duck test

Mấy năm trước, có sự kiện một người làm thiết kế – designer sử dụng “AI”… đương nhiên AI hiểu trong ngữ cảnh thiết kế tức là “Adobe InDesign” chứ không phải là “Artificial Intelligence”, nhưng mấy ku “nhà báo thiểu năng” VN thì chớp được đúng một chữ AI, vội vàng tán láo thế này thế kia, đến nhiều ngày sau còn chưa hiểu ra được mình ngu chỗ nào. Những ví dụ dạng này là… hằng hà sa số, mang tiếng là con người, nhưng trí thông minh chưa bằng được máy, các hệ thống AI bây giờ có thể phân biệt ngữ cảnh khá tốt! Và đến tận bây giờ vẫn thế, tràn đìa trên mặt báo, viết câu tiếng Việt đơn giản không thông, ngoại ngữ đọc không hiểu, nhưng suốt ngày la liếm khắp nơi, chỗ nào cũng có mặt, vấn đề nào cũng hiểu, tạo ra một đám bụi mù thông tin, kích động người này người khác đánh nhau.

Có một bài kiểm tra trong giới CS (computer science) gọi là “Duck test – kiểm tra vịt”: nếu nó đi lạch bạch như vịt, bơi như vịt, và kêu quác quác như vịt, thì chắc chắn nó là vịt rồi. Hay như một chính trị gia Mỹ: tôi không biết hắn ta có phải là CS (cộng sản) không, nhưng một con chim chân có màng, bơi như vịt, kêu quác quác như vịt thì chắc là vịt rồi? Hay gần đây hơn, ngoại trưởng Larov nhận xét các nhóm Hồi giáo thân Tây phương, như một kiểu châm biếm: nhìn giống như khủng bố, nói năng như khủng phố, đánh đấm như khủng bố, vậy chắc chắn là khủng bố rồi!? Cái gọi là AI – artificial intelligence, dù vượt qua được Turing-test, nhưng đến nay vẫn không thể nào vượt qua được Duct-test và Chinese-room-test để có thể chứng minh là có tư duy thật sự, thì rồi cũng chỉ là “vịt” mà thôi!

Đến một lúc, ta sẽ thấy, cái gọi là AI, hay chí ít là các thể loại “AI hạ cấp, tào lao”, chính là phản ảnh cái “não trạng” của cái cộng đồng sử dụng nó! Thậm chí còn tệ hơn cả wikipedia, trên wiki, ít ra còn có người này người kia, phe này phe kia đánh nhau, tranh dành nhau chỉnh sửa nội dung, ít ra còn có sự đấu đá, tranh luận qua lại, thể hiện các luồng suy nghĩ đối lập nhau. Còn “AI”, ít nhất là các phiên bản “đại chúng, phổ thông” chính là một kiểu “núp lùm” và “đội lốt”, nó đưa quan điểm, ý kiến như thể được rút ra từ khoảng không vậy, mà cái khoảng không này, xui rủi thay, chính là phản ánh sự “vô tri, thiểu năng” của cái cộng đồng xài nó, ai cũng là “tác giả” mà đồng thời, cũng không có ai là “tác giả” cả, không một ai đứng ra chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của nguồn tin, của suy nghĩ!

cuộc chiến thần thánh

Chương trình âm nhạc “cuối tuần”, bài hát “Svyashchennaya voyna – Cuộc chiến thần thánh”… Ngày mai, 9 tháng 5, như thông lệ hàng năm, người Nga tổ chức kỷ niệm 80 năm kết thúc Thế chiến 2, 1945 – 2025, và lần đầu tiên có sự xuất hiện của Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia diễu binh trên Hồng trường. Như một sự “tình cờ” (phải chăng là tình cờ?) của lịch sử… Cách đây 80 năm, có một nhóm người Việt đã tham gia cuộc chiến này, tham gia bảo vệ thủ đô Moskva, phần lớn là người Nam Đàn, Nghệ An.

Ở hành tinh Nga, đây là bài ca duy nhất (không phải quốc ca) mà khán giả thường phải đứng nghiêm khi nghe, người Nga không ngần ngại gì tôn vinh lịch sử, xem nó như một kiểu nửa thần thánh, nửa tôn giáo: “Vùng lên hỡi quốc gia vĩ đại, đứng lên chiến đấu đến chết với bè lũ Phát-xít…” Chính vì có nhóm người này nên trong Tuyên ngôn độc lập mới viết được những dòng: “Một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng-minh chống Phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập…”

Và trong lúc đó, ở hành tinh Nga…

AI, 2

Hơn 25 năm trước, hồi đang còn ngồi trên ghế nhà trường, Bộ môn Trí tuệ nhân tạo, Khoa CNTT, ĐH KHTN… tôi có xài một cái chương trình tên là Eliza, dạng chương trình chat, mình gõ một câu, nó trả lời một câu, hoàn toàn command-line: “- Hi, how are you today!? – Thanks, but I don’t feel very well”, câu chuyện bắt đầu như thế, vì không muốn khởi đầu có vẻ rập khuôn nên tôi trả lời không được khỏe lắm… Nói chuyện một hồi lâu, sau nó hỏi: “- How do you feel now? – I feel better now!” Thế là cái chương trình máy tính kia nó văng ra một câu làm mình sững sờ: “You’ve felt better cause you’ve been talking with me!” – Anh đã cảm thấy tốt hơn là do nói chuyện với tôi nãy giờ đó!!! Đó là lần đầu tiên, cũng là lần cuối cùng tôi xài Eliza! Không phải là vì “sợ” cái trí thông minh của nó…

Mà vì không muốn bận tâm bởi những câu trả lời, mà tôi nghĩ là, nó có một bộ thư viện hàng chục ngàn câu có thể khiến cho bạn phải “ngạc nhiên”, oh, hóa ra máy tính “thông minh” đến vậy! Tư duy của con người, đó là phân tích độc lập, tìm tòi, liên hệ, hình dung, tưởng tượng, đến cả những loại tư duy bằng hình ảnh, âm thanh chứ không phải chỉ bằng ngôn từ, nếu chỉ lặp lại một số lượng lớn ngôn từ theo dạng “thiểu năng” thì con người không thể bằng máy, bắt so với máy khác nào bắt con cá phải leo cây! Chốt lại một điều là: AI có xu hướng lặp lại cái “não trạng” của cộng đồng, cộng đồng như thế nào thì họ sẽ có được thứ AI giống như thế, giống như thứ họ muốn mà thôi! Một cái hang trống hoác vang vọng trở lại những cái thế giới nội tâm cũng trống hoác giống y như thế!

hải chiến hoàng sa 1974

Trước đọc nhiều tài liệu bảo HQ VNCH đã chiến đấu anh dũng trong Hải chiến HS 1974, tôi cũng mém tin là thật. Nhưng, ngày càng có nhiều thông tin chi tiết để ta hiểu rõ hơn về diễn biến cuộc chiến này. Tóm tắt ngắn gọn, mỗi bên đều có 4 tàu, các tàu TQ đều nhỏ, cỡ 300~500 tấn, còn HQ VNCH có 2 tàu 2800 tấn (HQ-5, HQ-16), 1 tàu 1600 tấn (HQ-4), 1 tàu 650 tấn (HQ-10). Dù là tính về tải trọng hay tính về hỏa lực thì đều hơn gấp 4, 5 lần đối phương, tàu lớn hơn, nhanh hơn, nhiều pháo hơn, pháo lớn hơn, và riêng HQ-4 thì có radar dẫn bắn hiện đại. Các tàu TQ trong trận chiến đều chỉ là tàu săn ngầm, tàu quét mìn cỡ nhỏ, còn chưa được gọi là “chiến hạm”, pháo ít và nhỏ, không có radar dẫn bắn! TQ lúc đó chưa phải là TQ bây giờ, vẫn rất nghèo nàn và lạc hậu, còn Mỹ trang bị cho VNCH tuy không phải là hàng xịn nhất, nhưng so với các nước trong khu vực thì vẫn hơn hẳn.

