đoàn lữ nhạc


Poster Đoàn lữ nhạc, NXB Cửu Long

A ha, a ha! Hãy nhớ vết xưa tàn phá! Đâu, đâu? Ai biết lũ chim về đâu? A ha, a ha! Hãy cất tiếng lên cười phá! Dzô, dzô! Kìa những bóng chim hải hồ!

Có một từ, tiếng Anh là the troubadours, tiếng Pháp gọi là les troubadours, tiếng Việt thường gọi là người hát rong, du ca, lữ nhạc… Chỉ riêng một từ này mà hai đại nhạc sĩ Phạm Duy và Trịnh Công Sơn (và cả một số người khác) phải “đánh nhau” để dành lấy, từ trước 75 và kể cả về sau này. Một “danh hiệu” mà nhạc sĩ nào cũng ao ước đạt được, ai cũng nhận mình là kẻ du ca của dân tộc Việt, đi qua những nẻo đường đời lưu đày và kể lại những câu chuyện tai nghe mắt thấy.

Như ngày xưa Homère kể lại lịch sử thành Troie bằng hai trường ca Odyssée và Iliade. Mọi câu chuyện đều thường bắt đầu đại loại như thế này: để tôi kể bạn nghe câu chuyện, một lần một ngày kia, tôi đã đi qua và đã thấy…. Hình thức kể chuyện hát rong, từ xa xưa đã là một lối văn nghệ và lịch sử truyền khẩu, đến tận bây giờ vẫn là một đề tài đầy cảm hứng.

Đoàn lữ nhạc - Ánh Tuyết 

Có một nhạc phẩm ít người biết của nhạc sĩ Đỗ Nhuận, mang tên Đoàn lữ nhạc. Trong những năm 1945 ~ 1975 ở miền Bắc, khi nhiệm vụ chiến tranh là trên hết, việc ra đời của Đoàn lữ nhạc quả là một điều kỳ lạ. Nói như một bài hát khác của nhạc sĩ Đỗ Nhuận: đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi, trong một giai đoạn như thế lại có lời ca: Ra đi khắp nơi xa vời, gió bốn phương kìa gió bốn phương ào ào cuốn lá rơi… Đâu, đâu? ai biết lũ chim về đâu. Sau này, những nhạc phẩm thế này đều được chọn lọc và biểu diễn trở lại. Tôi đã nghe biểu diễn bài này hai lần, một lần ở phòng trà ATB (Sài Gòn), một lần ở phòng trà Hợp Phố (Đà Nẵng), cả hai lần đều là những ấn tượng khó quên.

ngày độc lập

Ngày này năm xưa, mùng 2 tháng 9, mẹ tôi còn nhớ lại, ông ngoại cõng mẹ tôi trên vai, lúc đó vừa hơn 3 tuổi, vừa đi tham gia biểu tình mừng ngày độc lập, vừa đi vừa hát: mờ trong bóng chiều, một đoàn quân thấp thoáng… (Chiến sĩ vô danh – Phạm Duy). Những kỷ niệm về ông ngoại mà mẹ tôi còn nhớ mãi suốt đời, khi ông tôi ôm đàn mandolin hát những lời ca: đây An Phú Đông, ôi An Phú Đông, ngày nào quân đi reo bao hùng dũng… (An Phú Đông – Võ Đức Thu).

Chiến sĩ vô danh – Hùng Cường 

Ông ngoại đã theo Việt Minh đi kháng chiến, nhưng về sau phải bỏ về vì nhà có gốc gác phong kiến và thực dân quá lớn. Lịch sử còn vương lại đâu đó trong từng gia đình. Một thời lý tưởng đẹp đẽ, người người đã cống hiến không tiếc những gì tốt đẹp nhất.

hồ trường

南方歌曲

丈夫生不能披肝折檻,為世扶綱常。逍遥四海,胡為乎此鄉。回頭南望邈無極兮,天雲一色徒蒼蒼。立功不成,學不就,少壯有幾辰兮,坐視百年身世驅陰陽。撫掌狂歌問斯世,茫茫天地,安得知一知己兮,試來對酌佑予觴。予觴擲向東溟水,東溟之水萬隊起狂瀾。予觴擲向西山雨,西山之雨一陣何汪洋。予觴擲向北風去,北風揚沙走石飛殊方。予觴擲向南天霧,霧中有人開口一飲蘧然醉。天地宇宙渾相忘,予不醉矣,予行予志。男兒自古事桑蓬,何必窮愁泣枌梓。

Ngâm thơ là một loại hình kết hợp giữa văn chương và ca nhạc, và là loại hình nghệ thuật tôi hoàn toàn không biết gì. Những điệu ngâm Sa mạc, Bồng mạc, ca trù, ngâm Kiều, Tao đàn… tôi hoàn toàn mù mịt, dù trong nhà từ nhỏ được không ít lần thưởng thức ngâm thơ. Xin post ở đây một bản ngâm thơ tôi được biết, cũng là bài ba tôi thường ngâm mỗi lúc cao hứng, ngà ngà say. Đây là một bài thơ rất có giá trị trong văn học sử Việt Nam cận đại, và câu chuyện về người tác giả (dịch giả) của nó cũng bị cố tình lãng quên, không mấy ai được biết đến!

Hồ trường - Tôn Nữ Lệ Ba 

Đại trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường, Hà tất tiêu dao bốn bể lưu lạc tha phương. Trời Nam nghìn dặm thẳm. Non nước một màu sương. Chí chưa thành, danh chưa đạt. Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc? Trăm năm thân thế bóng tà dương.

Vỗ gươm mà hát. Nghiêng bầu mà hỏi. Đất trời mang mang ai người tri kỷ? Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.

Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu? Rót về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn! Rót về Tây phương, mưa Tây phương từng trận chứa chan. Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút cát chạy đá dương! Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng.

Nào ai tỉnh, nào ai say? Lòng ta ta biết, chí ta ta hay. Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ, Hà tất cùng sầu đối cỏ cây!

Cũng lại là một người con của làng Bảo An, Điện Bàn, Quảng Nam, vùng đất địa linh nhân kiệt số một Việt Nam, Nguyễn Bá Trác tham gia phong trào Đông Du, trở về nước năm 1914, ông cùng Phạm Quỳnh duy trì tờ Nam Phong tạp chí. Sau đó, ông làm Tuần phủ Quãng Ngãi, rồi Tổng đốc Thanh Hóa, Bình Định. Ông bị Việt Minh xử bắn lúc họ cướp chính quyền, ở Huế năm 1945. Tên tuổi Nguyễn Bá Trác không được “chính sử” nhắc đến, nhưng chỉ nhờ vào một bài thơ Hồ Trường, cốt cách, chí khí con người ông vẫn còn được truyền tụng và ngưỡng mộ đâu đấy, như đại diện của một lớp “những người muôn năm cũ”.

Đến nay, đã có đủ cơ sở để tầm nguyên lời thơ Hồ Trường. Có thể đọc nguyên văn phần nghiên cứu của tác giả Phạm Hoàng Quân ở đây. Bài thơ Hồ trường – hóa ra lại là phần lời của một bài hát không tên, tạm gọi là Nam Phương ca khúc – được đăng tải trong thiên ký sự Hạn mạn du ký của tác giả Nguyễn Bá Trác trên Nam Phong tạp chí, phần chữ Hán (từ số 22 đến số 35, năm 1919 – 1920); sau đó thiên ký sự này được chính tác giả dịch sang chữ Việt và đăng tải ở phần chữ Việt của Nam Phong (từ số 38 đến số 43, năm 1920 – 1921). Nam phương ca khúc nằm ở chương 10 trong thiên ký sự này.

