hiện đại, chờ mãi cũng chưa thấy quy cách nào!

gopro13

Con GoPro13 được bỏ trong hộp chống nước, nhưng giữa biển mà thay pin là rất khó, sơ sảy một chút dính tí nước biển vào là có chuyện ngay! Nên đã cải tiến để chạy GoPro trực tiếp từ nguồn 12V có sẵn trên xuồng. Đầu tiên là cần có một cục “biến áp” từ 12V xuống 5V-3A nhỏ bằng ngón chân cái. Sau đó là cập nhật lên firmware “GoPro Lab” (có nhiều tính năng phức tạp mà firmware chính hãng không hỗ trợ). Cứ bật nguồn là con cam tự khởi động, tự quay, tắt nguồn dĩ nhiên là dừng quay (dừng đột ngột nên có thể mất vài khung hình cuối). Cáp nguồn được nối bằng connector chống thấm nước, chỉ 2 dây âm – dương cấp nguồn qua cổng USB-C!

Nhưng con GoPro13 rất là kén, nếu nguồn không đủ 2.5A là nó không chịu khởi động, mà cổng USB 2 dây âm – dương chỉ cấp nguồn cơ bản, tối đa 1A. Lò mò tìm hiểu một chút, hàn thêm 2 con điện trở 5.1K – 1% vào 2 chân CC1 và CC2 nối với dây âm (GND), đây là tín hiệu để cho cổng USB-C biết có thể lấy thêm dòng! Nếu có 2 con điện trở này sẽ cấp dòng lên đủ 3A để con cam hoạt động được mà không cần gắn pin! Như thế, thay vì phải đem theo lỉnh kỉnh rất nhiều pin và thay pin giữa chừng, thì với cục nguồn 12V – 20 Amph đã có sẵn, có thể quay hàng vài chục tiếng, chỉ cần bật công tắc (từ) là quay, tắt là dừng, rất tiện lợi và nhanh chóng! :)

thi ca

Đường thi là một đỉnh cao, cao vời vợi của thi ca cổ điển TQ, sẽ không bao giờ có lại một thời đại mà nhà nhà làm thơ, tạo ra không biết bao nhiêu cách diễn đạt, ý tưởng mới lạ, làm giàu thêm đời sống văn hóa. Sang đến thời Tống, dù văn nhân vẫn tiếp tục làm thơ theo thể Đường luật, họ tiếp tục sáng tạo ra thể loại Tống từ mới, cách diễn đạt uyển chuyển, gần với âm nhạc hơn. Sang đến thời Nguyên, với sự cai trị của đế chế Nguyên Mông, ngôn ngữ có sự thay đổi lớn, dần dần trở thành có 4 âm thay vì 6 âm như trước. Nên rất nhiều thơ làm theo lối Đường luật trở nên… sai âm luật. Dù vẫn tiếp tục làm theo thể Đường thi, Tống từ, nhưng thời Nguyên phát triển mạnh về Nguyên khúc, hình thức hý kịch mang tính âm nhạc sinh động. Sang đến thời Minh, dù vẫn thấy Đường thi, Tống từ, nhưng đời sống tinh thần sang một trang mới, văn xuôi dạng tiểu thuyết phát triển mạnh!

Nên cụ Nguyễn Du mới chuyển thể Kim Vân Kiều truyện thành thể lục bát vốn quen thuộc với người Việt, chứ văn xuôi nhiều chữ như thế, đa số không đọc nổi. Sang đến thời hiện đại, các văn nhân thi thoảng vẫn làm Đường thi, Tống từ, nhưng đó chỉ là sự “hoài cổ” bất chợt, không ai muốn tiếp tục một cái thể loại đã không còn đúng, hay về âm điệu, không có sự mới mẻ trong ý tưởng. Ngay tại TQ, thi ca hiện đại đã như một dòng sông ngừng chảy, chưa biết đi về đâu. So với Hoa ngữ, tiếng Việt vẫn giữ được một lợi thế rõ rệt là còn bảo lưu đủ 5, 6 âm! Nhưng bù lại, sự tìm tòi sáng tạo trong ý tưởng, trong cách diễn đạt thực sự không thể so bì được. Mà nói cho cùng thì, thời thế góp một phần vô cùng quan trọng trong việc việc định hình nên ngôn ngữ thi ca, chỉ có số phận bi thảm như Văn Thiên Tường mới viết lên nổi một bản “Chính khí ca” hùng tráng đến vậy!