Nhưng diễn biến trận đấu thì… HQ-4, HQ-5 bắn vu vơ 5, 7 phát rồi rút, đáng nói là có một phát bắn trúng ngay tàu “quân ta” là HQ-16! Một số sĩ quan VNCH về sau còn cho rằng ngoài HQ-16 bị trúng đạn của “đồng đội” thì có thể tàu HQ-10 cũng thế, đều bị 2 tàu “đồng đội” bắn thiệt hại nặng, mà pháo 127 ly sức công phá rất lớn, chỉ 1, 2 phát là đã có thể chìm tàu. Kết quả là tàu HQ-10 chìm, HQ-16 lết được về Đà Nẵng, còn HQ-4 và HQ-5 gần như không thiệt hại gì. Như thế là 2 tàu đã thực sự có đánh nhau với TQ thì… bị 2 tàu còn lại bắn, bắn rồi phao tin TQ đưa tàu tên lửa và máy bay ra HS (hoàn toàn không có việc này) để ngụy biện cho hành động bắn đồng đội, bỏ mặc và bỏ chạy! Chừng đó diễn biến là đã rõ, sau khi tham khảo ý kiến “quan thầy” Mỹ đã có ý nhắm mắt làm ngơ, thì HQ VNCH đâu dám làm trái ý, tự bắn người của mình và rút lui để cho TQ chiếm đảo!

Sự việc như thế, thứ nhất là tuân theo ý của ông chủ Mỹ, thứ nhì là “gắp cục than nóng” bỏ tay người, Bắc Việt lúc bấy giờ, dù xét về thế hay về lực, đều không ở vị trí tốt để bảo vệ được HS. Nhưng đó chỉ là một trong chuỗi những sự kiện “oanh liệt” của HQ VNCH. Năm 1956, Đài Loan điều tàu chiếm đảo Ba Bình, tt. Diệm ra lệnh rút, Đài Loan chiếm được đảo mà không cần nổ súng! Từ 1956 đến 1966, HQ VNCH để mất 6 đảo gần Phú Quốc vào tay Vương quốc Campuchia. Năm 1970, Philippines chiếm 7 đảo ở Trường Sa, VNCH không nói gì và cũng không làm gì cả! Và đến 1974 thì để mất Hoàng Sa theo cách rất “điếm lác” như thế! Và sau đó thì kéo cái chiến hạm lớp Các-tông (giấy) đi giễu binh, đòi phục quốc, tìm cách khủng bố cộng đồng! Dù là ở bất kỳ thể chế nào, nếu không loại trừ được những thành phần âm binh, âm hồn như thế thì xã hội không thể khá được!

cửu vị thần công

Khi nhỏ vẫn hay trèo lên 9 khẩu thần công này chơi, dài hơn 5m, nặng đến 11 tấn mỗi khẩu. Trên mỗi cỗ súng có khắc rõ bằng chữ Hán cách thức bắn, dịch ra như sau: phải nạp 4 lớp thuốc súng, lớp thứ nhất 30 cân thuốc súng cộng 40 cân đất, lớp thứ hai 30 cân thuốc súng cộng 105 cân đất, lớp thứ ba gồm 40 cân thuốc súng cộng 120 cân đất, lớp cuối cùng 20 cân thuốc súng… Như thế, người làm ra súng này hiểu rất rõ hạn chế của nó, thuốc súng (gunpowder, blackpowder) ngày xưa có một nhược điểm so với các loại thuốc phóng hiện đại (smokeless powder, propellant) là tốc độ cháy quá nhanh, gây ra sự đột biến áp suất có thể làm vỡ nòng! Các loại thuốc phóng hiện đại cháy chậm lúc đầu và cháy nhanh dần về sau, đường cong biểu diễn biến thiên áp suất theo thời gian tăng mềm mại, ít dốc hơn!

Đó cũng là lý do các khẩu pháo hiện đại nhỏ nhẹ hơn rất nhiều so với các phiên bản “thần công” cổ xưa. Cách thức nạp đạn chèn nhiều lớp thuốc súng xen kẽ với các lớp đất là để cho quá trình cháy diễn ra chậm lại, một cách để kiểm soát áp suất không cho súng vỡ! Thật sự “thông minh”, mới nghe thì có vẻ là như thế, nhưng thực ra… ngược đời, các loại pháo phương Tây đương thời chỉ nạp một lớp duy nhất, không ai nạp nhiều lớp như thế, tưởng tượng mất đến 5, 10 phút chưa nạp xong một phát đạn! Ở đây ta lại thấy một nét cá tính rất… Vietic, luôn tìm ra một cái chiêu thức, một mánh mẹo nào đó để “giải quyết nhanh” vấn đề, làm sao vẫn bắn được cái khẩu súng chế tạo không đạt yêu cầu đó! Đương nhiên vấn đề gốc là khẩu súng không xài được thì nó vẫn ở đó chứ không đi đâu cả!

Nên mình mạnh dạn đặt giả thuyết rằng: thời Nguyễn, dù đã đúc được pháo nhỏ 100~200 kg, nhưng chưa làm chủ được công nghệ đúc pháo nòng dài 500~600 kg (chưa nói tới những loại 1, 2 tấn). Các hiện vật pháo nòng dài trên 500 kg còn lại đến giờ đều có xuất xứ châu Âu, dù vẫn có một số súng nòng ngắn “made in VN” dạng carronade đến ~700 kg. Để đúc được các loại pháo nòng dài thì phải kiểm soát được chính xác tỷ lệ đồng và thiếc, tạo ra đúng loại hợp kim “gunmetal” đủ độ bền chịu được áp lực nổ, không phải loại “đồng” nào cũng đúc súng tốt được đâu! Phải nạp nhiều lớp thuốc súng thế này thì chỉ dùng làm súng nghi lễ thôi, không thực chiến được! Mà nói về pháo nòng dài (large calibre) thì, đến tận ngày nay, 2025, cũng đã làm chủ được công nghệ sản xuất đâu?!

jbb

Những gì được ghi chép lại trong “Junk blue book” cho thấy một môi trường hàng hải ven biển có độ “đa dạng sinh học” cao, nhiều thiết kế bản địa của VN, nhiều thiết kế thuyền là từ TQ, một số là phái sinh, phát triển từ các thiết kế TQ, có những thiết kế tàu được vay mượn từ Nhật Bản, và theo như quan sát của tôi, có cả những thiết kế vay mượn từ châu Âu mà cụ thể là Pháp, không phải là từ thời Pháp-thuộc-địa, mà là mượn từ Pháp ngay từ thời Nguyễn Ánh – Tây Sơn phân tranh! Vô cùng đa dạng và sống động là những thiết kế tàu thuyền dọc theo bờ biển VN, cứ tập-đại-thành (hay là cẩu-tạp-chủng!?) như thế, đôi lúc cho thấy có những sáng kiến kỹ thuật tương đối khéo léo! Nhưng sẽ hoàn toàn sai lầm nếu cho rằng đó là tài trí, là thông minh, phải nói rõ như vậy chứ không lại hoang tưởng!

Hình 1: ván thuyền được khoan lỗ và xỏ dây, xiết lại, sau đó được xảm bằng bột tre trộn nhựa thông, loại xảm này cứ mỗi năm là phải cạo ra làm lại một lần! Hình 2: đáy thuyền đan bằng nan tre với chỉ một ít khung gỗ, tre rẻ và dễ kiếm, nhưng độ bền cơ học không cao, cứ mỗi 5 năm là phải thay mới toàn bộ đáy tre. Hình 3: dây thừng được bện từ xơ dừa hay sợi mây, cứ 3, 4 tháng là phải thay dây mới một lần. Hình 4: buồm được dệt thô từ sợi lá cọ, cũng rất kém bền, mỗi 5, 6 tháng là phải thay mới toàn bộ buồm. Hình 5: mỏ neo làm bằng gỗ cứng, cột thêm cục đá cho nặng hơn. Hình 6: các loại thuyền VN đa số đáy bằng và nông nên độ ổn định rất kém, họ gác thêm các thanh gỗ để khi thuyền nghiêng sang một bên thì leo ra bên đối diện ngồi, như chim đu trên dây điện vậy, để cho cân tàu! :D

Kiểu “đòn cân bằng” này thực sự được dùng trong một số dạng thuyền thể dục, thể thao, nhưng tàu làm việc, tàu đi biển dài ngày mà như vậy thì không ổn chút nào, gió lớn mà sơ sảy một chút là lật ngay! Hình 7: xiếm mũi (và cả xiếm đuôi), đặt ở mũi và đuôi vì không thể đục lỗ giữa thuyền, kỹ thuật mộc chưa bảo đảm sẽ không bị rò nước, đành phải xài giải pháp… nửa vời như thế! Hình 8: đèn dầu hỏa đặt bên trong một cái chai thủy tinh để chống gió. Hình 9: lu đựng nước ngọt bằng đất, kiểu này đi biển dài ngày mà lu vỡ thì không biết làm sao? Tất cả cho thấy những giải pháp kỹ thuật rất sơ khai và tạm bợ, thiếu độ an toàn, bền bỉ, thiếu ổn định, không thể đi biển dài ngày được! Ngoài ra tác giả lưu ý: hoàn toàn không thấy có thiết bị cứu hộ, đèn tín hiệu hay bất kỳ luật lệ giao thông nào!