Vào khoảng năm 1912, khi lưu lạc ở Thượng Hải, tác giả gặp một người đồng hương cùng chí hướng, người này có giọng hát hay (giọng Quảng Đông). Một đêm nọ, hai người đi uống rượu. Rượu ngà ngà, Nguyên quân đứng dậy mà hát, ở bàn bên cạnh, một võ quan họ Lưu, người Trực Lệ, nghe điệu hát, sang hỏi là điệu gì, được trả lời: Ấy là một điệu đặc biệt ở phương nam, họ Lưu nói: nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khảng khái, nam phương mà có điệu hát đến thế ru? Sau đó họ Lưu xin người hát chép ra giấy lời ca ấy để giữ xem.

Nam phương ca khúc là một bài ca ấy không rõ tựa đề, không biết tác giả, Nguyễn Bá Trác đã chép lại toàn vẹn trong Hạn mạn du ký. Và khi Hạn mạn du ký được sang chữ Việt thì lời ca này đã được dịch rất thoát, linh động nương theo âm điệu tiếng Việt và có chỗ thêm tứ có chỗ bớt lời, khéo giữ được cái thần thái hào sảng của nguyên tác để có được một bài Hồ Trường như chúng ta được biết. (Hình bên phải: phần lời Hán văn của Nam Phương ca khúc, in trong Nam Phong tạp chí).

nhớ bạn

Từ trái sang: Nhật Trường, Nhật Bằng, Anh Ngọc, Mai Hương, Thái Thanh, Kim Tước.

Chẳng có “đầu giường ánh trăng rọi”, nhưng đêm nay trong tôi lại có một cảm giác âm nhạc khác lạ, không biết diễn tả như thế nào, chỉ biết có thể tạm gọi bằng cái tên: Tĩnh dạ tư – cảm xúc trong đêm thanh tĩnh. Vẫn biết là có một cách để diễn đạt điều đó, nhưng kiến thức âm nhạc hạn hẹp không tự lý giải được. Ai rành lý thuyết hòa âm, các mode trong nhạc… xin nghe bài này và giải thích giùm.

Chỉ là phần nhạc và đệm guitar & violin của ca khúc này, chẳng dính gì đến nội dung ca từ cả. Một cảm giác vừa quen thuộc, vừa xa vời nào đó, chẳng biết nữa, nhưng nghe giống như khơi lại một kỷ niệm lúc thiếu thời. Trong một xóm dân chài, có một anh lính rời xa quê, hay chơi đàn rất khuya, có một anh họa sĩ ngày ngày vẫn cặm cụi trên khung vải (không phải để sáng tác tranh – mà để copy lại những danh tác).

Nhớ bạn - Anh Ngọc 

Đó là những người đã dạy tôi những ca khúc đầu tiên, đã cho tôi biết La Joconde (Mona Lisa) là như thế nào. Đó là những ngày gió lớn, lũ trẻ chúng tôi chạy đuổi theo con diều đứt dây từ đầu xóm đến cuối xóm, vừa chạy vừa la: diều băng, diều băng. Đó là những ngày mưa lạnh căm căm, vui mừng sau khai giảng chưa được bao lâu, sáng sáng đã chui vào trong cái bao nilon to làm áo che mưa, lủi thủi lội nước đến trường. Đó là ngày sinh nhật chỉ có hai đứa bạn lớp 5 ngồi ăn bánh ngọt với nhau, vừa ăn vừa nói chuyện… giải phương trình bậc 2.

⓵⏎ Nhạc sĩ Vũ Thành (bên cạnh là một nhạc sĩ sáng tác) được biết đến như một nhạc sĩ hòa âm phối khí xuất chúng. Hầu hết các tác phẩm của Phạm Duy, Cung Tiến, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước… đều được ông làm đẹp bằng phần hòa âm phối khí của mình. Ở miền Nam trước 75, ông là người có công đầu trong việc xây dựng dàn nhạc đại hòa tấu, và cũng là tác giả của một công trình lớn: soạn hòa âm cho 200 ca khúc Việt Nam hay nhất.

café Chiêu



Café Chiêu là một quán không nhiều người biết, nằm trong một hẻm phố trên đường Cao Thắng, thành lập năm 1969, một trong những quán café xưa của Sài Gòn còn sót lại, tuổi đời cũng sánh ngang ngửa với quán Tùng Đà Lạt. Những bạn nào từng là sinh viên ĐH KHTN hẳn quen thuộc quán café này. Ngày trước thường ngồi đây với Đạt, Minh, Khoa, Phương… có hôm nói chuyện IT & CS say sưa suốt cả ngày, uống hết 16, 17 ấm trà.

Bài hương ca vô tận – Thái Thanh 
Nước mắt mùa thu - Lệ Thu 
Người đi qua đời tôi - Khánh Ly 

Quán có gì gần gần giống như café Tùng (Đà Lạt): không gian đồ gỗ cũ kỹ, một vài bức tranh sơn dầu tối tăm ám khói, một bức ảnh BB (Brigitte Bardot) lớn đã ngã màu và rạn vỡ, một vài bức ảnh Đà Lạt của MPK. Từng ngồi đây khá lâu để xem những đổi thay của cuộc sống đi qua không gian quán: những ông trung niên xài laptop và… uống Heineken, những cô cậu thanh niên, thiếu nữ mặc áo pull đen Machine Head, Slipknot… đi giày Converse… phì phèo thuốc lá và nghe Văn Cao, Trịnh Công Sơn…

Quán mở nhạc xưa, phần nhiều là nhạc hay, nhưng bản thân người mở nhạc cũng không mấy chú ý đến giá trị của âm nhạc. Một lần yêu cầu người mở nhạc cho nghe Thái Thanh, người ta hỏi là ai, rồi loay hoay một lúc lâu mới tìm ra và mở được hai bài. Ngày trước, ở quán này, thi thoảng tìm được những phút “yêu người, yêu đời” hiếm hoi, như khi nghe giọng ca Mai Hương: Hương ơi, sao tiếng hát em nghe vẫn ngọt ngào, dù em ca những lời yêu đương, hay chuyện tình gãy gánh giữa đường (ca khúc viết riêng cho Mai Hương: Bài hương ca vô tận – Trầm Tử Thiêng).

Hay khi nghe Lệ Thu hát: Nước mắt mùa thu khóc ai trong chiều, hàng cây trút lá nghĩa trang đìu hiu (bài ca viết riêng cho Lệ Thu: Nước mắt mùa thu – Phạm Duy).

Hay là nghe Khánh Ly: Người leo lên người tôi (í quên: người đi qua đời tôi) có nhớ gì không người (ca khúc Người đi qua đời tôi – Phạm Đình Chương).

Ngày xưa uống café Chiêu là để… chờ yêu, bẵng đi một thời gian không lui tới café Chiêu nữa… Cuộc sống ít ra cũng nên còn cảm thấy điều gì đó đẹp, nên còn cảm thấy phải tôn trọng một số thứ nào đó, bây giờ lại trở về đây để… chờ yêu.

le géant de papier

Khói thuốc xanh khơi dòng chuyện xưa,
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ.
Thoáng hiện em về trong đáy cốc,
Nói cười như chuyện một đêm mơ.