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh, những dòng thơ mà người người, đời đời truyền tụng và ngưỡng vọng, đấy là loại thơ ca được viết ra bằng mồ hôi và máu, so với những kiểu được viết bằng… nước bọt hẳn không cùng một loại! Phải có thời thế đổi thay, lịch sử biến động, phải có cuộc sống phong phú, con người vận động thì mới có cảm hứng và chất liệu cho những loại thơ ca đích thực được. Tại Việt Nam, thơ Mới cũng giống như một buổi hoàng hôn rực rỡ, chính là báo hiệu màn đêm sắp buông xuống! Với những tia nắng cuối ngày: Anh đi đấy, anh về đâu? Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm! (Nguyễn Bính) Về đâu thì chưa biết, nhưng chắc chắn là phải có cách diễn đạt mới lạ cũng như ý tưởng khác biệt. Không thể cứ lặp lại mãi vài câu chữ nghèo nàn trong cái thể lục bát cũ rích rồi vỗ ngực “ta đây nhà thơ” được!

Mà để tạo ra sự khác biệt, cũng có người đã vò đầu, bứt tai, dày vò bản thân để tạo ra câu chữ hiểm hóc, kiểu như Giả Đảo, Lý Hạ, Mạnh Giao thời Đường, tạo ra cả một “trường phái khổ thi”, suốt ngày chỉ vặn vẹo câu chữ! Tuy cũng có người khen ngợi, nhưng toàn là loại thi ca thiếu sức sống, thực chất chính là phản ánh sự đau khổ, ốm yếu, bệnh tật của các tác giả làm ra nó! Ngay ở thời Đường, đã có nhiều dòng thơ và vô số tác giả khác đáng đọc hơn nhiều: Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến nay, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần… không phải là lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch! Giả, Mạnh so với Lý-trích-tiên như đom đóm với trăng rằm mà thôi. Mà để được như họ Lý, đầu tiên là phải cỡi ngựa, đánh kiếm, chèo thuyền… sống một cuộc đời cho nó đủ đầy ý nghĩa đã! Nôm na, ngắn gọn là cứ tập thể dục đi rồi hẵng nói chuyện thi ca, nhé! :D

từ nguyên: ấn loát

In ấn, đã in sao lại còn ấn? Thực chất “in” là âm hiện đại của “ – âm Hán Việt: ấn”, cả hai chỉ là một chữ mà thôi. Kỹ thuật in đầu tiên chính là khắc gỗ, về hình thức, không khác gì với ấn – triện, như thế có thể xác định là khi kỹ thuật in truyền vào VN thì âm của nó đã là “in” chứ không còn là “ấn” nữa. Tiếng Việt có rất nhiều trường hợp như thế, chỉ một chữ viết nhưng âm có nhiều hơn một, do du nhập vào VN tại nhiều thời điểm khác nhau!

Còn ấn loát – 印刷, loát là cái bàn chải, động từ nghĩa là lau, xoa… Dùng chữ “ấn loát” vì ngày xưa khi in mộc bản, thạch bản, họ dùng cái bàn chải/cọ lớn để xoa, vỗ lên mặt giấy cho mực ăn đều! Vậy tại sao là “ấn loát” mà không phải là “in loát”!? Hình: lấy từ cuốn “Giới tử viên họa phổ”, một công trình đồ sộ nhiều tập, xuất bản năm 1679, in mộc bản 5 màu, được xem là cẩm nang lý luận và thực hành mà tất cả họa gia (cổ điển) TQ phải học!

giải trí đến chết

Facebook nhắc lại ngày này năm trước, đọc lại những dòng chính mình viết, bỗng thấy nó giống hệt như những gì được viết trong cuốn Giải trí đến chết – Amusing Ourselves to Death – Neil Postman, dù chưa thực sự đọc cuốn sách này một cách đầy đủ bao giờ. Nói theo kiểu phương Tây thì như vậy, nói theo kiểu phương Đông thậm chí còn trực quan dễ hiểu hơn: phải tìm cách đánh vào “cái tôi”, phải làm cho nó được thỏa mãn, hài lòng.

Bằng cách cung cấp những nội dung “sốt dẻo, kích thích, thỏa mãn”, phải kích hoạt cái phản xạ “tôi hiểu biết, như tôi mới đúng”. Cách thức nô dịch con người chính là thế, phải làm cho họ hài lòng với những thứ vô thưởng vô phạt, để họ quên đi điều gì là quan trọng trong cuộc sống! Nhân tiện nói về cái clip, với việc Nga & Mỹ ngồi lại với nhau để chia miếng bánh, thì thời gian của vị trong clip chỉ còn tính bằng ngày mà thôi! :D

sở hữu yếu

Xem phim lịch sử, cổ trang Trung Quốc thấy được vài điều… Điều gì khiến cho triều Thanh trở nên mạnh mẽ, chiếm được “thiên hạ” và hoàn toàn khác biệt so với các triều đại khác của TQ? Nếu chỉ xem lướt lướt các phim thì có vẻ như triều đại phong kiến nào cũng giống nhau! Nhưng thực ra, so với thể chế chính trị cực kỳ hủ bại và tàn ác của triều Minh trước đó, thì triều Thanh “ngoại tộc” thực sự có những yếu tố mới mẻ và lấy được lòng dân! Ít nhất là ở giai đoạn đầu, yếu tố cơ bản khiến Thanh triều khác biệt chính là cái mà tôi gọi là “quyền sở hữu yếu” của nó.