Đội 128

Nhiều người biết về “Đoàn 559” các con tàu không số, đi chuyến đầu tiên năm 1961, chuyên vận tải vũ khí trên biển những năm kháng chiến chống Mỹ. Thời đó, các con tàu không số có thể xem là tương đối “hiện đại”, tàu máy vỏ sắt, tải trọng có thể lên đến một vài trăm tấn, được trang bị la bàn và các phương pháp định vị thiên văn như kính lục phân (sextant). Đoàn 559 thường xuất bến từ Hải Phòng và đi khắp các vùng biển VN, phần tàu, trang bị và huấn luyện là có sự giúp đỡ nhất định từ TQ. Nhưng rất ít người biết về “Đội giao thông đường biển 128” thuộc Cục quân báo, nay là Tổng cục 2. “Đội 128” đi chuyến đầu tiên sớm hơn những 5 năm, tháng 3/1956, đội bao gồm hàng chục tàu và khoảng gần 200 người…

Những con tàu đầu tiên đóng ở Nghệ An, những chiếc sau được thuê đóng ngay tại miền Nam, do bờ biển VN rất đa dạng các kiểu dáng tàu, nên đóng tại địa phương để nhìn cho giống! Xuất bến Vĩnh Linh, Quảng Trị, thường vào Đà Nẵng, Quảng Nam rồi sau tới Quy Nhơn, Khánh Hòa, Vũng Tàu. Là tàu quân báo nên hoàn toàn chỉ mang yếu tố VN, giả dạng làm tàu đánh cá, chủ yếu là buồm (không rõ đã có trang bị máy hay chưa, lúc đó rất ít tàu cá được trang bị máy) và có giấy tờ “hợp pháp” của chính quyền SG, không làm nhiệm vụ vận tải hàng hóa mà chỉ chở người và trang thiết bị phục vụ công tác điệp báo. Hình lấy từ “Junk blue book”, hãy đọc dòng chữ viết trên lá buồm… “Tố cọng diệt cọng là yêu nước” :D

mechanical advantages

Facebook nhắc ngày này năm trước, cái máy ép dầu thời kỳ “tiền công nghiệp”… Một thời gian sau, nhờ mạng thông tin hiện đại mà xem được cũng cái máy này, nhưng là phiên bản “cổ truyền TQ”, so với phiên bản VN có nhiều khác biệt. Thay vì dùng 2 thanh niên trai tráng khỏe mạnh quai búa, là loại búa tạ nặng, thì họ treo cục sắt nặng lên một sợi dây, tìm cách lắc cục tạ này như con lắc, đến khi đủ biên độ thì đánh vào cái nêm để vận hành máy. Như thế tiết kiệm được nhiều sức lực vì không phải dùng sức người để quai búa rất nặng. Có vô số hình thức gọi là “mechanical advantages”, tạo ra lợi thế cơ học nhằm bớt đi sức lao động, giảm mệt mỏi, tăng năng suất! Từ đòn bẩy cho đến các hệ thống ròng rọc liên hoàn, rồi tiến đến các hệ truyền động phức tạp như bánh răng, dây xích, etc..

Tìm cách đạt được lợi thế cơ học là bước đầu tiên để tiến đến chế tạo ra máy móc cơ khí đơn giản. Nhưng xem các “máy móc” thủ công nghiệp VN xưa thì thấy rất thiếu các hình thức “mechanical advantages” này, thuần túy dựa vào sức người kiểu… trâu bò, nhiều cải tiến vô cùng đơn giản không làm được. Đến những chuyện nhỏ còn chưa hiểu, chưa làm được mà toàn ngồi tán láo “công nghệ trên trời” không à! Toàn các bố thiểu năng, ưa phét lác ngôn từ, từ nhỏ không chịu vận động nên mãi vẫn không thể hiểu được những nguyên tắc vật lý cơ bản, nhưng hoang tưởng siêu hạng, lại còn… “như tôi mới đúng, ai khác tôi là không được” nhé! Nếu chịu tập thể dục, vận động từ nhỏ thì sẽ hiểu cách thế giới vật lý vận hành, đồng thời cũng là cách khống chế cái “tâm” cuồng loạn vô đối!

kỵ binh trâu

Nhiều “tiến sư – giáo sĩ, sử gia – giả sư” khi nghe được về “kỵ binh” thời Tây Sơn – Nguyễn Ánh, thế là chộp ngay lấy cái từ “kỵ binh” và bắt đầu huyên thuyên ngựa VN thế này thế kia. Thực ra, theo John Barrow, chúa Nguyễn có: 24 đội kỵ binh (cưỡi trâu) – 6.000 người và 16 đội tượng binh (200 con voi) – 8.000 người! Như thế là đã rõ, ngựa VN thời đó vừa ít lại vừa yếu, chắc chỉ đủ trang bị cho một số lính thông tin, còn lại là… cỡi trâu cả! Không phải là chuyện khôi hài đâu, đến thời hiện đại, một số nước như Brazil vẫn có các đội cảnh sát cưỡi trâu, Mạnh Hoạch trong truyện Tam quốc cũng cỡi trâu, nhiều nơi khác trên thế giới thời xưa cũng thế! Đơn giản là người ta không thể dùng cái người ta không có nhiều được!

Lại nghe được thêm một từ nữa là “tàu đồng, tàu bọc đồng”, thế là bắt đầu tán láo về các loại “thiết giáp hạm” nồi đồng cối đá! Thực ra lớp đồng này chỉ mỏng từ 1~3mm, chỉ bọc từ mực nước trở xuống, có tác dụng bảo vệ gỗ, không cho các loại hà, hàu đục phá, hoàn toàn không có tính năng như “giáp” bảo vệ tàu trước các loại đạn! Lại nghe được thêm một từ “súng – hải pháo” và ngồi tưởng tượng ra các con tàu được trang bị đến 60 “súng”! Súng theo nghĩa phương Tây phải là những loại từ 1.5~2.5 tấn hoặc hơn kia, không phải mấy khẩu pháo tép nặng 100kg đâu! Có những loại vô cùng “thông minh và nhanh nhạy” như thế, toàn “huyên thuyên tán láo, xào xáo ngôn từ”, không hề hiểu thực tế vận động như thế nào!

biệt động sài gòn

Ngày càng có nhiều thông tin được giải mật, như vụ cướp máy bay trực thăng UH-1 ở Đà Lạt, trước đây chỉ xem như tin đồn, huyền thoại chưa biết có thật không thì giờ đã được chứng thực. Sự việc cướp máy bay hết sức ly kỳ này đã được “mượn” thành một tình tiết trong bộ phim “Cuộc chiến xa lạ” do người Nga làm cách đây vài năm!

Nhiều thông tin vẫn phải “đọc giữa các dòng chữ – read between the lines”, như cô bé mồ côi ở Quảng Ngãi không phải vô tình mà đi SG làm người giúp việc, đều là do tổ chức xếp cả, hay “tình cờ” đọc lá thư cũng là bài test, nếu vượt qua được bài kiểm tra này thì xin chúc mừng, bạn đã trở thành ứng viên cho các đội Biệt động Sài Gòn!

Để trở thành thành viên các tổ điệp báo, bạn cần phải thông minh, gan dạ hơn người, ngoại ngữ giỏi, thậm chí có thể được gởi đi nước ngoài học làm “quân bài dự phòng” về sau! Để trở thành thành viên các đội biệt động, phần đông đó là những đứa trẻ đã bị “traumatized” vì chứng kiến các tội ác của người Mỹ, họ chỉ một ám ảnh là phải báo thù…

hư ảo

Các câu hỏi đặt ra phần lớn là những “câu hỏi thông minh”, hỏi tức là gợi ý vấn đề, và mục đích là để kiểm tra xem người khác thông minh tới mức nào. Nhưng cũng có loại câu hỏi đặt ra chỉ để kiểm tra người khác có… bị ngu hay không? Ví dụ điển hình là cái câu: “làm sao bỏ một con voi vào trong tủ lạnh” nổi tiếng trong ngành CNTT ấy, ngày trước tôi ghét cái câu đó vô cùng, và ghét luôn bất kỳ ai hỏi câu đó! Vì nó không truyền tải bất kỳ một ý tứ hay nghĩa lý nào, chỉ là kiểm tra xem bao nhiêu thằng đủ ngu, đủ máy móc để lặp lại câu trả lời: “thì mở cửa tủ ra, bỏ con voi vào”! Nguyên là một kiểu nói đùa, đùa thô đến mức phải tự thọc lét thì mới cười được, ấy vậy mà cũng có những loại thiểu năng đem câu hỏi đó đi kiểm tra IQ.

Nhưng các “sử gia internet” VN thì có vô số dạng câu hỏi ngu như thế, một số trường hợp là… kết nối 2 sự việc chẳng có liên quan gì với nhau, bịa ra tin giả từ… không khí, ví dụ như: Trần Hữu Lượng ở TQ là con của Trần Ích Tắc nhà Trần VN chạy sang! Một số trường hợp nữa, vì mặc cảm nhược tiểu, thua kém nên đã… nói ngược, ví dụ như: Hồ Nguyên Trừng đã đem nghề đúc súng của VN truyền bá vào TQ, được xem là ông tổ nghề đúc súng ở TQ. Một dạng khác là cường điệu thực tế lên cả chục lần, kiểu như bảo nhà Tây Sơn có 9 chiến hạm được trang bị 60 súng đại bác! Các khẩu thần công còn sót lại ở VN chỉ có một số rất ít (đếm trên đầu ngón tay) là súng bắn đạn 24 pound, loại dài đến 3m và nặng khoảng 2.5 tấn.

Tất cả súng này đều đặt ở những vị trí phòng thủ cố định trên bộ. Hiện chưa có bằng chứng khảo cổ nào cho thấy VN đã đặt được súng nặng từ 1 tấn trở lên trên thuyền, vì di chuyển và điều khiển 1 tấn đó không hề đơn giản chút nào, khi dây thừng tốt còn chưa làm được, và chưa biết cách xài ròng rọc cho rành! Mà súng cỡ 1 tấn là tương đương với loại bắn đạn 9 pound, là loại súng được dùng trên… các tàu buôn châu Âu thời bấy giờ, còn súng trên tàu chiến phải từ 12 pound (khoảng 1.5 tấn) trở lên kia! Phần lớn các súng thần công tìm được ở vùng biển VN cho đến ngày nay là loại 6 pound hay nhỏ hơn, thường chỉ nặng dưới 500~600 kg. Nói cho đúng thì VN lúc bấy giờ còn chưa có Hải quân theo đúng kiểu châu Âu!

Lại càng chưa thể nói về nói những con tàu 60 súng, mỗi súng bắn đạn 24 pound, những loại như thế phải hơn 1000 tấn. Cũng có thể đó là một kiểu “léo lận ngôn từ” trong các giấy tờ, sách vở xưa, khi xem một khẩu pháo tép (swivel gun) nặng cỡ 100kg (hay một khẩu “hỏa hổ” do 2 người vác vai) như “một khẩu súng”, “lập lờ đánh lận con đen” nó với các loại “hải pháo” thật sự nặng đến nhiều tấn. Rất nhiều người chỉ đọc thông tin trên giấy chứ hoàn toàn không hiểu thực tế nó như thế nào, ví dụ như nói về các con “tàu đồng, tàu bọc đồng”, nhiều người nghĩ về nó như một loại “giáp”, “nồi đồng cối đá”, thực ra lớp bọc đồng này chỉ dày có 1~3mm và bọc từ mực nước trở xuống, có tác dụng bảo vệ gỗ chống lại các loại hà, hàu.

Lớp bọc đồng này hoàn toàn không có tác dụng như lớp giáp bảo vệ tàu trước các loại đạn, những kiểu “tiến sư – giáo sĩ, sử gia – giả sư” này đọc được đúng một từ “bọc đồng” rồi ngồi tưởng tượng ra các loại “thiết giáp hạm”. Dạng thiểu năng này nhiều vô kể, hoàn toàn không hiểu gì thực tế, chỉ “tán láo” mà thôi! Một dạng câu hỏi ngu khác là vẽ ra những điều hư ảo, xàm xí, kiểu như sau chiến tranh Nha phiến thất bại, TQ muốn dựa vào VN để học hỏi công nghệ đóng tàu. Đã đến thời hiện đại rồi, không lừa được ai với những kiểu xàm xí này đâu, cứ ôm mãi những điều hư ảo, không có năng lực thực tế thì rồi cuối cùng cũng chỉ có… “hư ảo” mà thôi! Nhưng có bộ phận rất lớn cứ suốt ngày ngồi bịa ra những chuyện như vậy!

Dùng một câu chuyện “tiếu lâm” để mô tả cách người Việt tìm hiểu quá khứ và tự nhận thức về bản thân, nó giống như một khoảng trống hoác vậy! Các nhà khảo cổ Nga, sau một thời gian đào bới, khai quật đã tìm được một cọng dây đồng, họ nghiên cứu kỹ lưỡng và đi đến kết luận: 4000 năm trước, tổ tiên người Nga đã dùng mạng cáp đồng! Người Mỹ cũng không chịu kém, sau một thời gian đào bới cũng tìm được một mẩu thủy tinh giống hình sợi cáp, họ nghiên cứu chán chê rồi đi đến kết luận: 4000 năm trước, tổ tiên người Mỹ đã dùng mạng cáp quang! Một số người Việt cũng bắt chước đào bới như vậy, nhưng đào mãi mà không thấy gì, bèn kết luận: 4000 năm trước, tổ tiên chúng ta đã xài mạng không dây! :D

120 bpm

Nhìn chung là đã đi khá đều và đẹp, nhưng mà cái nhịp chậm lê thê phát chán… người Nga thường đi với tempo – nhịp là 120 bpm – beat per minute, trông vô cùng sinh động. Người Trung Quốc thường đi với tempo khoảng 100 bmp, chậm hơn chút, cũng rất là khí thế. Mà người VN toàn đi với tempo vừa chậm lê thê, vừa không chuẩn, đâu đó trong khoảng 85 ~ 90.

Xem clip thấy các bạn TQ phải cố tình kéo nhịp chậm lại cho khớp với các khối quân khác mà thấy tội! Haiza, đều và đẹp là một chuyện, nhưng nhịp là một cái gì đó rất căn cơ, thể chất kiểu này ngó bộ phải nhiều thế hệ nữa! Hãy xem & nghe clip để hình dung nhịp 120 bpm nó như thế nào nhé. Chương trình âm nhạc cuối tuần, Bài ca người lính – Ballad of a Soldier!

huyền sử

Tại sao ghi chép thời Nguyễn Ánh – Tây Sơn lại có quá nhiều thứ xàm xí, tào lao như vậy!? Trước hết là vì người Việt không có thói quen làm tài liệu một cách chính xác, còn chính sử của nhà Nguyễn (viết bằng chữ Hán) cũng có những vấn đề của riêng nó. Những gì chúng ta biết bây giờ, đa số là biết thông qua các thư từ, ghi chép của những người Pháp, người phương Tây từng phục vụ cho chúa Nguyễn, mà những ghi chép của họ rất rất có vấn đề. Điểm qua một số người nước ngoài phục vụ trong biên chế chúa Nguyễn: Philippe Vannier: thuyền trưởng, chỉ huy tàu Phụng Phi, nhưng các tài liệu Pháp thì ghi ông ta là… Đô đốc(!!!) Jean-Marie Dayot: đại úy hậu cần, chỉ huy 2 tàu của Chúa, phụ trách vẽ bản đồ và huấn luyện.

Olivier de Puymanel: có lẽ là người quan trọng nhất trong số những người phương Tây phục vụ Chúa, giám sát thi công thành Bát Quái. Jean-Baptiste Chaigneau: thuyền trưởng tàu Long Phi, được phong tước Hầu. Laurent André Barisy: thuyền trưởng, phụ trách mua sắm vũ khí với các nước Nam Á, cũng được phong tước Hầu. Hầu hết những người này được phong chức Chưởng cơ! Nói theo ngôn từ ngày nay thì Chưởng cơ tương đương với cỡ Trung tá, nhưng theo quan chế thời đó, thường chỉ chỉ huy khoảng 500 ~ 600 quân chính quy. Nhưng đó chỉ là danh nghĩa, trên thực tế, những người Pháp này chỉ được giao 50 ~ 100 lính cho có hình thức mà thôi. Về các tước Hầu, đây là vấn đề của thời Gia Long tẩu quốc!

Để tranh thủ sự giúp đỡ của nhiều người, nhà Chúa đã phong Hầu… một cách vô tội vạ, chỉ là những tước Hầu hữu danh vô thực! Phần lớn những người phương Tây hỗ trợ chúa Nguyễn là thuộc loại mà bây giờ chúng ta gọi là những kẻ phiêu lưu, cơ hội – adventurist, như Barisy nhờ được giao phụ trách mua sắm vũ khí nên đã biển thủ, gom góp được một số tiền kha khá. Thư của Barisy kể về quân Tây Sơn như đúng rồi luôn: chúng tôi đã chiến đấu với quân Tây Sơn, họ có 9 tàu loại 60 súng, mỗi tàu 700 lính, 5 tàu loại 50 súng, mỗi tàu 600 lính, 40 tàu loại 16 súng, mỗi tàu 200 lính, etc… và chúng tôi đã chiến thắng! Trận Thị Nại, Barisy chỉ được đứng sau quan sát mà thôi! Dễ dàng nhận thấy ông ta (Barisy) chỉ phét lác!

Nếu cộng các con số của Barisy lại, thì nhà Tây Sơn sẽ có đến… 6 ~ 7 vạn Thủy quân, con số mà ngay cả Hải quân Việt Nam thời giờ cũng chưa có! Ngoài Barisy, nhiều người khác cũng thế, cái đám phiêu lưu đi tìm cơ hội làm giàu này không gì là không dám nói, dù trong số những người Pháp làm việc cho chúa Nguyễn cũng có 1, 2 người không tham lam, gian dối và được Chúa tin tưởng! Vấn đề không dừng lại ở đó, sau nữa, những người Pháp khác, các thừa sai, linh mục, các “nhà nghiên cứu”, các “sử gia” giả danh… đã tìm cách “hợp thức hóa” quá trình Pháp can thiệp vào VN, dùng vô số chiêu thức lộng giả thành chân, các “thuyền trưởng – Chưởng cơ” này đều được phong khống lên thành “Đô đốc – Tướng quân” cả!

Tất cả nằm trong một mưu đồ gieo rắc “sương mù thông tin”, nghi ngờ và thù hận, chia rẽ người Việt, và cũng là một kế hoạch “kêu gọi đầu tư” từ Pháp! Ngay trong chuyện chúa Nguyễn trả thù nhà Tây Sơn một cách vô cùng dã man tàn bạo, có nhiều chi tiết có thể được xem là bịa đặt! Các vị ấy đã “vẽ rắn thêm chân” vô số chuyện hoang đường mà ngày nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra! Rồi sau nữa, nhiều “tri thức” căn cứ vào những ghi chép đó, không biết có suy nghĩ gì không mà lặp lại như vẹt vậy, đẩy sự “vô tri” lên một tầm cao mới! Nếu nói rằng làm cho ngu dốt để dễ cai trị thì người Pháp đã vô cùng thành công! Những ghi chép của giai đoạn này cần phải được đọc với sự phân tích chi li và thận trọng tối đa!

công nghiệp hỗ trợ

Ghe thuyền cổ truyền VN, mới nhìn sơ qua thì nó hao hao, giống giống ghe thuyền TQ, nhưng đi sâu vào chi tiết thì lại khác nhau… xa chừng! Nhớ hồi năm 2017, tôi có chạy đi Quảng Yên, Quảng Ninh gặp bác nghệ nhân Lê Đức Chắn, nhìn cái cột buồm làm bằng một cây tre khá mong manh, tôi hỏi bác ấy: nếu mà gió bão to quá thì làm sao, ông ấy trả lời: thì hạ cột buồm xuống! Câu trả lời hoàn toàn đúng, người dân họ làm như vậy thật, cột buồm được gắn trên một cái đế (tabernacle), có thể nâng lên hạ xuống dễ dàng. Nhưng qua đó cho thấy cái sơ khai, tạm bợ của kỹ nghệ đóng thuyền VN xưa. Gần như không có đinh hay ốc, chỉ là khoan lỗ, xỏ dây và xiết lại! Rồi xảm chỗ nối bằng vôi bột trộn với dầu trẩu (tung oil).

Loại xảm này không bền, chưa tới 10 năm là phải cạo ra làm lại, trong khi các mối xảm thuyền TQ là bền hơn 100 năm! Không có dây thừng hay cáp gì, phần nhiều xài dây mây (rattan), vì thiếu những ngành công nghiệp hỗ trợ nên không thể có dây tốt, trong khi thuyền TQ đã xài dây Manila, loại dây “nhập khẩu” tốt nhất thời đó. Thậm chí, một số nơi còn chưa có vải buồm tốt đúng nghĩa, chỉ mới là dạng vải dệt thô từ các sợi lá cọ. Các loại ròng rọc, tời… gia công mộc rất thô sơ, lực kéo nặng do ma sát lớn! Các chi tiết này được mô tả rất kỹ trong cuốn “The junk blue book”! Từ cuốn “Hải thuyền thanh thư” đó rút ra được rất nhiều thông tin thú vị! Tất cho thấy những “công nghệ” rất thô sơ, tạm bợ, độ ổn định thấp!

Đó là chưa nói về tính an toàn và tiện dụng, kiểu như vậy mà đi biển xa, gặp giông gió lớn là hư hỏng, tai nạn bất kỳ lúc nào! Kỹ thuật thuyền VN xưa đôi khi cho thấy có những khéo léo bất ngờ, nhưng tựu trung là thông minh nhỏ, chỉ ứng biến nhất thời chứ không theo đuổi những “giải pháp căn cơ” thật sự! Nhưng biết làm sao khác được, đơn giản vì mỗi ngành “công nghiệp hỗ trợ” đó là một chuyên môn riêng, phải có những hiểu biết kỹ năng riêng thì mới làm được! Mà để người ta yên tâm xây dựng “công nghiệp hỗ trợ” thì nói cho cùng là… xã hội phải tôn trọng giá trị, phải có cơ chế bảo lưu và trao đổi giá trị. Nhưng cái văn hóa “sợ hãi – hoài nghi – khinh thị – và lạm phát” mà, không làm được điều đó!

nail, spike, screw, bolt

Người ta trục vớt một chiếc xuồng nhỏ dài chỉ 4.4m đóng năm 1836 ở Anh và thấy trên xuồng dùng những loại đinh sau: #1. đinh đồng và đinh sắt (nail), đồng được dùng ở những nơi dưới mực nước (vì nó bền trong nước biển) và sắt được dùng ở những chỗ trên mực nước (vì sắt cứng và rẻ hơn đồng). #2. đinh tán đồng (copper spike), đây là dạng tán giống như rivet, dùng đồng nguyên thay vì đồng thau vì đồng nguyên mềm, dễ tán hơn #3. đinh vít bằng đồng thau – brass screw, #4. đinh ốc (bolt) bằng đồng thau, sắt và thép đã xi mạ. Như thế là phải có cả một nền “công nghiệp hỗ trợ” để sản xuất ra các loại: đinh, đinh tán, đinh vít và đinh ốc, etc… dùng nhiều loại vật liệu khác nhau và gồm nhiều cách thức chế tạo khác nhau!

Các thuyền truyền thống Việt Nam thường chỉ dùng đinh gỗ và một ít đinh sắt. Đinh gỗ tuy cũng có những ưu điểm nhất định, nhưng tàu lớn đến một mức nào đó thì không thể dùng đinh gỗ được nữa vì nó không đủ mạnh! Cần có các phương thức khác để liên kết các cấu kiện gỗ lại với nhau một cách chắc chắn, bền bỉ. Muốn nói có công nghiệp đóng tàu lớn, thì trước hết phải xem có các ngành “công nghiệp hỗ trợ” hay không: làm đinh, xẻ gỗ, làm ròng rọc, bện dây thừng, may buồm, gia công vô số các chi tiết máy móc trên tàu và 1001 những chuyện khác. Nếu làm đinh vít, đinh ốc thì cắt / tạo ren bằng phương pháp gì, quặng đồng khai thác ở đâu, hay đồng thau phải pha thiếc với tỷ lệ bằng bao nhiêu?!

Nếu là làm dây thừng thì nguồn xơ sợi (fiber) là gì: dừa, dứa, đay hay chuối, vùng nguyên liệu trồng ở đâu, đan dây thế nào!? Nếu làm thuốc súng thì lưu huỳnh, diêm tiêu khai thác ở đâu, hay ít nhất là mua từ nguồn nào? Nếu đã làm thực sự thì đương nhiên đến hiện tại phải để lại vết tích, không thể trống hoác như thế được, đến tận giờ những loại ròng rọc VN làm ra còn chưa xài được! Nên, không thể chấp nhận những loại “khảo cổ trên giấy, hoang tưởng, vĩ cuồng”, đào lên không thấy gì và kết luận tổ tiên chúng ta đã xài “mạng không dây”! :D Đừng nghĩ nó “không là cái đinh gì”, vấn đề nó echo – vang vọng một cách nhức nhối cho đến tận thời hiện đại, trước tiên phải xem có làm đinh, ốc, vít được không đã!

giao thông vận tải

Những năm giữa 198x hồi đó… bao cấp, gạo thiếu, cả nước đang trong giai đoạn gọi là rationed – chia khẩu phần, bao nhiêu người, bao nhiêu gạo là đã tính cả! Ông bô, bà bô tôi mỗi người 13kg/tháng, bữa ăn toàn cơm độn, rau muống chấm với với xì dầu, bằng một cách thần kỳ nào đó mà họ vẫn sống được! Đó là ở thành phố, tình hình vẫn tạm, chứ ở các vùng quê sâu xa là đã… gần với tình trạng đói! Cứ thỉnh thoảng vài ba tháng, ông bô tôi lại chở gạo về quê tiếp tế cho ông bà nội. Đường về quê chỉ chừng 50km tính theo đường chim bay, khoảng 75km tính theo đường… chim đi bộ, nhưng đi mất hơn 18 tiếng! Nếu là thời giờ, chạy xe máy qua hầm, qua cầu, chưa tới 2 tiếng là về đến nơi! Nhưng thời đó, hành trình nó như thế này:

Từ ĐN, bắt tàu hỏa lúc chập tối, loại tàu chợ chạy chậm như… xe đạp, lê lết 6 tiếng mới qua được bên kia đèo Hải Vân, đến nơi thì nửa đêm, xuống tàu, vào nhà người quen ngủ tạm một đêm. Sáng hôm sau, bắt xuồng máy băng qua đầm Cầu Hai, xuồng chạy ì ạch 2 tiếng thì qua tới bên kia. Rồi dùng xe đạp chở cái bao gạo 30kg đi qua những triền cát trắng, đi một bước muốn thụt lùi một bước, thằng nhóc 6 tuổi là tôi hì hục đẩy phụ xe 2 tiếng nữa thì tới nơi, đó là đúng 12h trưa hôm sau! Mất hơn 18h chỉ để đi 75km, bao gồm đủ các loại tàu – thủy, hỏa, mà tốc độ trung bình… vẫn còn không bằng đi bộ, vô cùng mệt mỏi! Giờ thuật lại thì bảo là “than nghèo kể khổ”, nhưng có một thời như thế, thậm chí còn tệ hơn!

thủy quân, p2

Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hoả mai,
Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền.
Tùng tùng trống đánh ngũ liên,
Chân bước xuống thuyền nước mắt như mưa.

Bài toán lớn nhất thời Nguyễn Ánh – Tây Sơn chính là giao thông vận tải. Nước VN có hình dạng dài và hẹp, chủ yếu là các làng mạc dọc theo bờ biển, bị chia cắt mạnh bởi núi non và sông ngòi. Bài toán vận tải thực sự rất nan giải, trong điều kiện ngày xưa không thể xây dựng hệ thống cầu đường xuyên suốt, rộng khắp được. Cứ thử tưởng tượng vận chuyển những khẩu pháo 1, 2 tấn đi hàng ngàn km bằng đường bộ qua đồi núi xem, chuyện không thể làm được! Trong cuộc hành quân Kỷ Dậu – 1789, một giáo sĩ đã kể lại rằng quân Tây Sơn, sau 15 ngày đêm hành quân gần như liên tục, trông như một băng đảng rách rưới, ốm đói, bệnh tật! Nên việc vận tải trong chiến thắng Kỷ Dậu vẫn phải dựa phần lớn vào thuyền!

Trong nhiều thế kỷ, các triều đại VN đều dựa nhiều vào đường thủy, như hệ thống kênh Nhà Lê xây dựng suốt mấy trăm năm. Hay xa hơn, Hưng Đạo vương thắng được quân Nguyên cũng chỉ với cách di chuyển quân bằng thuyền, xích tới xích lui, loanh quanh trong phạm vi không quá lớn của châu thổ sông Hồng, nơi hệ thống sông ngòi rộng khắp khiến cho kỵ binh Nguyên Mông khó vượt qua và không phát huy được sức mạnh! Đến thời Nguyễn Huệ – Nguyễn Ánh, đất nước trãi dài ra như vậy, cả 2 bên đều hiểu rằng phải tổ chức phần lớn quân đội dạng… thủy quân lục chiến! John Barrow trong hồi ký của mình đã dùng chữ “Marine” (chứ không phải “Navy”) là rất đúng khi nói về Thủy quân của chúa Nguyễn..

Những điều này thì một vị vua tài ba như Quang Trung dĩ nhiên hiểu rõ, nhưng tiếc là ông ta… đoản mệnh, qua đời khi mới 40 tuổi, chưa kịp thực hiện các ý tưởng của mình! Mà các tướng lĩnh Tây Sơn không có ai hiểu rõ vai trò của thủy quân, không dự trù được các hình thức tác chiến dựa vào thuyền. Còn một vị vua như Nguyễn Ánh, tuy không tài giỏi bằng, tầm nhìn cũng hạn hẹp hơn, nhưng ông ta đủ thông minh để hiểu rõ cách thức tiến hành chiến tranh, và quan trọng là sống đủ lâu, đủ kiên trì để biến những hiểu biết đó thành chiến thắng! Tình hình phân tranh ở VN trong các thế kỷ 17, 18, 19 giống hệt như các sứ quân – Daimyo đánh nhau ở Nhật Bản, như mô tả trong tiểu thuyết Shogun (James Clavell) vậy.

Nhật cũng là một đất nước toàn đồi núi, việc chuyển quân phần lớn trên bộ, nhưng hậu cần là gần như dựa hoàn toàn vào vận tải biển! Điển hình như sau thủy chiến đầm Thị Nại, Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu rút quân về phía Bắc để hội quân với vua Quang Toản, nhưng phải đi bằng “thượng đạo – đường rừng” chứ không thể đi đường ven biển. Sau khi đã mất thủy quân, mất khả năng cơ động, thì nhà Tây Sơn liên tục rơi vào thế bị động, không có đường thủy thì không thể vận tải quân lính, súng đạn, lương thực thuận tiện được. Và chúa Nguyễn đã nắm thế chủ động khi có thể, chỉ trong vài ngày, đổ bộ quân bất kỳ đâu dọc theo bờ biển để ngăn chặn các tướng Tây Sơn! Sự việc sau đó diễn ra đúng như vậy!

Sau khi đi đường thượng đạo từ Quy Nhơn ra Quảng Nam thì 2 tướng Tây Sơn bị thủy quân nhà Nguyễn đổ bộ, chặn lại ở Hội An. Không còn súng đạn, lương thực, lại buộc phải rút lên theo đường rừng, sang đất Lào ra bắc, đến nơi thì không còn bao nhiêu người! Mất đi quân bài chiến lược, nhà Tây Sơn sụp đổ nhanh chóng trong 2 năm! Từ nhiều ghi chép trong lịch sử, có thể thấy rằng: các thuyền chèo tay – galley là một lực lượng đáng gờm nếu: #1. tập trung đủ số lượng, #2. có các pháo hạm (thuyền mành kiểu TQ hay pháo hạm kiểu Tây phương) hỗ trợ hỏa lực, và #3. tác chiến ven bờ, không đi ra vùng biển xa, và chiến thắng chẳng qua là dùng số lượng lớn, vận động linh hoạt trong không gian không quá rộng!

Lịch sử thời Nguyễn ghi lại nhiều lần thủy quân đã đánh thắng Hải tặc, thậm chí đã có lần hiếm hoi chiến thắng cả hải quân Tây phương, đó là khi có đủ 3 điều kiện này. Ngược lại, các thuyền chèo tay galley này sẽ là “miếng mồi ngon” cho các thuyền mành nếu ra vùng biển mở, có không gian rộng để vận động, vì thuyền mành có pháo lớn, tầm bắn xa hơn! Lịch sử nhà Nguyễn cũng ghi lại nhiều trường hợp, các đội thuyền galley thất bại trước các nhóm hải tặc Quảng Đông, do đi xa bờ và không có súng lớn hỗ trợ. Do đó, không nên ảo tưởng về khả năng tác chiến xa bờ của “Hải quân” Tây Sơn cũng như nhà Nguyễn! Thủy chiến đầm Thị Nại (1801) và cửa Tư Hiền (1802) là những ví dụ rõ ràng về tác chiến đổ bộ ven biển!

Sau khi Nguyễn Huệ qua đời, nhà Tây Sơn đã mắc phải sai lầm chiến lược, đặt phần lớn thủy binh ở đầm Thị Nại, không nắm bắt được sự phát triển vượt trội của thủy quân chúa Nguyễn, không có các hình thức tác chiến chủ động, còn sự hỗ trợ của cướp biển Quảng Đông thì chỉ chừng mực, suy cho cùng họ là lính đánh thuê chứ không phải quân triều đình! Các tay cướp biển Quảng Đông thừa hiểu rằng họ không thể địch lại “hạm đội” thuyền chèo đông đảo của chúa Nguyễn, nhất là khi phải tác chiến trong các vùng đầm phá ven bờ, dù đi xa bờ thì hạm đội của chúa Nguyễn không thể đối chọi lại cái “Liên đoàn cướp biển Quảng Đông” khá là lớn mạnh đó. Có quá nhiều bài báo, tài liệu giật tít rất kêu, “nổ” tận mây xanh!

Nào là người Việt chinh phục đại dương, tự đóng được tàu hơi nước, có nhiều pháo hạm 60 súng, và nhiều sự hoang đường, vĩ cuồng khác! Những tài liệu này đều có câu cú lủng củng, văn viết không thông, ngoại ngữ Anh, Pháp đọc không hiểu, sai vô số chỗ, nhưng vẫn nói như đúng rồi vậy! Tác chiến ven bờ hoàn toàn khác với hải quân “nước xanh” (blue water), loại sau đòi hỏi một trình độ kỹ thuật cao hơn hẳn! Còn cái đầu cơ bản chỉ là một hạm đội đông đảo thuyền chèo tay mà thôi, qua các tài liệu đương thời, có thể nhận định rằng người Việt lúc bấy giờ vẫn còn chưa nắm được hết các kỹ thuật điều khiển buồm, càng không nên nói đến một nền “công nghiệp quốc phòng” đủ khả năng đóng tàu to, súng lớn!

thủy quân, p1

Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai!
Miệng ăn măng trúc, măng mai,
Những giang cùng nứa biết ai bạn cùng?

Đọc những thông tin về Hải quân thời Nguyễn Ánh – Tây Sơn phân tranh, có thông tin về các con tàu đến 50~60 súng, tương đương với chiến hạm hạng 4 (fourth rate ship) ở châu Âu. Tôi cho rằng đây là những thông tin không thực, có thể do chính người Pháp trong cuộc đương thời bịa đặt ra để kích động cuộc chạy đua vũ trang giữa 2 phe, cũng có thể là một kế hoạch “kêu gọi đầu tư” từ Pháp! Vì tàu 50~60 súng là rất lớn, khoảng 1000~1200 tấn, thường có 2 boong (tầng), loại súng lớn đặt ở tầng dưới, loại nhẹ ở trên, đóng những con tàu lớn như vậy rất phức tạp, sợ là với sự giúp đỡ hạn chế của người Pháp đương thời thì chúa Nguyễn không thể làm nổi. Còn cái gọi là “Định Quốc đại hiệu” của Tây Sơn đến 50~60 súng…

Có thể cũng chỉ là những “floating battery”, bè nổi chứa pháo, dùng để phòng ngự ở những vị trí bán cố định, không phải là những con tàu di động thật sự. Qua thông tin từ 2 cuốn hồi ký cùng mang cái tên: “A voyage to Cochinchina”, một của John Barrow, đến VN năm 1800 và một của John White, đến VN năm 1819 thì một bức tranh toàn cảnh hiện ra về Thủy quân lúc đó. Điều đáng nói, 1800 là chỉ 1 năm trước trận thủy chiến đầm Thị Nại, thời điểm có thể ước đoán là thủy quân Nguyễn Ánh đã đạt mức phát triển cao nhất, và 1819, gần 20 năm sau, là chỉ 1 năm trước khi vua Nguyễn Ánh qua đời và các chiến thuyền đã đóng còn chưa mục nát để tác giả John White có thể đến tận nơi quan sát và kể lại.

Dựa trên thông tin của John Barrow, có thể thấy Thủy quân Nguyễn Ánh có tổng cộng 26800 người, thuộc về 4 hạng mục sau: #1. 8000 thủy thủ trên 100 thuyền chèo tay dài 20~30m, mỗi thuyền khoảng 50~80 tay chèo, được trang bị các dạng pháo nhỏ bắn đạn 3~4 pounds (1~2 kg). Đây là loại mà phương Tây gọi là “galley”, thuyền chèo tay tác chiến ven bờ. Chức năng chính yếu của galley là vận chuyển hàng vạn bộ binh! #2. 8000 thủy thủ trên các ghe bầu lớn đóng theo kiểu truyền thống VN, kết hợp giữa buồm và chèo, đây đa số là các thuyền có nhiệm vụ vận tải! Đương nhiên galley và ghe bầu khó có thể đi biển xa, dài ngày được, và cũng rất hạn chế về hỏa lực! Để bù đắp cho sự thiếu hụt hỏa lực này là:

#3. các thuyền mành (junk) kiểu TQ, thủy quân của Chúa Nguyễn có 1600 người trên khoảng 20~30 thuyền mành, mỗi thuyền được trang bị 6~12 khẩu pháo loại bắn đạn 9~12 pounds (4~6 kg). Việc chế tạo các tàu này không quá khó về kỹ thuật, hoặc có thể mua trực tiếp từ người TQ. Và ở lớp trên cùng là: #4. 4 chiến hạm do người Pháp viện trợ (e là những tàu này không đóng tại VN), phối hợp nhiều nguồn thông tin, ta có thể suy đoán tương đối chính xác rằng 4 tàu này tương đương cỡ chiến hạm hạng 6 (sixth rate ship), mỗi chiếc có tải trọng 500 tấn, được trang bị 30 súng, thủy thủ đoàn chừng 300 người (tổng cộng 1200 người trên 4 chiếc), và do các thuyền trưởng người Pháp trực tiếp chỉ huy!

Như thế có thể thấy, nhà Chúa có một tư duy thực dụng về thủy chiến. Đó không phải là tàu to, súng lớn như mọi người thường nghĩ, mà chỉ là một “hạm đội” các thuyền lớn chèo tay chở bộ binh, làm sao vận chuyển binh lính + hàng hóa đi xa, hàng trăm người chia phiên, thay nhau chèo có thể đi cả trăm km mỗi ngày. Đội tàu này được bổ sung thêm vài chục “pháo hạm” kiểu thuyền mành (junk) TQ, và trên cùng của lưới hỏa lực là 4 con tàu kiểu Tây phương, 4 chiếc này cũng chỉ ngang cỡ tàu chiến hạng 6, hạng thấp nhất trong số 6 hạng tàu chiến ở châu Âu đương thời. Ngoài ra nhà Chúa còn có một đội 8000 thợ thủ công đóng thuyền, và dĩ nhiên là các ngành “công nghiệp hỗ trợ” khác như xẻ gỗ, đúc pháo…

Những thông tin này trùng khớp với những gì John White ghi nhận gần 20 năm sau đó khi đến Huế, hàng trăm “chiến thuyền” chèo tay – galley, vài chục thuyền mành kiểu TQ, nhưng tại thời điểm đó, chỉ còn thấy có 2 tàu kiểu Pháp, ngoài ra tác giả John White nhấn mạnh rằng không có dấu hiệu cho thấy có thuyền lớn hơn! Một năm sau thì nhà Vua băng hà, người kế vị chỉ tập trung vào học hành, thi cử, quan chế… bỏ bê võ bị, các con tàu kéo lên bờ, đưa vào trong các căn nhà có mái che, và nằm đó mục nát theo thời gian! Hình dung tổng thể về thủy quân giai đoạn đó như thế, không nên “tán láo” những thứ “hư ảo” kiểu: thuyền chiến 60 súng, 300 pháo hạm, tự đóng tàu hơi nước, hải pháo 24 pounds, etc…

Sử sách các triều đình xưa có cách dùng từ ngữ vô cùng “gian manh”, ví dụ như nói về đội quân 18 ngàn người, 1200 thuyền chiến, 300 pháo hạm, 600 pháo, nói như vậy thì một chiếc “thuyền chiến” chở… 18K/1200=15 người hóa chẳng phải chỉ là một chiếc xuồng nhỏ hay sao? Hay 18K quân mà 600 pháo thì trung bình 30 người có xoay nổi một khẩu pháo nặng 1, 2 tấn hay không, chưa nói đến chuyện vận chuyển khẩu pháo đó đi hàng ngàn km, từ đó suy ra cái gọi là “pháo” đó chẳng qua là những loại hỏa khí vác vai cỡ nhỏ. Suy luận tương tự thì cái gọi là “pháo hạm” đó chẳng qua là một chiếc xuồng có gắn 1, 2 khẩu pháo tép (swivel gun) mà thôi. Nên các mô tả trong sách sử xưa, mới nghe thì có vẻ “đúng” về ngôn từ…

Nhưng thực ra rất sai nếu đặt trong các hệ quy chiếu khác, sợ là so với Cướp biển Quảng Đông còn chưa được chứ chưa nói so với Hải quân phương Tây. Phần đầu của bài viết sơ lược như vậy để nói rằng: cái gọi là Hải quân Tây Sơn, Hải quân Nguyễn Ánh thực chất là lực lượng lính thủy đánh bộ ven bờ, được xây dựng để giải quyết bài toán giao thông vận tải (vận chuyển người và hàng), trong điều kiện nước VN bị chia cắt về địa hình, đường sá kém phát triển, đi lại rất khó khăn và các loại ngựa, xe vận tải rất ít. Phần sau sẽ nói kỹ hơn về cái gọi là hải chiến thời đó, thực chất là những cuộc chiến đổ bộ và chống đổ bộ, diễn ra trong các đầm phá ven biển, không phải là “hải chiến” theo nghĩa chúng ta hiểu ngày nay!

WhangHo junk

Tàu buồm TQ WhangHo, tàu hàng, buôn lậu và cướp biển, được đóng năm 1753 và có một cuộc đời rất dài, đến 162 năm, gồm nhiều hoạt động phong phú. Con tàu đổi chủ nhiều lần, bị cướp qua cướp lại giữa Hải quân Thanh triều và cướp biển Nam Trung Hoa, có giai đoạn tàu phục vụ trong biên chế của khởi nghĩa Thái Bình thiên quốc, và cuối cùng, đến năm 1913 thì người Mỹ mua xác tàu về trưng bày hội chợ. TQ thế kỷ 18 đã có khả năng đóng những con tàu lên đến 3000 tấn, nên về kích thước, WhangHo không phải là lớn! Một con tàu như thế thường được trang bị khoảng dưới 10 súng, nhỏ và nhanh nhẹn, phù hợp với vai trò… cướp biển! Và phần lớn những con tàu cướp biển của Trịnh Thất, Trịnh Nhất, Trịnh Nhất tẩu…

Trương Bảo, Trần Thiêm Bảo, Mạc Quan Phù, Ô Thạch Nhị, Vương Quý Lợi, v.v… cái “Liên đoàn cướp biển Quảng Đông” này là một lực lượng đáng kể, gồm hàng vạn người, hàng trăm tàu, phần lớn những tàu nhỏ cỡ dưới 300 tấn, trang bị 6 ~ 12 súng (loại súng “tiêu chuẩn” lúc bấy giờ là hải pháo nặng khoảng 1 ~ 1.5 tấn, bắn đạn 9 ~ 12 pounds). Khi nhà Thanh dần ổn định phương Nam, các nhóm hải tặc TQ mất địa bàn, mất căn cứ và phải dạt sang Việt Nam. Trên danh nghĩa là họ vẫn mang cái chiêu bài “phản Thanh phục Minh” và được vua Quang Trung thu dụng làm lính đánh thuê, vì các con tàu luôn cần home port – cảng nhà để sửa tàu, cứu chữa người bị thương, cung cấp vật tư hậu cần và… tiêu thụ tài sản cướp được!

Chính sử về mặt này thường tránh nói, hay nếu có nói cũng chỉ nói vô cùng sơ sài, về vai trò của Hải quân chính quy và Hải tặc đánh thuê trong chiến thắng Kỷ Dậu – 1789. Một cuộc hành quân lớn như thế, thần tốc như thế, cả chục vạn quân đi liên tục 15 ngày từ Phú Xuân ra đến Nghệ An, đâu phải chỉ đi có người không, còn phải có lương thực, vũ khí, súng ống, đạn dược… muốn vận chuyển nhanh một khối lượng lớn vật chất hậu cần, là bắt buộc phải đi bằng đường biển. Chưa kể các cánh quân vu hồi tấn công bên sườn quân Thanh ở Hải Dương, Lạng Giang chắc chắn phải đi từ biển vào theo ngã sông Hồng, sông Lục Đầu! Lịch sử là như thế, ấy thế mà nay không còn mấy ghi chép, chứng cứ, để cho con cháu suy đoán!

Khi còn nhỏ, đọc những dòng giải thích kiểu: chia quân thành nhóm 3 người, 2 người võng 1 người thay nhau đi và nghỉ, liên tục suốt ngày đêm, ấy thế mà tin sái cổ chứ phải! :D Lớn lên rồi, chỉ cần có chút vận động vật lý là biết những lời giải thích đó nó xàm xí, phản khoa học! Nên “sử gia” xưa thực ra có vô số người cũng chỉ biết “chỉ thượng đàm binh – 纸上谈兵“, hoàn toàn không hiểu các hoạt động thực tế diễn ra thế nào! Đến thời hiện đại rồi, cần lắm những cách giải thích khoa học, để cho mọi người hiểu rõ những yếu tố kỹ thuật, công nghệ nền tảng bên dưới! Hiểu để biết rằng trong tất cả các vận động lịch sử, bên cạnh yếu tố quan trọng là con người, thì kinh tế, vật chất và khoa học kỹ thuật vẫn là quyết định!

teksing junk

Tàu buồm TQ Teksing, không ai biết chính xác tên gốc con tàu là gì, nhưng đây thường được xem là một “Titanic phương Đông”. Tàu có cảng nhà – home port ở Hạ Môn, Phúc Kiến, dài 50m, 900 tấn! Lúc này ở TQ có nhiều biến động: Chiến tranh nha phiến lần 1, khởi nghĩa Thái Bình thiên quốc, xã hội bất ổn dẫn đến di dân hàng loạt. Năm 1822, con tàu xuất phát từ Hạ Môn, chở theo một lượng lớn đồ sứ, 200 thủy thủ cùng với 1600 di dân.

Ngày 6/2/1822, trên đường đến Jakarta, Indonesia, khi đang băng qua eo biển Gaspar, tàu đâm vào đá ngầm và chìm. Một chiếc khác đi cùng đoàn và một con tàu Anh đi ngang qua đã cứu được khoảng 200 người, 1600 người thiệt mạng. Năm 1999, người ta đã trục vớt số đồ sứ trên tàu và bán đấu giá được $10 triệu! Ảnh: phần lớn các tranh vẽ Tây phương về các con tàu buồm TQ đều mang các chi tiết cường điệu, thiếu chính xác!