Lại điệp khúc nhạc Pháp và lời Việt tương ứng. Vốn dĩ có một chút định kiến rằng nhạc pop không phong phú và phá cách (như nhạc rock). Còn một bản nhạc dịch thì chỉ là một bản dịch mà thôi, làm sao có được cái ý nghĩa sáng tạo như bản gốc. Đến đây là đụng phải vấn đề rất dể gây tranh cãi: hai mặt của âm nhạc. Với một số người, nghe nhạc là nghe cái gì đó họ cảm thấy hay, hứng khởi, vậy là được. Với một số người, kinh nghiệm cảm nhận gắn liền với những yếu tố mang tính “tiên nghiệm”: chủ đề, ca từ, hòa âm, ngũ cung, thất cung… hay nguồn gốc âm nhạc: nhạc latin, nhạc nhà thờ, “world music”…

Còn đứng trên một cái “scale” nào đó thì những tranh cãi như thế là không tránh khỏi: pentatonic, heptatonic, hay thậm chí là chromatic. Vượt ra ngoài những cái scale này, đặt hẳn cảm nhận lên khung trường độ, cao độ mịn nhất, bỏ qua những quy luật (vốn được xây dựng dựa trên các scale), đặt nhạc cảm đến chỗ improvision mới thật là cảnh giới cao của cảm thụ nhạc.

Le géant de papier - Jean Jacques Lafon 
Lạc mất mùa xuân - Tuấn Ngọc 

Trở lại với bài nhạc, nếu không biết bài nhạc gốc thì thật khó hình dung Lạc mất mùa xuân chỉ là một bản nhạc dịch. Nhưng có hề gì nếu như một lúc nào đó, mình cũng đã thích bản nhạc này? Lời gốc rất “major” (trưởng): đòi hỏi anh phải xây lâu đài trên cát, phải phá đi các dãy đồi, hay nhảy vào miệng núi lửa, tất cả với anh đều là có thể, nhưng trước một người phụ nữ như em, trước tất cả những ân cần dịu dàng trong anh, anh hóa ra chỉ là một người khổng lồ bằng giấy, phần lời Việt thì lại quá ư “minor” (thứ): Đành với duyên kiếp em bước đi trong chiều mưa rơi. Lặng đứng trên bến anh mãi trông thuyền ra khơi… Hồn thấy thấp thoáng bóng em về chìm trong đáy cốc, đôi mắt u buồn thiên thu.

trường ca Hội Trùng Dương

Có thể nói rằng âm nhạc Việt Nam, cho đến bây giờ, là âm nhạc ca khúc (chanson musique), các sáng tác nặng về thanh nhạc, mà nhẹ về khí nhạc… Chúng ta cũng có dàn nhạc hòa tấu (theo kiểu Tây phương hay kiểu cổ truyền), cũng có nhạc kịch… nhưng xét trong văn hóa số đông, phổ biến nhất vẫn là ca khúc. Đối với đa số các nhạc sĩ Việt Nam, sáng tác ca khúc ít công phu hơn và cũng dể đi vào lòng khán giả hơn. Nói như vậy không sai, nhưng chưa đủ.

Ngay cả trong ca khúc, cũng có nhiều điểm yếu cần phải đề cập tới. Ca khúc Việt Nam thừa hưởng cái thuộc tính ít sáng tạo “truyền thống”: cấu trúc đơn giản, kỹ thuật quen thuộc, tiết tấu ít thay đổi, âm điệu êm tai dễ dãi (gần như không bao giờ đi ra ngoài tonality), kết thúc vội vã, trở về chủ âm chóng vánh. Đi tìm một loại âm nhạc “dài hơi”, có chiều sâu hơn, chỉ thấy nổi bật lên một số bản Trường ca, tuy nhiên về số lượng lại không có nhiều, chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay như sẽ liệt kê dưới đây.

Trường ca Hội Trùng Dương
Thái Thanh và hợp ca Thăng Long

1. Tiếng sông Hồng 
2. Tiếng sông Hương 
3. Tiếng sông Cửu Long 

Trường ca đầu tiên trong Tân nhạc, phải nói đến Hòn vọng phu. Lê Thương là tác giả đầu tiên sáng tác tác phẩm lớn theo âm điệu ngũ cung, ba bản Hòn vọng phu 1, 2, 3 đánh dấu giai đoạn trưởng thành của Tân nhạc, là tác phẩm “dài hơi” đầu tiên, vừa phong phú về âm nhạc, vừa đẹp về ca từ và chủ đề. Ngay cả Văn Cao và Phạm Duy, qua tác phẩm này, cũng phải thừa nhận Lê Thương là người anh, người thầy của mình trên con đường âm nhạc.

Một trường ca khác là Trường ca Dã tràng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Nhưng không hiểu vì lý do gì, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn luôn che giấu mọi thứ về Trường ca Dã tràng cũng như quãng thời gian ông sống ở Quy Nhơn. Thế nên nó mãi mãi là một nghi án với người yêu âm nhạc, chỉ có một số phần ca từ nhỏ được nhớ và nhắc lại, phần nhạc đã bị cố tình bỏ quên hoàn toàn. Nhạc sĩ Phạm Duy là người duy nhất đóng góp nhiều hơn 1 trường ca vào nền âm nhạc ca khúc nước nhà: Trường ca Con đường Cái quanTrường ca Mẹ Việt Nam, tôi sẽ còn trở lại với 2 trường ca này trong những post sau.

Có một số ca khúc cũng lớn và hay như Sông Lô (Văn Cao), Du kích sông Thao (Đỗ Nhuận), Người Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), nhưng thật khó xếp chúng vào thể loại trường ca vì nhiều lý do: nhạc thuật, ca từ, chủ đề… Không phải cứ là ca khúc dài thì gọi là Trường ca, nếu thế thì Đóa hoa vô thường của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng có thể xem là Trường ca vậy.

Có một bản trường ca in đậm dấu ấn trong tuổi thơ tôi, đó là Trường ca Hội Trùng Dương của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Ngày ấy, nhà chỉ có cái cassette player hiệu Sony “một hộc băng” cũ kỹ, và những băng nhạc Maxwell gần như đã nhàu nát (có lúc tôi đã phải lấy băng keo nối lại những chỗ băng bị đứt). Đến với tôi là giọng hát Thái Thanh và những tiếng sông Hồng, tiếng sông Hương… những ca từ thật đẹp: gối đầu trên Lào Kay, Việt Trì, em nằm tóc xõa bãi cát dài, thả hồn mơ tới Thái Bình, qua Sơn Tây.

Cũng qua ca khúc này, dù lúc ấy còn rất nhỏ, tôi đã thấy rằng: tuyệt đỉnh của ca hát là trở lại với lời ăn tiếng nói hàng ngày, hát như hơi thở, như giọng nói tự nhiên cha sinh mẹ đẻ. Chưa ra khỏi cửa nhà, tôi đã nghe hết giọng nói đặc trưng các miền đất nước; miền Trung: ai là qua thôn vặng (vắng), nghe sầu như mùa mưa nặng (nắng); miền Nam: chẻ tre bện sáo cho dài (dày), ngăn ngang sông Mỹ có ngài (ngày) gặp em.

Hội Trùng Dương là câu chuyện ẩn dụ tuyệt vời bằng âm nhạc, mở đầu bằng phần intro trong Tiếng sông Hồng: Trùng dương, chốn đây ngàn phương, có ba dòng sông cuốn xuôi biển Đông nhắc câu chờ mong và kết thúc với phần outtro trong Tiếng sông Cửu Long: Ba chị em là ba miền, nhưng tình thương đã nối liền, gặp nhau bên trời biển Đông thắm duyên. Nếu bầu chọn bản nhạc hay nhất nói về tình tự dân tộc, phiếu đầu tiên hẳn phải dành cho Hội Trùng Dương.

Trường ca Hội Trùng Dương 
Ánh Tuyết và ban nhạc ATB

Không có tên trong cái gọi là Danh mục bài hát được phép lưu hành của Bộ Văn hóa – Thông tin (làm sao được phép nếu có phần lời: Hội Trùng Dương, tay tay xiết chặt cùng hô: dựng mùa vinh quang, hứa đời tự do), nhưng Tiếng sông Hương là một ngoại lệ. Tôi để ý thấy, cứ như năm nào có thiên tai: bão Xangsane, lũ lụt ĐBSCL… là lại thấy ca sĩ Ánh Tuyết lên truyền hình quốc gia hát Tiếng sông Hương để vận động xin tiền cứu trợ, ủng hộ đồng bào bị nạn: hò ơi… ai là qua thôn vắng, nghe sầu như mùa mưa nắng, cùng em xót dân lều tranh chiếu manh… Có lẽ Bộ Văn hóa – Thông tin chỉ nhìn thấy được cái giá trị “ăn xin” từ bản nhạc.



et si tu n’existais pas

Dạo này chẳng biết sao lại thích những bài hát nhịp trung bình, với trống và bass không cần phải lắt léo lắm, nhưng thể hiện thật rõ ràng, chân phương những đoạn báo, chuyển, dằn… Như trong bài này, cái nhịp điệu trầm ổn bên dưới góp phần rất lớn vào việc truyền tải nội dung tha thiết của bài hát, bên cạnh giọng hát thật tốt của Joe Dassin. Thường là nam giới thì có xu hướng thích giọng nữ hơn, nhưng cũng phải thừa nhận một số giọng nam cũng thật hấp dẫn (không biết như thế các khán giả nữ sẽ còn cảm nhận thế nào nữa nhỉ?).

Et si tu n'existais pas - Joe Dassin 
Nếu không có em trong đời - Ngọc Lan 

Cứ y như là mỗi bài nhạc Pháp nổi tiếng đều có phần lời Việt tương ứng (cả với nhạc Hoa chắc cũng thế). Bài này phần lời Việt không sát nghĩa lắm, nhưng đại để cũng diễn đạt được ý của lời gốc.

les gitans

Et toi, vieux gitan, d’où viens-tu?
Je viens d’un pays qui n’existe plus!

Một trong những bài nhạc Pháp tôi yêu thích: Les gitansNhững người digan – nhạc Ý, lời Pháp, trình bày bởi giọng ca vàng Dalida. Một pattern quan trọng trong văn hóa Âu – Mỹ, vẫn thường xuất hiện như một chủ đề quan trọng và cô đọng. Gọi họ là gì cũng được: les gitans, les bohémians; the gipsy hay chung chung hơn: the vagabond, the wanderer, the nomad… (hãy nhìn title của blog này).

Les gitans - Dalida 

– Này hỡi anh bạn digan, anh từ đâu đến? – Tôi đến từ xứ Bohême. – Này cô cái digan xinh đẹp, cô từ đâu đến? – Từ vùng Andalousie. – Còn cụ, hỡi cụ già digan? – Tôi đến từ một xứ sở xa xưa đã không còn tồn tại nữa…

– Này hỡi anh bạn digan, anh sẽ đi đâu? – Tôi về lại xứ Bohême. – Còn cô, cô gái digan xinh đẹp, cô sẽ đi đâu? – Về lại vùng Andalousie. – Này ông bạn già digan, ông sẽ đi về đâu? – Tôi, tôi già quá rồi, tôi ở lại đây thôi.

Rồi trước khi lên đường, bắt đầu một chuyến viễn du mới, vẫn còn lưu lại những khoảnh khắc của giấc mơ du mục, trên con đường biến ảo đi về phía hư vô. Rồi trong đêm tối, vang lên những giai điệu lạ kỳ. Rồi trong đêm tối, thoảng tiếng bập bùng chiếc đàn guitar. Đó là bài hát về những kẻ lang thang qua thời gian, qua không gian, không biên giới…

tình khúc cho em

Như đã rao trong bài trước, hôm nay xin được tiếp tục post nhạc của Lê Uyên Phương. Như mỗi bài hát, mỗi câu ca đều có thể liên hệ tới một phần đời nào đó đã qua của mình. Một lần, đã lâu lắm rồi, một mình đứng trên chuyến đò ngang về làng, ngày giáp Tết rét mướt, mưa phùn rải rác bay, trên bầu trời vẫn trong và xanh, đỉnh Bạch Mã sừng sững in bóng rõ nét. Cảnh núi non sông nước diễm lệ, một dãi đầm Lập An, suốt từ Lăng Cô, Bạch Mã đến Chân Mây, mùa này trong năm, thật là chốn mê hoặc lòng người.

Tình khúc cho em - Lê Uyên Phương 

Trong đám sương mờ mờ giăng ngang mặt sông, văng vẳng đâu đây câu hát: …Vì đâu mê say phồn hoa, như áo gấm sáng lóng lánh, ôm rách nát không tâm linh, ôm tiếng hát không hơi rung nghèo nàn, còn yêu chi hoa ngày xanh… Lòng thầm nghĩ: trong chốn vạn đò này cũng có người biết nhạc hay, nghĩ rồi lại tự cười mình: nhạc hay thì tự khắc có người nghe và hát, hà cớ gì phân biệt nguồn gốc, thân phận. Rồi lại giật mình, lời hát ôm tiếng hát không hơi rung nghẹn ngào bắt đầu nhắc nhở từ đó.

Đến nay trải đã nhiều năm, trên con đường tình ta đi cũng đã đến lúc như hoa đem tin ngày buồn, như chim đau quên mùa xuân… Ngoảnh đầu lại, lời hát trên bến sông năm nào vẫn còn như nhắc nhở. Đi tìm lại công thức và những gia vị cần thiết cho một cuộc sống cân bằng và hạnh phúc, xin đi lại từ đầu bằng xin cho thương em thật lòng, còn có khi lòng thôi giá băng…

fingerprint sensor & ubuntu

My right index finger scanned and correctly identified

Too much literature, too much music lately, now some technical to line up thoughts in my head. Fingerprint reader has been out for quite a long time, but has only come to my hand recently on this HP 6910p laptop. The machine has an AuthenTec AES2501 fingerprint sensor built in, and using it is quite straight – forward under Hardy Heron:

1.   Install fprint-demo, libfprint-dev, libfprint0 and libpam-fprint from the ppa.launchpad.net/madman2k repo.

2.   Use fprint_demo to enroll some fingers. Identification and verification is good for thumb and index fingers, but really bad for middle, ring and litte ones.

3.   Configure pam module to make use of fprint, add the two lines: auth sufficient pam_fprint.so & auth required pam_unix.so nullok_secure to your /etc/pam.d/common-auth file. Remember to enable still password login since fprint is quite preliminary.

Now restart your machine and enjoy! At login prompt, you would need to enter username, then enroll a finger for authentication. If enrolling fails, normal password login would then be applied. In KDE, screen-locking and gksudo work seemlessly with fprint.

I observe for a while the fingers’ scanned images, to find out how they did all the identification and verification tasks. It’s quite clear that they are using some control points (called minutiae). You can see red dots in the image on the left (binarized from raw scanned image): they are either end points or branching points (point at which vein separates into more veins). They don’t need to match all veins of fingerprints, they only need to do some pattern – matching on the set of minutiae. Given two sets of minutiae, some Cartesian measures on points’ position may be enough for matching two fingerprints.

This machine, HP 6910p, is designed for medium performance, but for advanced security: the machine has TMP chip inside, with a smart card slot, and a fingerprint sensor. That would be quite sufficient to protect your privacy.

elle imagine

Em mang trong đôi mắt đen cả một câu chuyện dài, những nẻo đường lưu đày, bóng mặt trời nhiệt đới, những buổi sáng tháng Tư nào đó xa xưa… Trong sự lãng quên, em biết mình đã đến từ phương Nam, từ những thành phố trắng toát với cái nóng bất động. Em tưởng tượng và nhớ lại, tiếng trẻ con cười trong con phố, những bàn tay vẫy chào, những giọt lệ trong ánh mắt chia tay ngước lên trời xanh…

Lời Việt: Tàn phai - Ngọc Lan 

Đã có quá nhiều tiếng cười và nước mắt, đã có quá nhiều hy vọng mong manh. Em tưởng tượng ra, trong tấm gương thời gian kia, đã từng có một thời giản đơn, nơi người ta đã sống êm đềm và hạnh phúc…

Elle imagine ou J’imagine?

nghìn trùng xa cách

Ngày chia tay, lặng lẽ mưa rơi. Một tiếng thương ôi, gửi đến cho người. Trả nốt đôi môi gượng cười. Nghìn trùng xa cách, người cuối chân trời. Đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người.

Nghìn trùng xa cách, đây có thể nói là bản nhạc tuyệt vời nhất cho những cuộc tình tan vỡ. Bài nhạc không còn là tiếc thương, vương vấn mà là thổn thức cầu nguyện cho những tâm hồn khổ đau lầm lạc. Đây phải nói là lần yêu thương chân thành nhất và đau khổ thực sự của con người đào hoa Phạm Duy. Cứ mỗi lúc tình cảm trào dâng đến chỗ tột bậc thế này, ông lại trở về với cái nguồn sacred music – âm nhạc phụng sự cho những tình cảm thiêng liêng. Nghìn trùng xa cách là một điểm son trong âm nhạc Phạm Duy.

Nghìn trùng xa cách - Thái Thanh 
Nghìn trùng xa cách - Lê Dung 

Không cần phải nói về phần lời rất đẹp, phần nhạc là một sự đơn giản lạ kỳ. Cấu trúc một bài hát thông thường phải là ABAB hay ABA (A: khúc dẫn, B: khúc điệp), Nghìn trùng xa cách chỉ có cấu trúc 2 đoạn AB, và sử dụng nhiều gam nhạc lặp đi lặp lại: mi mi fa sol, sol sol la si hay do do mi mi, la la re re. Điểm đặc biệt nhất của bản nhạc là cách chuyển giọng (modulate) từ đoạn 1 sang đoạn 2, và rất nhiều kỹ thuật tinh tế khác, với mục đích không ngoài việc làm cho lời và nhạc ăn khớp vào nhau, để vẽ nên một nét gượng cười bằng âm thanh.

Ai đã cảm được nhạc Phạm Duy rồi mới thấy nhận xét sau đây của nhạc sĩ rất đúng: âm nhạc hiện nay kém sang trọng, thiếu sự cuốn hút và rung động lòng người. Riêng tôi thì muốn nói thêm rằng: âm nhạc hiện tại còn thiếu cả sự… tử tế!.

không nhìn nhau lần cuối

Trong bao kiếp hoang vui chưa tìm thấy, xin em hãy tin mai đây là lúc sum vầy. Đâu có ai biết mai sau. Đâu có ai mãi thương đau. Đâu có ai phải muôn kiếp xa nhau.

Tôi sẽ lần lượt post nhạc của Lê Uyên Phương, mỗi lần một bài thôi. Thứ nhất là nhạc Lê Uyên Phương cũng không có nhiều, thứ hai phần lớn là những bài thật hay cả. Nhìn nhận về nhạc của Lê Uyên Phương, nhạc sĩ Phạm Duy có viết như thế này trong hồi ký (tập 3 – chương 12):

Không nhìn nhau lần cuối - Lê Uyên Phương 

Tôi nghĩ nhạc sĩ Phạm Duy nói vậy cũng không đúng lắm, đành rằng nhạc của Lê Uyên Phương không có tham vọng lớn, không theo đuổi những vấn đề mang tính cách dân tộc hay lịch sử, mà chỉ đơn thuần là nhạc của đôi lứa yêu nhau, tình yêu của họ là thứ tình điên dại, yêu cuồng sống vội, nhưng lãng mạn hóa dục tính hay trần tục hóa tình yêu thì cũng chỉ là hai mặt của một tình yêu. Ám ảnh về bệnh tật, cái chết, những suy tư trăn trở mang tính thời cuộc vẫn hiện diện trong nhạc của họ đấy thôi.

…Những ca khúc Nỗi Buồn Dâng Hiến, Buồn Đến Bao Giờ, không còn là tình sầu của họ Trịnh mà là tình điên. Nhìn đôi uyên ương này hát với lối diễn tả rất khêu gợi thì càng thấy được chất nhục tính trong nhạc của họ. Tuổi trẻ quá đau khổ chỉ còn một cách phản ứng là vùi đầu vào ái ân. Từ trong Vũng Lầy Của Chúng Ta, đôi Lê Uyên, Phương đưa ra những bài hát ngây ngất như đôi người tình vừa ôm ấp nhau, hay chán chường như họ vừa buông nhau ra sau một trận ân ái. Chúng ta cho nhau lần cuối nhưng cũng không nhìn nhau lần cuối!

Khác chăng là cách nói, Phạm Duy viết nhạc tình dù nồng nàn đến bao nhiêu vẫn có chút bóng gió, tế nhị: Tôi xây lại mộng mơ năm nào, bờ biển sâu, hai đứa tôi gần nhau (Nha Trang ngày về), Rước em lên đồi, cỏ hoang ngập lối. Rước em lên đồi, hẹn với bình minh (Cỏ hồng), nhạc Lê Uyên Phương chỉ nói rõ hơn một chút, và cũng nói rõ mọi mặt của một tình yêu hoàn hảo, một cuộc sống lứa đôi, mà nào có đâu dung tục? Nhạc Lê Uyên Phương là thứ thuốc phiện kinh khủng cho những ai đã, đang và sẽ yêu.

dạ khúc cho tình nhân

…Thương em khi yêu lần đầu. Thương em lo âu tình sau.
Dù gương xưa không được lau. Soi lấy bóng mối duyên sầu.
Cho tôi yêu em nồng nàn. Dù biết yêu tình yêu muộn màng.

(Tình khúc cho em – Lê Uyên Phương)

…Không thể nào quên được những đêm thật tuyệt vời của Ðà Lạt vào những năm của thập niên 60. Chúng tôi, như phần đông những người trẻ lúc đó, thường hay la cà khắp các quán cà phê ở Ðà Lạt, nhất là cà phê Tùng gần chợ Hòa Bình. Cái phòng vuông vức với những hàng ghế liền bọc plastic đỏ, những chiếc bàn thật thấp, trên tường có một bức tranh lớn vẽ một người chơi guitar theo lối nửa lập thể, nửa ấn tượng, và cái không gian đầy khói thuốc trộn lẫn với âm nhạc nhẹ phát ra từ chiếc loa không lớn lắm đặt trên cao, tất cả đã trở thành một thứ ma túy đối với chúng tôi…

Tôi đã nghe nhạc của Lê Uyên Phương từ lâu, những câu nhạc quen thuộc, cứ hát nhưng không biết là nhạc của ai: em ơi, xin em, xin em nói yêu đương đậm đà, để rồi ngày mai cách xa, như hoa đem tin ngày buồn, như chim đau quên mùa xuân… Mãi về sau khi một người bạn hát cho nghe bài Dạ khúc cho tình nhân, tôi thấy rất hay bèn hỏi là nhạc của ai, bạn tôi trả lời… của Tuấn Ngọc. Bắt đầu tìm hiểu về Lê Uyên Phương từ đó, những album, bài hát, từ cái tiêu đề, ca từ cho đến nhạc, nhất là nhạc, đã phảng phất vẻ khác người, đứng riêng một đôi trai gái thắm thiết yêu nhau trên bầu trời ca nhạc.

Dạ khúc cho tình nhân 
Hãy ngồi xuống đây 
Vũng lầy của chúng ta 

Những tên album: Khi loài thú xa nhau, Tình như mây cõi lạ, Nỗi buồn dâng hiến…, những tên bài hát: Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng ta, Ngồi lại trên đồi, Bài ca hạnh ngộ, Loài hươu đa cảm, Tình khúc cho em… phảng phất nét hiện sinh chủ nghĩa phổ biến trong giới văn nghệ sĩ trước 1975, mà vẫn có nét ái tình, u buồn, khát khao riêng biệt. Nếu như miền Nam lúc đó, đã có một Phạm Duy & Thái Thanh, với gốc gác Hà Nội xưa, đã có một Trịnh Công Sơn & Khánh Ly mang màu sắc Huế trầm mặc, hai phong cách lớn trên khung trời âm nhạc, thì bỗng dưng xuất hiện một đôi trai gái yêu nhau, họ đã mang khí trời Đà Lạt thổi vào đời sống văn nghệ lúc đó.

Về tầm vóc, thật khó so sánh Lê Uyên Phương với Trịnh Công Sơn hay Phạm Duy. Trịnh Công Sơn có một khối lượng tác phẩm lớn với ngôn từ uyên áo. Phạm Duy có một lượng tác phẩm đồ sộ, phong phú và sáng tạo hơn nhiều về mặt âm nhạc. Lê Uyên & Phương thì chỉ có những bài hát về cuộc tình của họ, dường như ngoài hai con người yêu nhau kia ra, chẳng gì khác tồn tại: chiến tranh, chết chóc, cuộc sống khốn cùng… Nhưng xét từ một khía cạnh khác, Lê Uyên Phương có chỗ đứng ngang hàng với những “đại gia” âm nhạc kể trên. Nếu như nhạc Phạm Duy không tách rời cái số nhà 54 Hàng Dầu, nơi tác giả sinh ra: Nhà tôi ở phố Hàng Dầu, Số nhà năm bốn đứng đầu… du côn, không tách rời các làn điệu ngũ cung ba miền đất nước; nhạc Trịnh (phải nói là khá đơn điệu) là nhạc thất cung (ảnh hưởng nặng nề của giáo dục âm nhạc Pháp), thì Lê Uyên Phương, có lẽ là người đầu tiên tiếp nhận ảnh hưởng rock, blue, jazz Mỹ mà đem vào âm nhạc của chính mình, biến nó thành của mình không có chút nào ngượng ngập, khiên cưỡng.

Nhạc Lê Uyên Phương trong khổ đau chân thực vẫn luôn tiềm ẩn sức sống và khát vọng rất riêng, như chính một lời hát: trong đau đớn điên cuồng đó, vun kiếp sống không ngơi. Họ sinh ra là để yêu nhau và ca hát, như mỗi lần từ Sài Gòn (nơi họ biểu diễn để kiếm sống), trở về Đà Lạt, để tiếp tục bên nhau và có những sáng tác mới về cuộc tình của chính mình. Xin gửi đến các bạn ba bài hát trong album Khi loài thú xa nhau, album ghi dấu cuộc tình lãng mạn Lê Uyên & Phương. Có nhiều bản thu âm (của những ca sĩ khác) có thể ấn tượng hơn, nhưng nhạc của Lê Uyên Phương, xin nghe trình bày từ chính Lê Uyên & Phương.

Một cuộc tình như thế cuối cùng lại có một kết cục (theo tôi) là tầm thường. Âu cũng là số phận và căn cơ con người chỉ đến thế, cũng là một bài học về cái cơ địa (đáng buồn) của nhiều (đa số) người Việt chúng ta, cũng là một dạng định mệnh, đến và đi, không thể khác được. Nhưng ít nhất họ cũng đã có 15 năm chung sống, một tình yêu thật đẹp, và một sự nghiệp âm nhạc đầy mầu sắc, họ chẳng có gì để tiếc nuối.

tầm dương giang đầu

Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận,
Anh lụy đời quên bến khói sương.
Năm tháng, năm cung mờ cách biệt,
Bao giờ em hết nợ Tầm Dương?

君不見黃河之水
天上來奔流到海不復回

勸君更盡一杯酒
西出陽關無故人

醉臥沙場君莫笑
古來徵戰幾人回

潯陽江頭夜送客
楓葉荻花秋瑟瑟

抽刀斷水水更流
舉杯消愁愁更愁
人生在世不稱意
明朝散髮弄扁舟

Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời. Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi. Long lanh tiếng sỏi vang vang hận. Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người… (Xuân Diệu)

Chiều thu nhớ nhung vì đâu, thắm đôi dòng châu, tiếc thay tại sao đành lỡ làng. Man mác khói hương bay dịu dàng. Như tóc mây vương dáng liễu mơ màng, cung đàn nhỏ lệ Tầm Dương. Ai đó tri âm biết cùng

Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận, Anh lụy đời quên bến gió sương. Năm tháng, năm cung mờ cách biệt, Bao giờ em hết nợ Tầm Dương? (Hoàng Cầm)

Về những tác phẩm Đường thi quan trọng, ai chỉ từng tham khảo những cuốn cơ bản như Đường thi nhất bách thủ (100 bài), Đường thi nhất thiên thủ (1000 bài), cũng đã thấy đó là cả một gia tài văn chương đồ sộ, ảnh hưởng của chúng đến đời sau thực không cần phải nói tới. Những ông bạn già ba tôi, những người quen của gia đình tôi, mỗi khi ngồi lại ăn nhậu với nhau, thế nào cũng có một vài câu Đường thi được đọc, ví dụ như:

Anh có thấy sông Hoàng Hà, Con sông vĩ đại nước sa lưng trời. — Quân bất kiến Hoàng hà chi thủy, Thiên thượng lai bôn lưu đáo hải bất phục hồi.

Xin vơi một chén quan hà, Dương quan chốn ấy ai là cố nhân. — Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu, Tây xuất Dương quan vô cố nhân.

Sa trường say ngủ ai cười, Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu. — Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách, Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.Tầm Dương giang đầu dạ tống khách, Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.

Cầm dao chặt nước nước cứ trôi, Nâng chén tiêu sầu sầu không vơi. Người đời nếu chẳng được như ý, Sớm mai xõa tóc cỡi thuyền chơi.Trừu đao đoạn thủy thủy cánh lưu, Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu. Nhân sinh tại thế bất xứng ý, Minh triêu tản phát lộng biên châu.

Lúc nhỏ, tự học đọc và viết được Hán tự, thuộc vài ngàn bài Đường thi, Tống từ, tôi đã lấy làm tự phụ rằng còn thuộc nhiều thơ hơn cả mấy ông già bạn ba tôi. Chỉ sau này mới thấy cái vốn Hán học của mình bé như hạt cát, chỉ mới là dạng đọc mau nhớ thôi. Tuy vậy vài năm lúc tuổi nhỏ cũng đủ để nhận được cái hồn cổ văn lồng lộng, những u tình sâu kín, cũng đủ thấy cốt cách người xưa… Lớn lên, tôi dần cảm thấy thích âm nhạc hơn, mà xa rời văn chương, có lẽ vì âm nhạc dễ tiếp thu hơn, mà văn chương thì đòi hỏi quá nhiều công phu hơn.

Nguyệt cầm – Cung Tiến - Thái Thanh 
Tiếng xưa – Dương Thiệu Tước - Thu Hiền 
Tình cầm – Phạm Duy - Tuấn Ngọc 

Tuy vậy, ảnh hưởng của cổ văn, cổ thi, nó bàng bạc khắp nơi, không dễ gì thoát ra được. Ảnh hưởng lên văn học Việt Nam sâu đậm nhất, có lẽ không tác phẩm nào khác ngoài Tỳ Bà hành – Bạch Cư Dị. Không kể đến trong cổ văn (mà dấu vết của Tỳ Bà hành có thể được tìm thấy nơi nơi), ngay trong Thơ mới, dấu vết của nó cũng không ít. Câu chuyện của tác giả và người kỹ nữ đánh đàn tỳ bà tình cờ gặp lúc đêm khuya trên bến sông Tầm Dương để lại cho hậu thế biết bao nhiêu mối hoài cảm. Cả một áng thơ dài, câu nào cũng đầy tình ý:

Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa, oanh ríu rít nhau,
Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt,
Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, mang hận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng lẽ bây giờ càng hay.

Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.
Tần ngần dường cảm lời ta,
Dén ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.
Nghe não ruột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.

Nguyên bản Hán văn, phiên âm cũng như bản dịch thơ nổi tiếng của Phan Huy Vịnh, xin đọc ở đây. Đọc Tỳ Bà hành rồi dễ liên tưởng đến tác phẩm có phần tương tự của thi hào Nguyễn Du: Long thành cầm giả ca龍城琴者歌, tuy nhiên bài này lại nặng về tính thế sự hơn là về tình cảm cá nhân, nên sự xúc động gây ra trong lòng người thiết nghĩ cũng không sâu sắc bằng:

Thành quách suy di nhân sự cải, Kỷ độ tang điền biến thương hải. Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong, Ca vũ không lưu nhất nhân tại城郭推移人事改幾度桑田變蒼海西山基業盡消亡歌舞空留一人在. Ảnh hưởng trong văn thơ thì đã quá nhiều rồi, hôm nay tôi xin đưa một vài ví dụ nhỏ, ảnh hưởng của Tỳ Bà hành trong Tân nhạc, bằng trí nhớ lu mờ của mình, xin chép tặng các bạn một vài bài nhạc hay mang âm hưởng của bến Tầm Dương năm xưa.

hương xưa – scents of yester-years

Khói dâng huyền ảo tiếng ca,
Rừng phong lác đác sương sa bóng chiều.
Tầm Dương bến cũ hoang liêu,
Ai đem hết cả tiêu điều thời xưa.
Phổ vào cung bậc gió mưa,
Tiếng ca chìm dứt, còn chưa tạnh hờn.

Mỗi lần ngồi lại hát bài này là lại buồn, cái buồn như đã ngầm định tự bao giờ, cái buồn tự bài nhạc đã nói lên hết cả: ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một kiếp xa xôi, dù đã quên lời hẹn hò… lời Đường thi nghe vẫn rền trong sương mơ… tình Nhị Hồ vẫn yêu âm xưa, cung Nguyệt Cầm vẫn thương Cô Tô… vẫn yêu muôn đời nàng Quỳnh Như thuở đó… .

Hương xưa - Mai Hương 

Chợt nhớ đến cái “tổ cú” 45-HHBạc của chúng ta ngày trước, cái thời lầy lội, nhà dột mưa ướt, ngồi ôm đàn hát suốt đêm… Nhớ Chính “béo”, cứ mỗi lần gặp nhau lại nhắc: anh Xuyên, anh hát Hương Xưa đi!… Cái thằng nhạc cảm tuyệt vời, không biết mấy về nhạc xưa, mà nghe một chút là thấy ngay dáng nhạc. Đến giờ thì cũng chẳng nhớ cái “hương xưa” đó là “hương xưa” nào, yester-years cũng chỉ là một yester-years nào đó thôi, không biết đã từng có không, mà có cũng không biết còn nhớ không nữa…

La restauration: bài hát này phảng phất nét Thánh nhạc (nhạc nhà thờ) ẩn tàng bên dưới. Ca khúc đã được đặt lời Anh bởi Paulina Nguyễn (Giáng Tiên) với tựa đề mới: Scents of yester-years. “Chuông được đem đi đánh xứ người” trong chương trình Duyên Dáng Việt Nam 18 tổ chức ở Singapore, nhạc sĩ Đức Trí làm hòa âm, trình bày là Đức Tuấn và Nguyên Thảo.

Việc chuyển ngữ thực sự khá tốt, không dể với một bài vừa cổ điển về lời và về nhạc như thế này. Nếu như phần tiếng Anh phát âm chuẩn một chút nữa thì sẽ hay hơn. Thật sự là không ngờ một bài hát cũ lại có thể hồi sinh như thế! Về lyric tiếng Anh, do phần chuyển ngữ này còn quá mới, không thể tìm đâu ra trên mạng phần lyric được. Báo hại phải ngồi nghe đi nghe lại bao nhiêu lần mới viết được một phần lời, còn thiếu một vài chỗ.

Have you ever let your soul wander along a dream? A dream of a path to far away dear home, sweet home. Where leaves sound are whispering, where trees still stand waiting. Where nights are still immense with stars and sounds of distant flutes.

And I still remember tales of once upon a time. When life was filled with sweet dreams and peaceful lullabies. The sound of spinning looms, shadows of lazy kites. And all of my everlasting loving memories.

Oh, I have wandered in my dreams through every night. Not much joy in my life. For love and life are often at strife. Though I have been calmly waiting. Melodies of old moon lutes, hamonize with (a) romance mood. And the strings of violin softly sing in the breeze. Just like my heart is chanting for love.

Oh, I have gone through nights dreaming about your love. And get used to despair. The good old days have gone far away. When will I be in love again? Nights embraced in pure silence. Days began with innocence. Now there’s only emptiness, and sorrowful regrets. Love is sinking in darkness.

My love, is the sun still shining warmly everywhere? Don’t you hear the sounds of falling leaves in autumn night? Has love ever been sweet. Or filled with bitterness. Just keep your heart widely open to love and to life. Life is as sweet as lovers’ song. Life is as sweet as lovers’ song.

Cũng xin cám ơn sự hỗ trợ từ bạn hadang82. Bạn nào nghe được rõ ràng hơn xin góp phần hiệu đính chỗ lyric này. Sau một thời gian tìm kiếm, được sự giúp đỡ từ chính tác giả ca từ Paulina Nguyễn (xin xem phần comment), thông qua bạn hadang82, nay tôi đã có được phần lời ca gốc (tiếng Anh). Xin cảm ơn tác giả Paulina Nguyễn và bạn hadang82. Xin đăng lại lời ca ở đây để mọi người cùng tham khảo.

⓵⏎ Về chuyện tình bi lệ của Trương Quỳnh Như và Phạm Thái, điển tích được nhắc đến trong bài hát, xin đọc thêm Văn tế Trương Quỳnh Như, đọc Sơ Kính Tân Trang (Phạm Thái) hay tiểu thuyết kiếm hiệp Tiêu Sơn tráng sĩ (Khái Hưng).

chảy đi sông ơi

Chảy đi sông ơi,
Băn khoăn làm gì.
Ai sống mãi được?
Em thì nông nỗi,
Anh thì mê mải.
Anh đi tìm gì?
Lòng đời đen bạc,
Mỹ nhân già đi.

Lời ai than thở,
Thoảng trong gió chiều.
Anh hùng cười gượng,
Nét buồn cô liêu…

Từ lâu đã thích văn của Nguyễn Huy Thiệp, thích nhưng cũng ngán ngẩm cái lối ác nghiệt, mỉa mai, thâm độc của tác giả. Giá như mà cuộc đời không chua cay như thế, thì cũng đâu có được một Nguyễn Huy Thiệp? Đem điều cao đẹp nhất trộn lẫn với điều thấp kém kém nhất, đem triết học, đạo đức vào tận cùng đáy xã hội, đem suy tư, đau khổ vào cái hồn nhiên, ngây thơ… Như bản đồng dao dân dã dưới đây, ai có thể ngờ lại có nội dung hiện đại đến vậy. Những chất liệu sống trần trụi, chân thực và lãng mạn trong những gì Nguyễn Huy Thiệp viết là quá đủ để nhạc sĩ Phó Đức Phương viết nên ca khúc nổi tiếng cùng tên.

Tập truyện ngắn Chảy đi sông ơi đã được dịch sang tiếng Anh dưới tựa đề Crossing the river (cái tựa đề được dịch rất chi là “chuối”), NXB Curbstone Press phát hành với một lời bình luận chẳng đâu vào đâu: điểm thu hút nhất của tác phẩm là tính cổ truyền và những điển tích được lồng ghép nhuần nhuyễn vào bối cảnh đương đại… Chừng nào con người còn tin vào điều này – chuyện ngày xưa gìn giữ cho ta những giá trị vững bền về gia đình và lý tưởng, và là cách để kết nối hôm nay với hôm qua.

MƯA – Nguyễn Huy Thiệp

Phong vận kỳ oan ngã tự cư (Nguyễn Du) [*]

 

Em,

Anh bắt đầu truyện ngắn này lúc 8 giờ sáng trong một quán cà phê tồi tệ nhất thành phố. Quán vắng khách, không ai quấy rầy anh. Trời đang mưa.

Anh ngồi viết… Khuôn mặt em hiện ra trong anh. Em đang ở xa. Em đang ở đâu? Những ý nghĩ của anh hướng cả về em. Em hiển hiện. Em ngồi bên cạnh và sắp xếp những con chữ rời rạc.

Hôm ấy trời cũng mưa, mưa như trút. Anh và em ngồi trong xó tối. Trước mặt chúng ta có hai phụ nữ, một người thấp, một người cao, cả hai đều đẹp. Anh nhắc em chú ý đến cô gái cao, để tóc xõa, mỗi khi cười lại hay ngả người vào ghế. Em hỏi anh tên người ấy. Anh bảo: Gọi gì mà chẳng được! Tên người cũng là một thứ ký hiệu thôi. Anh gọi cô ta là N. Em bảo: Thế người ngồi cạnh là M. à? Anh bảo: Phải!

Mình biết không? – M. nói – Mình chẳng hiểu gì về hắn. Đời mình sẽ tan nát vì hắn mất thôi. Tớ van mình, mình đừng yêu hắn!

Không, tớ chẳng yêu đâu. Tớ chẳng dại… – N. cầm một bông hoa trên bàn xé nhỏ. – Nhưng hắn hiền lành và thông minh lắm. Gần hắn, tớ sẽ học được cái gì chăng?

Với bọn đàn ông thì người phụ nữ chẳng học được cái gì đâu. Chúng chỉ chăm chăm một việc là đè mình ra giường rồi tỉ tê những lời đường mật. Chúng mình tưởng bở, chúng mình tưởng đấy là tình yêu, là tính người. Thế là hết đời!

Sao mình ác khẩu thế? – N. thở dài. Họ yên lặng một lúc. Nghe rõ tiếng mưa rơi. N. nói:

Hắn đọc thơ, bằng một giọng trầm, hay không tả được.

Lại thơ nữa! Thằng đàn ông nào khi quyến rũ đàn bà mà chẳng làm thơ? Chúng làm thơ suốt từ thời người vượn nguyên thủy đến nay, được những bốn nghìn năm rồi.

Mình hôm nay thế nào ấy. Thế mình lấy chồng, mình có hạnh phúc không?

Ừ, ừm… không biết. Nhưng mà chắc có đấy. Có điều tay chồng tớ đểu kinh khủng. Tớ biết hắn lừa tất cả mọi người. Thế mà trước khi lấy hắn, không hiểu sao tớ thấy hắn cao thượng thế!

N. cười khẽ. Khi cười, mái tóc xõa ở bên thành ghế.

Mình cho tớ xin một điếu thuốc lá. Từ khi lấy chồng, tớ phải hút trộm… Chồng tớ thấy, hắn sẽ đánh tớ.

Tại mình cả thôi. Tớ đã bảo đấy là một thằng đàn ông đê tiện cơ mà!

Tớ rất ghét chồng mình, tớ chưa bao giờ thấy chồng mình nói thật bao giờ. Thôi, số kiếp cả. Làm sao được? Thân tớ thế là coi như xong rồi đấy. Rồi tớ sẽ đẻ con, vào bệnh viện, không hiểu sao tớ nghĩ sau này tớ sẽ bị liệt, thế là hết đời. Nhưng mà mình, tớ van mình, mình đừng yêu hắn!

Không, tớ chẳng yêu đâu. Tớ chẳng dại…

Mình thề đi. Tớ van mình. Mình đừng yêu hắn!

Em hỏi: Sao thế nhỉ? Sao người ta lại đi can gián tình yêu? Anh bảo: Em đừng sốt ruột. Một người đáng kể thế kia thì chẳng bao giờ thề thốt gì đâu.

M. ngồi hút thuốc. Ánh lửa ở đầu điếu thuốc đỏ rực.

Tớ van mình. