ĐNa-90603

Chuyện đã xảy ra vài năm trước, nay nhắc lại… ĐNa-90603, con tàu vỏ gỗ 300 tấn lớn nhất miền Trung, trong một phiên đi biển ở Thanh Hóa, kéo lưới thu được quá nhiều cá! Bội thu đôi khi lại là thảm họa, kéo lưới làm tàu nghiêng, gặp gió lớn, và không xả dây kéo kịp (có thông tin tời kéo lưới bị kẹt, không xả dây được), khối lượng cá + lưới + gió kéo tàu lật và chìm, 2 người chết, 14 người thoát nạn! Điểm qua vài thông số tàu: dài 26m, rộng 6m, cao 3.8m, tải trọng hơn 300 tấn, máy 1150 CV, các con số này rất có vấn đề! Giả sử như block-coefficient=0.6 thì tải trọng (lượng choáng nước) = 26x6x3.8×0.6 = 356 tấn, nhưng đây là con số lý thuyết, thực tế tàu đi biển chỉ dùng 50 ~ 60% con số này, giữ lại một biên độ an toàn! Giả sử như lượng choáng nước thực tế là 356×0.55=196 tấn, trung bình mỗi tấn tải trọng cần 4HP, thì máy tàu cần có công suất 196×4=784 HP! Thực tế, máy tàu đến 1150 HP, sau đó được nâng cấp lên đến 1300+HP! Từ công suất máy cao bất thường như vậy có thể suy ra một vài điều:

#1: có thể tàu đã được khai thác quá tải trọng an toàn, các ngư dân đã “tham” và chất lên tàu quá nhiều thứ, #2: kỹ thuật đóng tàu kém, tàu quá nặng dẫn đến cần công suất động cơ lớn. Vấn đề với tất cả tàu cá VN là kỹ thuật và vật liệu đóng tàu không đạt yêu cầu, phải gia cố nhiều khiến tàu nặng, tàu nặng sẽ tiêu thụ nhiều xăng dầu hơn + giá xăng dầu tăng + ngư trường ở xa, phải đi biển xa, dài ngày hơn, tất cả dẫn đến khai thác… chỉ toàn lỗ! Đây là thực tế cay đắng, mà lý do gốc là không làm chủ được vật liệu và kỹ thuật đóng tàu. #3: cũng có thể có thêm một nguyên nhân nữa là “máy đểu”, số công suất (HP) thể hiện ra thì to nhưng thực tế không đạt được như vậy! Không kể các tàu vỏ thép quá nặng: thép thì dùng thép đểu, máy là hàng TQ giả mạo làm máy Nhật – Mitsubishi, và thi công cẩu thả dẫn đến việc tàu cứ chạy 1, 2 chuyến là phát sinh sự cố, tai nạn, sự việc đã rất ầm ĩ một thời! Các ông ấy ăn chỉ vài tỷ, nhưng hũy hoại luôn cả một ngành sản xuất! Nên dù là tàu vỏ thép, vỏ gỗ hay composite…

Thì để khai thác hải sản sao cho có lời… cần hội đủ tất cả điều kiện, thiếu một yếu tố nào cũng không được: vật liệu đóng tàu tốt, kỹ thuật đóng tàu đạt yêu cầu, máy móc đạt chất lượng, và kỹ thuật, kinh nghiệm đi biển bảo đảm. Nhưng không, mỗi chỗ kém một tí, mỗi chỗ lưu manh, ăn gian, ăn bớt một tí, tất cả cộng lại khiến cho việc đi biển thất bại từ trong trứng nước là điều hoàn toàn có thể dự đoán trước! Cứ phải nói thẳng là “trình độ” người Việt không đánh bắt xa bờ được, nhất là trong điều kiện thủy sản cạn kiệt, giá xăng dầu tăng, và tàu đóng theo kiểu “kinh nghiệm dân gian” không bảo đảm! Về vật liệu đóng tàu, nếu dưới 25m thì tốt nhất không nên xài tàu vỏ thép! Với những tàu nhỏ, có thể thấy composite là lựa chọn tương đối đúng đắn nhất, cả về giá thành lẫn khối lượng tàu, nhưng vẫn phải trong điều kiện làm chủ được vật liệu và kỹ thuật! Đóng được tàu là một chuyện, xài có bền không, có kinh tế hay không lại là chuyện khác! Mà ngư dân VN trong chuyện này rất… kém hiểu biết!

Các bồn nước ngọt, các thùng dầu nặng nhiều tấn cứ thản nhiên đặt la liệt ngay trên boong tàu, ảnh hưởng nghiêm trọng tới độ ổn định! Với những con tàu chuyên nghiệp, két nước, két dầu, những thứ có thể nặng đến cả chục tấn hay hơn, là phải đặt sát dưới đáy! Những chi tiết này tuy gây ra một số khó khăn kỹ thuật khi thi công cũng như khi sử dụng, nhưng lại vô cùng thiết yếu, góm phần đảm bảo an toàn khi gặp sóng to gió lớn. Cũng chưa thấy tàu cá VN nào có két nước giằng, người ngư dân họ không hiểu được cái tình huống mới nghe thì có vẻ “ngược đời” là có đôi khi, phải bơm nước vào tàu (bơm vào trong két) để tăng độ ổn định, tàu chứa nhiều nước lại… ổn định hơn tàu trống! Thêm một yếu tố nữa là việc tham lam, khai thác tải trọng tàu lên mức quá cao dẫn đến việc tàu vừa thiếu an toàn, vừa không hiệu quả về mặt chi phí nhiên liệu! Mà những chuyện đó, ngư dân họ không hiểu, cũng không ai tư vấn cho họ, còn kỹ sư VN thì ưa tán láo trên trời hơn là bắt tay vào làm việc thực tế!

con nai trước ánh đèn pha

Hiệu ứng con nai trước ánh đèn pha – viết tiếp phần trước… Thực chất hiện tượng “đứng hình” này liên quan đến phản ứng sinh học của “con nai vàng ngơ ngác”, bị chói mắt, bị bão hòa trước cường độ rất lớn của ánh đèn pha, làm cho nó nhất thời không tiếp nhận được thông tin đúng đắn, và không đưa ra được quyết định kịp thời. Con người cũng vậy, trong một xã hội hiện đại mà thông tin đã đến mức thừa mứa, và phần lớn là những thông tin mang tính chất tiêu cực, xàm xí, ngày này qua ngày khác bị tiêm nhiễm bởi những thứ độc hại, hạ cấp như thế, rút cuộc họ không còn khả năng phân biệt thị phi, đúng sai nữa. Và cái thủ thuật của đám truyền thông bẩn chính là thế: phải tạo ra sự bão hòa thông tin, loại thông tin nhảm!

Phân biệt đúng sai, thị phi chỉ là bước đầu tiên, tiếp đến là đánh vào khả năng trì định đúng sai bên trong mỗi người. Chính bản thân con người không có công phu trì định, đã mất đi khả năng hướng thiện bên trong, thì thành ra như cái chong chóng xoay trước gió mà thôi, đạo đức cá nhân và cộng đồng đã bị xói mòn đến tận các giá trị cốt lõi nhất, căn bản nhất, chuyện không hiếm gặp trong xã hội ngày nay. Và đến một lúc thì: Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ – Thiên lý chi đê, hội vu nghĩ huyệt – 千里之堤,溃于蚁穴. Chính vì không tự xác tín một điều gì nên ai đưa cái tin giả nào cũng tin, đó chính là hai mặt của một đồng xu. Và cũng chính vì bên trong không có công phu kiên trì gì, nên ai hơn tôi, khác tôi là không được!

Càng nguy hiểm hơn nữa khi họ không đủ thông minh để tự nhìn nhận bản thân mình, nhưng lại đủ thông minh để tìm ra các lý do để bao biện, tô vẽ, đánh bóng, làm màu… Chính vì mãi “thông minh nhỏ” như thế nên đẻ ra một kiểu tâm lý cộng đồng vô cùng… kỳ dị, kiểu tâm lý “Vietic” đó có lẽ không đâu khác trên thế giới có, là sản phẩm đặc hữu VN, suốt ngày đấu đá, kình chống nhau bằng những trò lưu manh lặt vặt, nếu không ngậm máu phun người thì cũng thọc gậy bánh xe, nếu không ném đá giấu tay thì cũng qua cầu rút ván… Chính vì cái thuộc tính cộng đồng nó “thâm căn cố đế” như thế, nên các thế lực lưu manh mặc sức hoành hành, diễn đi diễn lại những trò ngu xuẩn, thiểu năng từ năm này sang năm khác!

tâm bình thường…

Chuyện mà bài này đề cập tôi thấy hàng ngày mỗi khi đi ra đường, ngày nào cũng thấy, nhiều nhan nhãn đến mức nhàm chán! Không phải những người già mà thị lực và sự nhanh nhạy đã không còn tốt, mà là những người còn rất trẻ, trong độ tuổi thanh, thiếu niên… Có lần tôi thấy một thanh niên trẻ điều khiển xe máy vọt lên, băng qua ngã tư, tốc độ chỉ hơi nhanh một chút, tầm 40 kmph, bên kia có một chiếc ô-tô từ từ rẽ trái! Bằng mắt quan sát thấy tại hiện trường thì thấy rõ chiếc xe hơi nhận thức tốt tình huống, chủ động đi chậm chờ xem xe máy sẽ phản ứng thế nào! Và cũng cảm thấy rõ ràng là xe máy có dư thời gian giảm tốc, tránh va chạm. Nhưng thực tế là vì một nguyên nhân gì đó, anh ta không giảm tốc được…

Cái xe cứ thế, cứ từ từ trờ tới, đâm vào xe hơi, thời gian từ lúc cảm nhận được tình huống nguy hiểm cho đến lúc thực sự đâm va có thể khiến cho người quan sát cảm thấy nuối tiếc, vì hoàn toàn có thể có 2, 3 lựa chọn, phản ứng, xử lý tình huống khác nhau trong một khoảng thời gian “rất dài” đó. Nhưng không, không có một xử lý, phản xạ đúng đắn nào, cuối cùng hai xe cứ thế đâm vào nhau. Sự việc xảy ra ngay giữa “thanh thiên bạch nhật” chứ không phải tình huống “con nai trong bóng tối” bất khả kháng gì cả! Vì đã quan sát được quá nhiều lần như vậy rồi nên tôi dám rút ra kết luận rất quả quyết rằng: không phải do sức khỏe, chính là do “tâm”! Đang vướng vào “một tranh cãi nào đó trên mạng”, “như tôi mới là đúng”!

Đang “hóng một drama nào đó trên net”, “chúng ta là phe chính nghĩa”, “500 anh em đang kêu gọi”, v.v… Nhưng loại đã bị rút sạch linh hồn từ lâu, không còn khả năng hiểu và xử lý người thật, việc thật nữa. “Tâm” như cái “hố đen” sâu thẳm liên tục gào thét phải được thỏa mãn! Vì đã “vong bản”, không còn nhìn thấy được gì khác, loại như thế có nói chúng nó cũng không tự nhận thức được! Người ta nói “Bình thường tâm thị đạo – 平常心是道” nhưng thời nay, Vịt tộc ngày nay, số người có “tâm bình thường” không mấy đâu! Bài báo dù cũng nói lên được một vài ý nào đó, nhưng là sự copy thô thiển, là vấn đề ở đâu đâu chứ chuyện ngay trước mắt lại không thấy, thực chất đây chính là một dạng khác của “vong bản”!

bel-canto

Ta đã thấy gì trong đêm nay, cờ bay trăm ngọn cờ bay. Rừng núi loan tin đến mọi miền, gió hoà bình bay về muôn hướng. Ngày vui con nước trôi nhanh, nhịp sống bao la xoá bỏ hận thù. Gặp quê hương sau bão tố, giọt nước mắt vui lay lòng gỗ đá. Ta đã thấy gì trong đêm nay, bàn tay muôn vạn bàn tay. Những ngón tay thơm nối tật nguyền, nối cuộc tình nối lòng đổ nát. Bàn tay đi nối anh em, về suối quê hương tắm gội nhục nhằn. Mười năm đêm trong tiếng súng, ruộng lúa bãi dâu qua cơn kinh hoàng.

Trình bày rất ấn tượng, có sinh khí, đây là một kiểu “bel-canto”! Bel-canto hiểu theo nghĩa rộng là sự trình bày, luyến láy, nhấn nhả mang tính cá nhân của ca sĩ để đem lại vẻ đẹp cho ca khúc. Nhưng bel-canto một giai điệu Tây phương đâu có gì lạ, bel-canto một giai điệu ngũ cung mới đặc sắc. Mà cái gọi là bel-canto trong tiếng Việt đôi khi chỉ như nói năng hàng ngày, vì ngôn ngữ đã giàu ngữ điệu sẵn. VN có rất nhiều người nghĩ là mình “bel-canto”, thực ra chỉ là đang nhão đến mức “chảy nước”!

Shiawase no toki

Chút âm nhạc nhẹ nhàng thư giãn cuối tuần… Khi tôi 20 tuổi, rất là thích ca khúc Nhật Bản này, “Shiawase no toki – Thời gian hạnh phúc”! Lúc đó, dù chỉ mới nghe phiên bản lời Việt mang tựa đề “Chỉ còn mình anh” ( Thôi mình xóa cho nhau niềm đau cơn hận, Để thuyền lòng nhẹ sang ngang… Mối tình đầu, lấp chôn sâu khi em qua cầu làm hành trang ta tiễn nhau, Biết rằng đời sẽ quên mau…) nhưng đã biết đây rõ ràng không phải là nhạc Việt! Không thể nói đây là một cái lời dịch tốt, nhưng đẩy tempo – nhịp độ nhanh lên một chút, làm nhịp điệu trôi chảy – smooth hơn một chút…

Nó thành ra hợp trong tiếng Việt một cách kỳ lạ! Chúng ta thường hình dung về văn hóa Trung Quốc, Nhật Bản theo một cách chúng ta hay nôm na gọi là… “quân tử Tàu”, trong đó cá tính con người hiện ra, được trình bày lại, thường có vẻ lớn hơn một chút, trưởng thành hơn một chút, ra dáng vẻ “đại nhân” thấy rõ… Trong cách hình dung, mô tả này, thực chất có chút láu lỉnh, hàm ý là “không thật”! Chính là như thế, phản ánh một cái tâm thức nhược tiểu, mãi mà vẫn không chịu lớn, không định hình được tư cách, đây chính là nguồn cơn của mọi vấn nạn xã hội!

“thảm sát mậu thân – 1968”

Chủng qua đắc qua,
Chủng đậu đắc đậu.
Thiên võng khôi khôi,
Sơ nhi bất lậu.

Nhân cái gọi là “thảm sát Bucha” (Bucha massacre) được cho là đã xảy ra gần đây trong cuộc chiến Nga – Ukraine, nói về một “vụ thảm sát” lớn hơn ít nhất 10 lần: Huế – Mậu thân – 1968. Về Bucha, chính quyền Nga chỉ đưa ra một thông báo bác bỏ ngắn gọn, gọi đó là tin giả, rồi im lặng không nói gì để mặc cho các hệ thống thông tin thân Tây phương hoành hành, tạo ra một rừng “thông tin, chứng cứ” như đúng rồi luôn. Thoạt đầu tôi không hiểu tại sao lại để cho sự việc như vậy, nhưng khi liên hệ lại với “vụ thảm sát” Huế năm 1968 thì luận ra được nhiều điều tương tự, chính quyền VN cũng đã im lặng, mà im đến mấy chục năm, không đưa ra một lời giải thích thỏa đáng nào. Vì sao lại có sự im lặng đáng sợ như vậy, đến mức người VN như tôi cũng có lúc đã nhầm tưởng rằng “vụ thảm sát” này là có thật.

Đầu tiên phải nói Huế là nơi duy nhất trong toàn bộ chiến dịch Mậu thân mà quân Giải phóng đã làm chủ hoàn toàn một thành phố trong 26 ngày, đây là một đòn chí mạng khi chỉ với binh lực chỉ khoảng 8000 người đã tạo ra được một thế trận nguy hiểm với người Mỹ. Thực sự là… đã có một số “giết chóc” xảy ra, chủ yếu là khi đã làm chủ thành phố, quân Giải phóng yêu cầu một số sĩ quan, viên chức VNCH phải ra trình diện, một số người đã chống lệnh, cố thủ từ trong nhà bắn ra! Còn các đơn vị dân quân địa phương, những người có nhiều người thân trong gia đình bị Mỹ – Ngụy bắt bớ, tra trấn, tù đày, thủ tiêu… nhân cơ hội này, chỉ chờ các quan chức VNCH chống lệnh là… nổ súng tiêu diệt. Sự căm phẫn của quần chúng lúc đó, các chỉ huy tại hiện trường không thể kiểm soát hết được!

Nên nói như ông Lê Tư Minh, bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên lúc đó, chính quyền nợ những “nạn nhân” này một lời xin lỗi, đó là sự “phẫn uất, tự tác” của một số thành phần. Nhưng thực ra số những vụ “giết chóc” này không nhiều, cùng lắm thì cũng chỉ vài trường hợp mà thôi. Nhưng sau đó thì người Mỹ đánh vào Huế với hỏa lực chưa từng có của hạm đội và phi đội, một hạm đội lớn với hơn 160 tàu chiến các cỡ, với những hải pháo cỡ nòng rất lớn và cả máy bay B-52 cũng được huy động để ném bom rải thảm vào thành phố! Không có những con số thống kê chính xác nhưng ước tính khoảng 80% các ngôi nhà trong thành phố bị phá hũy hoàn toàn, từ 5~10% dân số thành phố đã chết vì pháo kích và không kích của Mỹ, về số dân thường đã thiệt mạng, ước tính đâu đó khoảng 3~6 ngàn người.

Những người chết được dân chúng và quân Giải phóng chôn cất vội vàng, tạm bợ do hoàn cảnh chiến tranh. Đến khi người Mỹ phản công, chiếm lại được thành phố thì là cả một đống hoang tàn như thế, quân GP hy sinh khoảng 2 ngàn, số người dân chết vì hỏa lực Mỹ thì nhiều gấp 2, 3 lần, thậm chí có thể hơn! Để tránh một bê bối truyền thông, để che dấu cái “collateral damage” quá lớn, thì người Mỹ cho đào các hố chôn lên, rồi dựng vở kịch Việt cộng đã thảm sát người dân vô tội, là VC chứ không phải là người Mỹ nhé! Bộ máy truyền thông được huy động, vô số bài được viết, cái chiêu “nói ngược” của đám lưu manh vẫn luôn như thế, kéo thêm vào vài đám “văn nghệ sĩ, bồi bút tay sai”, viết văn làm thơ, khóc lóc thảm thiết, như thế mới tạo ra được dư luận thuyết phục được đám đông.

Noam Chomsky, trong “Tài liệu về Kinh tế và Nhân quyền” tập 1, cho rằng vụ việc đã bị mô tả một cách sai lệch, bị thổi phồng, bị tô vẽ nhằm mục đích tuyên truyền. “Đó là những thường dân bị chết do những trận bom pháo Mỹ đã san bằng thành phố Huế. Rồi sau đó khi Mỹ và quân đội Sài Gòn phản kích trả thù lại cũng giết chóc rất nhiều. Thứ nữa là lực lượng quân Giải phóng đã tử trận trong lúc chiến đấu. Tất cả đều là người Việt với nhau và Mỹ tính gộp vào hết. Tất cả những điều đó được Mỹ dựng thành một vụ thảm sát tưởng tượng!” Nhà báo Italy là Oriana Fallaci trong bút ký cho biết khoảng 1100 người đã bị giết khi quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân Mỹ tái chiếm Huế, hầu hết người bị giết là giáo viên, giảng viên, sinh viên đại học, tu sĩ, trí thức và tín đồ tôn giáo!

Phía VN đương nhiên hiểu rõ đây là thủ đoạn tâm lý chiến của người Mỹ, nhưng họ im lặng, và đã im lặng suốt mấy chục năm, vì sao như thế!? Tội ác của Mỹ – Ngụy đâu phải chỉ có Mậu Thân đâu, vô số thành phần dân chúng, cộng sản có, không cộng sản có, các tín đồ Phật giáo bị hệ thống mật vụ VNCH và CIA Mỹ bắt bớ, tra tấn, thủ tiêu, sự giết chóc khủng bố có hệ thống! Như tên Nguyễn Phúc Liên Thành, chỉ một viên thiếu tá nhỏ nhoi, chỉ huy cảnh sát Huế, đã giết không biết bao nhiêu người, thủ tiêu cả thầy dạy học của mình (Ngô Kha), giết luôn cả người bạn thân nhất đã ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu từ nhỏ, rất nhiều vụ chỉ vì thù ghét cá nhân hay các động cơ đê hèn khác! Đến cả hội đồng Nguyễn Phúc tộc phải ra thông báo phủ nhận mọi liên quan đến tên giết thầy, giết bạn này!

Mà thủ đoạn của đám mật vụ thì để lại rất ít chứng cứ để có thể điều tra kết án! Phải im lặng, chấp nhận một cái “án oan” vô cùng lớn như thế trong suốt hàng chục năm, tạo ra cái ảo tưởng là chúng nó đã thành công trong việc tạo ra màn kịch “thảm sát”! Phải có một thời gian dài để có thể đối chiếu, kiểm tra, truy tìm án tích, và quan trọng là, giống hệt như trong các phim cổ trang TQ, dựng ra các màn kịch, các tình huống để những kẻ thủ ác tự để lộ thông tin, tự bộc lộ chính bản thân! Suy cho cùng, với quá nhiều tội ác mà chúng nó đã gây ra, thì sẽ không thể ngủ yên được trong nhiều thập kỷ sau đó, chúng nó sẽ tìm cách che dấu, lấp liếm, và thực tế là, tiếp tục tạo ra nhiều vụ việc mới để che lấp các vụ án cũ! Cuộc chiến qua đi khiến chúng ta hiểu hơn về con người, về lịch sử như thế!

Cứ như thế, đi qua hết thằng thực dân này đến thằng đế quốc khác, chúng ta đều bị “dắt mũi” trong những cuộc chiến thông tin, tâm lý. Từ thời Pháp, chúng đã tạo ra cả một màn “sương mù thông tin”, gieo rắc nghi ngờ và thù hận! Đến thời Mỹ lại càng bài bản hơn, xuất bản thành vô số sách vở, tài liệu, làm thành phim ảnh, “phổ cập tin tức” đến mọi người, lặp đi lặp lại trong suốt nhiều năm, người này “tham chiếu” người kia, đổi trắng thành đen, thị phi điên đảo, tất cả đều nằm trong những bài bản đã chuẩn bị trước! Đến tận ngày nay trên wikipedia, nhất là mục tiếng Anh vẫn chủ yếu là thông tin đơm đặt một chiều từ phía Mỹ. Những thủ đoạn đó đã vô cùng hiệu quả, cơ bản đối với một dân tộc không tự nhìn rõ được bản thân, không tạo dựng được niềm tin và giá trị cộng đồng!

duck test

Mấy năm trước, có sự kiện một người làm thiết kế – designer sử dụng “AI”… đương nhiên AI hiểu trong ngữ cảnh thiết kế tức là “Adobe InDesign” chứ không phải là “Artificial Intelligence”, nhưng mấy ku “nhà báo thiểu năng” VN thì chớp được đúng một chữ AI, vội vàng tán láo thế này thế kia, đến nhiều ngày sau còn chưa hiểu ra được mình ngu chỗ nào. Những ví dụ dạng này là… hằng hà sa số, mang tiếng là con người, nhưng trí thông minh chưa bằng được máy, các hệ thống AI bây giờ có thể phân biệt ngữ cảnh khá tốt! Và đến tận bây giờ vẫn thế, tràn đìa trên mặt báo, viết câu tiếng Việt đơn giản không thông, ngoại ngữ đọc không hiểu, nhưng suốt ngày la liếm khắp nơi, chỗ nào cũng có mặt, vấn đề nào cũng hiểu, tạo ra một đám bụi mù thông tin, kích động người này người khác đánh nhau.

Có một bài kiểm tra trong giới CS (computer science) gọi là “Duck test – kiểm tra vịt”: nếu nó đi lạch bạch như vịt, bơi như vịt, và kêu quác quác như vịt, thì chắc chắn nó là vịt rồi. Hay như một chính trị gia Mỹ: tôi không biết hắn ta có phải là CS (cộng sản) không, nhưng một con chim chân có màng, bơi như vịt, kêu quác quác như vịt thì chắc là vịt rồi? Hay gần đây hơn, ngoại trưởng Larov nhận xét các nhóm Hồi giáo thân Tây phương, như một kiểu châm biếm: nhìn giống như khủng bố, nói năng như khủng phố, đánh đấm như khủng bố, vậy chắc chắn là khủng bố rồi!? Cái gọi là AI – artificial intelligence, dù vượt qua được Turing-test, nhưng đến nay vẫn không thể nào vượt qua được Duct-test và Chinese-room-test để có thể chứng minh là có tư duy thật sự, thì rồi cũng chỉ là “vịt” mà thôi!

Đến một lúc, ta sẽ thấy, cái gọi là AI, hay chí ít là các thể loại “AI hạ cấp, tào lao”, chính là phản ảnh cái “não trạng” của cái cộng đồng sử dụng nó! Thậm chí còn tệ hơn cả wikipedia, trên wiki, ít ra còn có người này người kia, phe này phe kia đánh nhau, tranh dành nhau chỉnh sửa nội dung, ít ra còn có sự đấu đá, tranh luận qua lại, thể hiện các luồng suy nghĩ đối lập nhau. Còn “AI”, ít nhất là các phiên bản “đại chúng, phổ thông” chính là một kiểu “núp lùm” và “đội lốt”, nó đưa quan điểm, ý kiến như thể được rút ra từ khoảng không vậy, mà cái khoảng không này, xui rủi thay, chính là phản ánh sự “vô tri, thiểu năng” của cái cộng đồng xài nó, ai cũng là “tác giả” mà đồng thời, cũng không có ai là “tác giả” cả, không một ai đứng ra chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của nguồn tin, của suy nghĩ!

cuộc chiến thần thánh

Chương trình âm nhạc “cuối tuần”, bài hát “Svyashchennaya voyna – Cuộc chiến thần thánh”… Ngày mai, 9 tháng 5, như thông lệ hàng năm, người Nga tổ chức kỷ niệm 80 năm kết thúc Thế chiến 2, 1945 – 2025, và lần đầu tiên có sự xuất hiện của Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia diễu binh trên Hồng trường. Như một sự “tình cờ” (phải chăng là tình cờ?) của lịch sử… Cách đây 80 năm, có một nhóm người Việt đã tham gia cuộc chiến này, tham gia bảo vệ thủ đô Moskva, phần lớn là người Nam Đàn, Nghệ An.

Ở hành tinh Nga, đây là bài ca duy nhất (không phải quốc ca) mà khán giả thường phải đứng nghiêm khi nghe, người Nga không ngần ngại gì tôn vinh lịch sử, xem nó như một kiểu nửa thần thánh, nửa tôn giáo: “Vùng lên hỡi quốc gia vĩ đại, đứng lên chiến đấu đến chết với bè lũ Phát-xít…” Chính vì có nhóm người này nên trong Tuyên ngôn độc lập mới viết được những dòng: “Một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng-minh chống Phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập…”

Và trong lúc đó, ở hành tinh Nga…

AI, 2

Hơn 25 năm trước, hồi đang còn ngồi trên ghế nhà trường, Bộ môn Trí tuệ nhân tạo, Khoa CNTT, ĐH KHTN… tôi có xài một cái chương trình tên là Eliza, dạng chương trình chat, mình gõ một câu, nó trả lời một câu, hoàn toàn command-line: “- Hi, how are you today!? – Thanks, but I don’t feel very well”, câu chuyện bắt đầu như thế, vì không muốn khởi đầu có vẻ rập khuôn nên tôi trả lời không được khỏe lắm… Nói chuyện một hồi lâu, sau nó hỏi: “- How do you feel now? – I feel better now!” Thế là cái chương trình máy tính kia nó văng ra một câu làm mình sững sờ: “You’ve felt better cause you’ve been talking with me!” – Anh đã cảm thấy tốt hơn là do nói chuyện với tôi nãy giờ đó!!! Đó là lần đầu tiên, cũng là lần cuối cùng tôi xài Eliza! Không phải là vì “sợ” cái trí thông minh của nó…

Mà vì không muốn bận tâm bởi những câu trả lời, mà tôi nghĩ là, nó có một bộ thư viện hàng chục ngàn câu có thể khiến cho bạn phải “ngạc nhiên”, oh, hóa ra máy tính “thông minh” đến vậy! Tư duy của con người, đó là phân tích độc lập, tìm tòi, liên hệ, hình dung, tưởng tượng, đến cả những loại tư duy bằng hình ảnh, âm thanh chứ không phải chỉ bằng ngôn từ, nếu chỉ lặp lại một số lượng lớn ngôn từ theo dạng “thiểu năng” thì con người không thể bằng máy, bắt so với máy khác nào bắt con cá phải leo cây! Chốt lại một điều là: AI có xu hướng lặp lại cái “não trạng” của cộng đồng, cộng đồng như thế nào thì họ sẽ có được thứ AI giống như thế, giống như thứ họ muốn mà thôi! Một cái hang trống hoác vang vọng trở lại những cái thế giới nội tâm cũng trống hoác giống y như thế!

hải chiến hoàng sa 1974

Trước đọc nhiều tài liệu bảo HQ VNCH đã chiến đấu anh dũng trong Hải chiến HS 1974, tôi cũng mém tin là thật. Nhưng, ngày càng có nhiều thông tin chi tiết để ta hiểu rõ hơn về diễn biến cuộc chiến này. Tóm tắt ngắn gọn, mỗi bên đều có 4 tàu, các tàu TQ đều nhỏ, cỡ 300~500 tấn, còn HQ VNCH có 2 tàu 2800 tấn (HQ-5, HQ-16), 1 tàu 1600 tấn (HQ-4), 1 tàu 650 tấn (HQ-10). Dù là tính về tải trọng hay tính về hỏa lực thì đều hơn gấp 4, 5 lần đối phương, tàu lớn hơn, nhanh hơn, nhiều pháo hơn, pháo lớn hơn, và riêng HQ-4 thì có radar dẫn bắn hiện đại. Các tàu TQ trong trận chiến đều chỉ là tàu săn ngầm, tàu quét mìn cỡ nhỏ, còn chưa được gọi là “chiến hạm”, pháo ít và nhỏ, không có radar dẫn bắn! TQ lúc đó chưa phải là TQ bây giờ, vẫn rất nghèo nàn và lạc hậu, còn Mỹ trang bị cho VNCH tuy không phải là hàng xịn nhất, nhưng so với các nước trong khu vực thì vẫn hơn hẳn.

Nhưng diễn biến trận đấu thì… HQ-4, HQ-5 bắn vu vơ 5, 7 phát rồi rút, đáng nói là có một phát bắn trúng ngay tàu “quân ta” là HQ-16! Một số sĩ quan VNCH về sau còn cho rằng ngoài HQ-16 bị trúng đạn của “đồng đội” thì có thể tàu HQ-10 cũng thế, đều bị 2 tàu “đồng đội” bắn thiệt hại nặng, mà pháo 127 ly sức công phá rất lớn, chỉ 1, 2 phát là đã có thể chìm tàu. Kết quả là tàu HQ-10 chìm, HQ-16 lết được về Đà Nẵng, còn HQ-4 và HQ-5 gần như không thiệt hại gì. Như thế là 2 tàu đã thực sự có đánh nhau với TQ thì… bị 2 tàu còn lại bắn, bắn rồi phao tin TQ đưa tàu tên lửa và máy bay ra HS (hoàn toàn không có việc này) để ngụy biện cho hành động bắn đồng đội, bỏ mặc và bỏ chạy! Chừng đó diễn biến là đã rõ, sau khi tham khảo ý kiến “quan thầy” Mỹ đã có ý nhắm mắt làm ngơ, thì HQ VNCH đâu dám làm trái ý, tự bắn người của mình và rút lui để cho TQ chiếm đảo!

Sự việc như thế, thứ nhất là tuân theo ý của ông chủ Mỹ, thứ nhì là “gắp cục than nóng” bỏ tay người, Bắc Việt lúc bấy giờ, dù xét về thế hay về lực, đều không ở vị trí tốt để bảo vệ được HS. Nhưng đó chỉ là một trong chuỗi những sự kiện “oanh liệt” của HQ VNCH. Năm 1956, Đài Loan điều tàu chiếm đảo Ba Bình, tt. Diệm ra lệnh rút, Đài Loan chiếm được đảo mà không cần nổ súng! Từ 1956 đến 1966, HQ VNCH để mất 6 đảo gần Phú Quốc vào tay Vương quốc Campuchia. Năm 1970, Philippines chiếm 7 đảo ở Trường Sa, VNCH không nói gì và cũng không làm gì cả! Và đến 1974 thì để mất Hoàng Sa theo cách rất “điếm lác” như thế! Và sau đó thì kéo cái chiến hạm lớp Các-tông (giấy) đi giễu binh, đòi phục quốc, tìm cách khủng bố cộng đồng! Dù là ở bất kỳ thể chế nào, nếu không loại trừ được những thành phần âm binh, âm hồn như thế thì xã hội không thể khá được!

cửu vị thần công

Khi nhỏ vẫn hay trèo lên 9 khẩu thần công này chơi, dài hơn 5m, nặng đến 11 tấn mỗi khẩu. Trên mỗi cỗ súng có khắc rõ bằng chữ Hán cách thức bắn, dịch ra như sau: phải nạp 4 lớp thuốc súng, lớp thứ nhất 30 cân thuốc súng cộng 40 cân đất, lớp thứ hai 30 cân thuốc súng cộng 105 cân đất, lớp thứ ba gồm 40 cân thuốc súng cộng 120 cân đất, lớp cuối cùng 20 cân thuốc súng… Như thế, người làm ra súng này hiểu rất rõ hạn chế của nó, thuốc súng (gunpowder, blackpowder) ngày xưa có một nhược điểm so với các loại thuốc phóng hiện đại (smokeless powder, propellant) là tốc độ cháy quá nhanh, gây ra sự đột biến áp suất có thể làm vỡ nòng! Các loại thuốc phóng hiện đại cháy chậm lúc đầu và cháy nhanh dần về sau, đường cong biểu diễn biến thiên áp suất theo thời gian tăng mềm mại, ít dốc hơn!

Đó cũng là lý do các khẩu pháo hiện đại nhỏ nhẹ hơn rất nhiều so với các phiên bản “thần công” cổ xưa. Cách thức nạp đạn chèn nhiều lớp thuốc súng xen kẽ với các lớp đất là để cho quá trình cháy diễn ra chậm lại, một cách để kiểm soát áp suất không cho súng vỡ! Thật sự “thông minh”, mới nghe thì có vẻ là như thế, nhưng thực ra… ngược đời, các loại pháo phương Tây đương thời chỉ nạp một lớp duy nhất, không ai nạp nhiều lớp như thế, tưởng tượng mất đến 5, 10 phút chưa nạp xong một phát đạn! Ở đây ta lại thấy một nét cá tính rất… Vietic, luôn tìm ra một cái chiêu thức, một mánh mẹo nào đó để “giải quyết nhanh” vấn đề, làm sao vẫn bắn được cái khẩu súng chế tạo không đạt yêu cầu đó! Đương nhiên vấn đề gốc là khẩu súng không xài được thì nó vẫn ở đó chứ không đi đâu cả!

Nên mình mạnh dạn đặt giả thuyết rằng: thời Nguyễn, dù đã đúc được pháo nhỏ 100~200 kg, nhưng chưa làm chủ được công nghệ đúc pháo nòng dài 500~600 kg (chưa nói tới những loại 1, 2 tấn). Các hiện vật pháo nòng dài trên 500 kg còn lại đến giờ đều có xuất xứ châu Âu, dù vẫn có một số súng nòng ngắn “made in VN” dạng carronade đến ~700 kg. Để đúc được các loại pháo nòng dài thì phải kiểm soát được chính xác tỷ lệ đồng và thiếc, tạo ra đúng loại hợp kim “gunmetal” đủ độ bền chịu được áp lực nổ, không phải loại “đồng” nào cũng đúc súng tốt được đâu! Phải nạp nhiều lớp thuốc súng thế này thì chỉ dùng làm súng nghi lễ thôi, không thực chiến được! Mà nói về pháo nòng dài (large calibre) thì, đến tận ngày nay, 2025, cũng đã làm chủ được công nghệ sản xuất đâu?!

jbb

Những gì được ghi chép lại trong “Junk blue book” cho thấy một môi trường hàng hải ven biển có độ “đa dạng sinh học” cao, nhiều thiết kế bản địa của VN, nhiều thiết kế thuyền là từ TQ, một số là phái sinh, phát triển từ các thiết kế TQ, có những thiết kế tàu được vay mượn từ Nhật Bản, và theo như quan sát của tôi, có cả những thiết kế vay mượn từ châu Âu mà cụ thể là Pháp, không phải là từ thời Pháp-thuộc-địa, mà là mượn từ Pháp ngay từ thời Nguyễn Ánh – Tây Sơn phân tranh! Vô cùng đa dạng và sống động là những thiết kế tàu thuyền dọc theo bờ biển VN, cứ tập-đại-thành (hay là cẩu-tạp-chủng!?) như thế, đôi lúc cho thấy có những sáng kiến kỹ thuật tương đối khéo léo! Nhưng sẽ hoàn toàn sai lầm nếu cho rằng đó là tài trí, là thông minh, phải nói rõ như vậy chứ không lại hoang tưởng!

Hình 1: ván thuyền được khoan lỗ và xỏ dây, xiết lại, sau đó được xảm bằng bột tre trộn nhựa thông, loại xảm này cứ mỗi năm là phải cạo ra làm lại một lần! Hình 2: đáy thuyền đan bằng nan tre với chỉ một ít khung gỗ, tre rẻ và dễ kiếm, nhưng độ bền cơ học không cao, cứ mỗi 5 năm là phải thay mới toàn bộ đáy tre. Hình 3: dây thừng được bện từ xơ dừa hay sợi mây, cứ 3, 4 tháng là phải thay dây mới một lần. Hình 4: buồm được dệt thô từ sợi lá cọ, cũng rất kém bền, mỗi 5, 6 tháng là phải thay mới toàn bộ buồm. Hình 5: mỏ neo làm bằng gỗ cứng, cột thêm cục đá cho nặng hơn. Hình 6: các loại thuyền VN đa số đáy bằng và nông nên độ ổn định rất kém, họ gác thêm các thanh gỗ để khi thuyền nghiêng sang một bên thì leo ra bên đối diện ngồi, như chim đu trên dây điện vậy, để cho cân tàu! :D

Kiểu “đòn cân bằng” này thực sự được dùng trong một số dạng thuyền thể dục, thể thao, nhưng tàu làm việc, tàu đi biển dài ngày mà như vậy thì không ổn chút nào, gió lớn mà sơ sảy một chút là lật ngay! Hình 7: xiếm mũi (và cả xiếm đuôi), đặt ở mũi và đuôi vì không thể đục lỗ giữa thuyền, kỹ thuật mộc chưa bảo đảm sẽ không bị rò nước, đành phải xài giải pháp… nửa vời như thế! Hình 8: đèn dầu hỏa đặt bên trong một cái chai thủy tinh để chống gió. Hình 9: lu đựng nước ngọt bằng đất, kiểu này đi biển dài ngày mà lu vỡ thì không biết làm sao? Tất cả cho thấy những giải pháp kỹ thuật rất sơ khai và tạm bợ, thiếu độ an toàn, bền bỉ, thiếu ổn định, không thể đi biển dài ngày được! Ngoài ra tác giả lưu ý: hoàn toàn không thấy có thiết bị cứu hộ, đèn tín hiệu hay bất kỳ luật lệ giao thông nào!

Đội 128

Nhiều người biết về “Đoàn 559” các con tàu không số, đi chuyến đầu tiên năm 1961, chuyên vận tải vũ khí trên biển những năm kháng chiến chống Mỹ. Thời đó, các con tàu không số có thể xem là tương đối “hiện đại”, tàu máy vỏ sắt, tải trọng có thể lên đến một vài trăm tấn, được trang bị la bàn và các phương pháp định vị thiên văn như kính lục phân (sextant). Đoàn 559 thường xuất bến từ Hải Phòng và đi khắp các vùng biển VN, phần tàu, trang bị và huấn luyện là có sự giúp đỡ nhất định từ TQ. Nhưng rất ít người biết về “Đội giao thông đường biển 128” thuộc Cục quân báo, nay là Tổng cục 2. “Đội 128” đi chuyến đầu tiên sớm hơn những 5 năm, tháng 3/1956, đội bao gồm hàng chục tàu và khoảng gần 200 người…

Những con tàu đầu tiên đóng ở Nghệ An, những chiếc sau được thuê đóng ngay tại miền Nam, do bờ biển VN rất đa dạng các kiểu dáng tàu, nên đóng tại địa phương để nhìn cho giống! Xuất bến Vĩnh Linh, Quảng Trị, thường vào Đà Nẵng, Quảng Nam rồi sau tới Quy Nhơn, Khánh Hòa, Vũng Tàu. Là tàu quân báo nên hoàn toàn chỉ mang yếu tố VN, giả dạng làm tàu đánh cá, chủ yếu là buồm (không rõ đã có trang bị máy hay chưa, lúc đó rất ít tàu cá được trang bị máy) và có giấy tờ “hợp pháp” của chính quyền SG, không làm nhiệm vụ vận tải hàng hóa mà chỉ chở người và trang thiết bị phục vụ công tác điệp báo. Hình lấy từ “Junk blue book”, hãy đọc dòng chữ viết trên lá buồm… “Tố cọng diệt cọng là yêu nước” :D

mechanical advantages

Facebook nhắc ngày này năm trước, cái máy ép dầu thời kỳ “tiền công nghiệp”… Một thời gian sau, nhờ mạng thông tin hiện đại mà xem được cũng cái máy này, nhưng là phiên bản “cổ truyền TQ”, so với phiên bản VN có nhiều khác biệt. Thay vì dùng 2 thanh niên trai tráng khỏe mạnh quai búa, là loại búa tạ nặng, thì họ treo cục sắt nặng lên một sợi dây, tìm cách lắc cục tạ này như con lắc, đến khi đủ biên độ thì đánh vào cái nêm để vận hành máy. Như thế tiết kiệm được nhiều sức lực vì không phải dùng sức người để quai búa rất nặng. Có vô số hình thức gọi là “mechanical advantages”, tạo ra lợi thế cơ học nhằm bớt đi sức lao động, giảm mệt mỏi, tăng năng suất! Từ đòn bẩy cho đến các hệ thống ròng rọc liên hoàn, rồi tiến đến các hệ truyền động phức tạp như bánh răng, dây xích, etc..

Tìm cách đạt được lợi thế cơ học là bước đầu tiên để tiến đến chế tạo ra máy móc cơ khí đơn giản. Nhưng xem các “máy móc” thủ công nghiệp VN xưa thì thấy rất thiếu các hình thức “mechanical advantages” này, thuần túy dựa vào sức người kiểu… trâu bò, nhiều cải tiến vô cùng đơn giản không làm được. Đến những chuyện nhỏ còn chưa hiểu, chưa làm được mà toàn ngồi tán láo “công nghệ trên trời” không à! Toàn các bố thiểu năng, ưa phét lác ngôn từ, từ nhỏ không chịu vận động nên mãi vẫn không thể hiểu được những nguyên tắc vật lý cơ bản, nhưng hoang tưởng siêu hạng, lại còn… “như tôi mới đúng, ai khác tôi là không được” nhé! Nếu chịu tập thể dục, vận động từ nhỏ thì sẽ hiểu cách thế giới vật lý vận hành, đồng thời cũng là cách khống chế cái “tâm” cuồng loạn vô đối!

kỵ binh trâu

Nhiều “tiến sư – giáo sĩ, sử gia – giả sư” khi nghe được về “kỵ binh” thời Tây Sơn – Nguyễn Ánh, thế là chộp ngay lấy cái từ “kỵ binh” và bắt đầu huyên thuyên ngựa VN thế này thế kia. Thực ra, theo John Barrow, chúa Nguyễn có: 24 đội kỵ binh (cưỡi trâu) – 6.000 người và 16 đội tượng binh (200 con voi) – 8.000 người! Như thế là đã rõ, ngựa VN thời đó vừa ít lại vừa yếu, chắc chỉ đủ trang bị cho một số lính thông tin, còn lại là… cỡi trâu cả! Không phải là chuyện khôi hài đâu, đến thời hiện đại, một số nước như Brazil vẫn có các đội cảnh sát cưỡi trâu, Mạnh Hoạch trong truyện Tam quốc cũng cỡi trâu, nhiều nơi khác trên thế giới thời xưa cũng thế! Đơn giản là người ta không thể dùng cái người ta không có nhiều được!

Lại nghe được thêm một từ nữa là “tàu đồng, tàu bọc đồng”, thế là bắt đầu tán láo về các loại “thiết giáp hạm” nồi đồng cối đá! Thực ra lớp đồng này chỉ mỏng từ 1~3mm, chỉ bọc từ mực nước trở xuống, có tác dụng bảo vệ gỗ, không cho các loại hà, hàu đục phá, hoàn toàn không có tính năng như “giáp” bảo vệ tàu trước các loại đạn! Lại nghe được thêm một từ “súng – hải pháo” và ngồi tưởng tượng ra các con tàu được trang bị đến 60 “súng”! Súng theo nghĩa phương Tây phải là những loại từ 1.5~2.5 tấn hoặc hơn kia, không phải mấy khẩu pháo tép nặng 100kg đâu! Có những loại vô cùng “thông minh và nhanh nhạy” như thế, toàn “huyên thuyên tán láo, xào xáo ngôn từ”, không hề hiểu thực tế vận động như thế nào!

biệt động sài gòn

Ngày càng có nhiều thông tin được giải mật, như vụ cướp máy bay trực thăng UH-1 ở Đà Lạt, trước đây chỉ xem như tin đồn, huyền thoại chưa biết có thật không thì giờ đã được chứng thực. Sự việc cướp máy bay hết sức ly kỳ này đã được “mượn” thành một tình tiết trong bộ phim “Cuộc chiến xa lạ” do người Nga làm cách đây vài năm!

Nhiều thông tin vẫn phải “đọc giữa các dòng chữ – read between the lines”, như cô bé mồ côi ở Quảng Ngãi không phải vô tình mà đi SG làm người giúp việc, đều là do tổ chức xếp cả, hay “tình cờ” đọc lá thư cũng là bài test, nếu vượt qua được bài kiểm tra này thì xin chúc mừng, bạn đã trở thành ứng viên cho các đội Biệt động Sài Gòn!

Để trở thành thành viên các tổ điệp báo, bạn cần phải thông minh, gan dạ hơn người, ngoại ngữ giỏi, thậm chí có thể được gởi đi nước ngoài học làm “quân bài dự phòng” về sau! Để trở thành thành viên các đội biệt động, phần đông đó là những đứa trẻ đã bị “traumatized” vì chứng kiến các tội ác của người Mỹ, họ chỉ một ám ảnh là phải báo thù…

hư ảo

Các câu hỏi đặt ra phần lớn là những “câu hỏi thông minh”, hỏi tức là gợi ý vấn đề, và mục đích là để kiểm tra xem người khác thông minh tới mức nào. Nhưng cũng có loại câu hỏi đặt ra chỉ để kiểm tra người khác có… bị ngu hay không? Ví dụ điển hình là cái câu: “làm sao bỏ một con voi vào trong tủ lạnh” nổi tiếng trong ngành CNTT ấy, ngày trước tôi ghét cái câu đó vô cùng, và ghét luôn bất kỳ ai hỏi câu đó! Vì nó không truyền tải bất kỳ một ý tứ hay nghĩa lý nào, chỉ là kiểm tra xem bao nhiêu thằng đủ ngu, đủ máy móc để lặp lại câu trả lời: “thì mở cửa tủ ra, bỏ con voi vào”! Nguyên là một kiểu nói đùa, đùa thô đến mức phải tự thọc lét thì mới cười được, ấy vậy mà cũng có những loại thiểu năng đem câu hỏi đó đi kiểm tra IQ.

Nhưng các “sử gia internet” VN thì có vô số dạng câu hỏi ngu như thế, một số trường hợp là… kết nối 2 sự việc chẳng có liên quan gì với nhau, bịa ra tin giả từ… không khí, ví dụ như: Trần Hữu Lượng ở TQ là con của Trần Ích Tắc nhà Trần VN chạy sang! Một số trường hợp nữa, vì mặc cảm nhược tiểu, thua kém nên đã… nói ngược, ví dụ như: Hồ Nguyên Trừng đã đem nghề đúc súng của VN truyền bá vào TQ, được xem là ông tổ nghề đúc súng ở TQ. Một dạng khác là cường điệu thực tế lên cả chục lần, kiểu như bảo nhà Tây Sơn có 9 chiến hạm được trang bị 60 súng đại bác! Các khẩu thần công còn sót lại ở VN chỉ có một số rất ít (đếm trên đầu ngón tay) là súng bắn đạn 24 pound, loại dài đến 3m và nặng khoảng 2.5 tấn.

Tất cả súng này đều đặt ở những vị trí phòng thủ cố định trên bộ. Hiện chưa có bằng chứng khảo cổ nào cho thấy VN đã đặt được súng nặng từ 1 tấn trở lên trên thuyền, vì di chuyển và điều khiển 1 tấn đó không hề đơn giản chút nào, khi dây thừng tốt còn chưa làm được, và chưa biết cách xài ròng rọc cho rành! Mà súng cỡ 1 tấn là tương đương với loại bắn đạn 9 pound, là loại súng được dùng trên… các tàu buôn châu Âu thời bấy giờ, còn súng trên tàu chiến phải từ 12 pound (khoảng 1.5 tấn) trở lên kia! Phần lớn các súng thần công tìm được ở vùng biển VN cho đến ngày nay là loại 6 pound hay nhỏ hơn, thường chỉ nặng dưới 500~600 kg. Nói cho đúng thì VN lúc bấy giờ còn chưa có Hải quân theo đúng kiểu châu Âu!

Lại càng chưa thể nói về nói những con tàu 60 súng, mỗi súng bắn đạn 24 pound, những loại như thế phải hơn 1000 tấn. Cũng có thể đó là một kiểu “léo lận ngôn từ” trong các giấy tờ, sách vở xưa, khi xem một khẩu pháo tép (swivel gun) nặng cỡ 100kg (hay một khẩu “hỏa hổ” do 2 người vác vai) như “một khẩu súng”, “lập lờ đánh lận con đen” nó với các loại “hải pháo” thật sự nặng đến nhiều tấn. Rất nhiều người chỉ đọc thông tin trên giấy chứ hoàn toàn không hiểu thực tế nó như thế nào, ví dụ như nói về các con “tàu đồng, tàu bọc đồng”, nhiều người nghĩ về nó như một loại “giáp”, “nồi đồng cối đá”, thực ra lớp bọc đồng này chỉ dày có 1~3mm và bọc từ mực nước trở xuống, có tác dụng bảo vệ gỗ chống lại các loại hà, hàu.

Lớp bọc đồng này hoàn toàn không có tác dụng như lớp giáp bảo vệ tàu trước các loại đạn, những kiểu “tiến sư – giáo sĩ, sử gia – giả sư” này đọc được đúng một từ “bọc đồng” rồi ngồi tưởng tượng ra các loại “thiết giáp hạm”. Dạng thiểu năng này nhiều vô kể, hoàn toàn không hiểu gì thực tế, chỉ “tán láo” mà thôi! Một dạng câu hỏi ngu khác là vẽ ra những điều hư ảo, xàm xí, kiểu như sau chiến tranh Nha phiến thất bại, TQ muốn dựa vào VN để học hỏi công nghệ đóng tàu. Đã đến thời hiện đại rồi, không lừa được ai với những kiểu xàm xí này đâu, cứ ôm mãi những điều hư ảo, không có năng lực thực tế thì rồi cuối cùng cũng chỉ có… “hư ảo” mà thôi! Nhưng có bộ phận rất lớn cứ suốt ngày ngồi bịa ra những chuyện như vậy!

Dùng một câu chuyện “tiếu lâm” để mô tả cách người Việt tìm hiểu quá khứ và tự nhận thức về bản thân, nó giống như một khoảng trống hoác vậy! Các nhà khảo cổ Nga, sau một thời gian đào bới, khai quật đã tìm được một cọng dây đồng, họ nghiên cứu kỹ lưỡng và đi đến kết luận: 4000 năm trước, tổ tiên người Nga đã dùng mạng cáp đồng! Người Mỹ cũng không chịu kém, sau một thời gian đào bới cũng tìm được một mẩu thủy tinh giống hình sợi cáp, họ nghiên cứu chán chê rồi đi đến kết luận: 4000 năm trước, tổ tiên người Mỹ đã dùng mạng cáp quang! Một số người Việt cũng bắt chước đào bới như vậy, nhưng đào mãi mà không thấy gì, bèn kết luận: 4000 năm trước, tổ tiên chúng ta đã xài mạng không dây! :D

120 bpm

Nhìn chung là đã đi khá đều và đẹp, nhưng mà cái nhịp chậm lê thê phát chán… người Nga thường đi với tempo – nhịp là 120 bpm – beat per minute, trông vô cùng sinh động. Người Trung Quốc thường đi với tempo khoảng 100 bmp, chậm hơn chút, cũng rất là khí thế. Mà người VN toàn đi với tempo vừa chậm lê thê, vừa không chuẩn, đâu đó trong khoảng 85 ~ 90.

Xem clip thấy các bạn TQ phải cố tình kéo nhịp chậm lại cho khớp với các khối quân khác mà thấy tội! Haiza, đều và đẹp là một chuyện, nhưng nhịp là một cái gì đó rất căn cơ, thể chất kiểu này ngó bộ phải nhiều thế hệ nữa! Hãy xem & nghe clip để hình dung nhịp 120 bpm nó như thế nào nhé. Chương trình âm nhạc cuối tuần, Bài ca người lính – Ballad of a Soldier!

huyền sử

Tại sao ghi chép thời Nguyễn Ánh – Tây Sơn lại có quá nhiều thứ xàm xí, tào lao như vậy!? Trước hết là vì người Việt không có thói quen làm tài liệu một cách chính xác, còn chính sử của nhà Nguyễn (viết bằng chữ Hán) cũng có những vấn đề của riêng nó. Những gì chúng ta biết bây giờ, đa số là biết thông qua các thư từ, ghi chép của những người Pháp, người phương Tây từng phục vụ cho chúa Nguyễn, mà những ghi chép của họ rất rất có vấn đề. Điểm qua một số người nước ngoài phục vụ trong biên chế chúa Nguyễn: Philippe Vannier: thuyền trưởng, chỉ huy tàu Phụng Phi, nhưng các tài liệu Pháp thì ghi ông ta là… Đô đốc(!!!) Jean-Marie Dayot: đại úy hậu cần, chỉ huy 2 tàu của Chúa, phụ trách vẽ bản đồ và huấn luyện.

Olivier de Puymanel: có lẽ là người quan trọng nhất trong số những người phương Tây phục vụ Chúa, giám sát thi công thành Bát Quái. Jean-Baptiste Chaigneau: thuyền trưởng tàu Long Phi, được phong tước Hầu. Laurent André Barisy: thuyền trưởng, phụ trách mua sắm vũ khí với các nước Nam Á, cũng được phong tước Hầu. Hầu hết những người này được phong chức Chưởng cơ! Nói theo ngôn từ ngày nay thì Chưởng cơ tương đương với cỡ Trung tá, nhưng theo quan chế thời đó, thường chỉ chỉ huy khoảng 500 ~ 600 quân chính quy. Nhưng đó chỉ là danh nghĩa, trên thực tế, những người Pháp này chỉ được giao 50 ~ 100 lính cho có hình thức mà thôi. Về các tước Hầu, đây là vấn đề của thời Gia Long tẩu quốc!

Để tranh thủ sự giúp đỡ của nhiều người, nhà Chúa đã phong Hầu… một cách vô tội vạ, chỉ là những tước Hầu hữu danh vô thực! Phần lớn những người phương Tây hỗ trợ chúa Nguyễn là thuộc loại mà bây giờ chúng ta gọi là những kẻ phiêu lưu, cơ hội – adventurist, như Barisy nhờ được giao phụ trách mua sắm vũ khí nên đã biển thủ, gom góp được một số tiền kha khá. Thư của Barisy kể về quân Tây Sơn như đúng rồi luôn: chúng tôi đã chiến đấu với quân Tây Sơn, họ có 9 tàu loại 60 súng, mỗi tàu 700 lính, 5 tàu loại 50 súng, mỗi tàu 600 lính, 40 tàu loại 16 súng, mỗi tàu 200 lính, etc… và chúng tôi đã chiến thắng! Trận Thị Nại, Barisy chỉ được đứng sau quan sát mà thôi! Dễ dàng nhận thấy ông ta (Barisy) chỉ phét lác!

Nếu cộng các con số của Barisy lại, thì nhà Tây Sơn sẽ có đến… 6 ~ 7 vạn Thủy quân, con số mà ngay cả Hải quân Việt Nam thời giờ cũng chưa có! Ngoài Barisy, nhiều người khác cũng thế, cái đám phiêu lưu đi tìm cơ hội làm giàu này không gì là không dám nói, dù trong số những người Pháp làm việc cho chúa Nguyễn cũng có 1, 2 người không tham lam, gian dối và được Chúa tin tưởng! Vấn đề không dừng lại ở đó, sau nữa, những người Pháp khác, các thừa sai, linh mục, các “nhà nghiên cứu”, các “sử gia” giả danh… đã tìm cách “hợp thức hóa” quá trình Pháp can thiệp vào VN, dùng vô số chiêu thức lộng giả thành chân, các “thuyền trưởng – Chưởng cơ” này đều được phong khống lên thành “Đô đốc – Tướng quân” cả!

Tất cả nằm trong một mưu đồ gieo rắc “sương mù thông tin”, nghi ngờ và thù hận, chia rẽ người Việt, và cũng là một kế hoạch “kêu gọi đầu tư” từ Pháp! Ngay trong chuyện chúa Nguyễn trả thù nhà Tây Sơn một cách vô cùng dã man tàn bạo, có nhiều chi tiết có thể được xem là bịa đặt! Các vị ấy đã “vẽ rắn thêm chân” vô số chuyện hoang đường mà ngày nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra! Rồi sau nữa, nhiều “tri thức” căn cứ vào những ghi chép đó, không biết có suy nghĩ gì không mà lặp lại như vẹt vậy, đẩy sự “vô tri” lên một tầm cao mới! Nếu nói rằng làm cho ngu dốt để dễ cai trị thì người Pháp đã vô cùng thành công! Những ghi chép của giai đoạn này cần phải được đọc với sự phân tích chi li và thận trọng tối đa!

công nghiệp hỗ trợ

Ghe thuyền cổ truyền VN, mới nhìn sơ qua thì nó hao hao, giống giống ghe thuyền TQ, nhưng đi sâu vào chi tiết thì lại khác nhau… xa chừng! Nhớ hồi năm 2017, tôi có chạy đi Quảng Yên, Quảng Ninh gặp bác nghệ nhân Lê Đức Chắn, nhìn cái cột buồm làm bằng một cây tre khá mong manh, tôi hỏi bác ấy: nếu mà gió bão to quá thì làm sao, ông ấy trả lời: thì hạ cột buồm xuống! Câu trả lời hoàn toàn đúng, người dân họ làm như vậy thật, cột buồm được gắn trên một cái đế (tabernacle), có thể nâng lên hạ xuống dễ dàng. Nhưng qua đó cho thấy cái sơ khai, tạm bợ của kỹ nghệ đóng thuyền VN xưa. Gần như không có đinh hay ốc, chỉ là khoan lỗ, xỏ dây và xiết lại! Rồi xảm chỗ nối bằng vôi bột trộn với dầu trẩu (tung oil).

Loại xảm này không bền, chưa tới 10 năm là phải cạo ra làm lại, trong khi các mối xảm thuyền TQ là bền hơn 100 năm! Không có dây thừng hay cáp gì, phần nhiều xài dây mây (rattan), vì thiếu những ngành công nghiệp hỗ trợ nên không thể có dây tốt, trong khi thuyền TQ đã xài dây Manila, loại dây “nhập khẩu” tốt nhất thời đó. Thậm chí, một số nơi còn chưa có vải buồm tốt đúng nghĩa, chỉ mới là dạng vải dệt thô từ các sợi lá cọ. Các loại ròng rọc, tời… gia công mộc rất thô sơ, lực kéo nặng do ma sát lớn! Các chi tiết này được mô tả rất kỹ trong cuốn “The junk blue book”! Từ cuốn “Hải thuyền thanh thư” đó rút ra được rất nhiều thông tin thú vị! Tất cho thấy những “công nghệ” rất thô sơ, tạm bợ, độ ổn định thấp!

Đó là chưa nói về tính an toàn và tiện dụng, kiểu như vậy mà đi biển xa, gặp giông gió lớn là hư hỏng, tai nạn bất kỳ lúc nào! Kỹ thuật thuyền VN xưa đôi khi cho thấy có những khéo léo bất ngờ, nhưng tựu trung là thông minh nhỏ, chỉ ứng biến nhất thời chứ không theo đuổi những “giải pháp căn cơ” thật sự! Nhưng biết làm sao khác được, đơn giản vì mỗi ngành “công nghiệp hỗ trợ” đó là một chuyên môn riêng, phải có những hiểu biết kỹ năng riêng thì mới làm được! Mà để người ta yên tâm xây dựng “công nghiệp hỗ trợ” thì nói cho cùng là… xã hội phải tôn trọng giá trị, phải có cơ chế bảo lưu và trao đổi giá trị. Nhưng cái văn hóa “sợ hãi – hoài nghi – khinh thị – và lạm phát” mà, không làm được điều đó!