Nhưng như thế nào là “quyền sở hữu yếu”!? Đầu tiên, vì gốc gác là dân tộc du mục, người Mãn không có khái niệm sở hữu đất đai, không phân phong cho ai quyền cai quản đất đai vĩnh viễn. Nên dùng chữ “phong kiến” ở đây chỉ đúng một nữa, vì tuy có “phong vị” nhưng lại không có “kiến địa”. Xã hội Mãn châu nguyên thủy được tổ chức thành các đơn vị cơ bản, một mô hình dân – quân hợp nhất gọi là “Tá lĩnh”, mỗi Tá lĩnh bao gồm khoảng 300 chiến binh cùng với gia đình, vợ con, cha mẹ của họ. Toàn Thanh triều lúc cực thịnh có tổng cộng khoảng 664 Tá lĩnh.

Một người có thể được giao cho quản lý một hoặc nhiều Tá lĩnh, tùy theo địa vị, công trạng, nhưng quyền quản lý này có thể bị thu hồi thông qua quyết định của một hội đồng, hay qua mệnh lệnh trực tiếp từ Khả Hãn. Việc thế tập (cha truyền con nối) là phổ biến, nhưng không phải là hiển nhiên, các thế hệ sau muốn duy trì quyền kiểm soát này thì phải cố gắng tạo dựng công trạng! Như xem trong các phim cổ trang thì các Kỳ nhân đều xưng hô với Kỳ chủ là “nô tài” này nọ, thực chất đó chỉ là khiêm xưng, bản thân Kỳ nhân hoàn toàn không phải là nô tài, nô tì.

Họ là những lương nhân tự do, chỉ bị ràng buộc với Chủ từ qua các quan hệ lao động. Những Kỳ nhân này làm việc cho Chủ tử theo những chế độ lương, thưởng được quy định rõ ràng! Và các Kỳ nhân cũng được luật pháp bảo vệ, Chủ tử không thể giết hại họ tùy ý được! Trong thực tế, điều này hiếm khi xảy ra, và nếu xảy ra thì Chủ tử sẽ bị truy cứu trách nhiệm nghiêm khắc! Như thế, “sở hữu” một Tá lĩnh thực chất không phải là quyền sở hữu đất đai, cũng không phải là quyền sở hữu con người (nông nô, nô lệ), mà gần như chỉ là quyền “quản lý” tài sản và lao động!

Luật pháp Thanh triều quy định phân biệt rõ ràng giữa tài sản riêng và tài sản chung. Như xem trong các phim cung đấu thì khi một phi tần được sủng ái, họ sẽ được ban cho cung điện, châu báu, tài sản, người hầu hạ này nọ. Nhìn thì có vẻ xông xênh, ra ngoài được khiêng kiệu, che lọng, tiền hô hậu ủng, nhưng tất cả những “tài sản” đó đều chỉ là… cho mượn, khi bị giáng vị, thăng vị, huyền vị… thì toàn bộ đều phải trả lại! Thế nên mới có tình huống hoàng đế, vì sủng ái một vị thê tử nào đó, mới xuất tiền túi ra cho riêng, để vị nương nương này có chỗ dựa khi về già!

Quý tộc thế tập thời Thanh, dù vẫn là cha truyền con nối, nhưng đa số là “Thế tập đệ giáng”: qua một đời thì giáng xuống một cấp, như Trấn quốc công thì giáng thành Phụ quốc công, và cứ thế tiếp tục, điều này giúp làm giảm gánh nặng kinh tế xã hội. Vì quyền thừa kế không phải là nguyên vẹn và vĩnh viễn, nên con cháu đời sau vẫn phải cố gắng nếu muốn duy trì gia tộc hưng thịnh! Những điều này dần thay đổi khi Mãn tộc chung sống và bị đồng hóa bởi người Hán, nhưng ít nhất ở giai đoạn đầu, “sở hữu yếu – không có gì là vĩnh viễn” là ưu điểm rất lớn của thể chế!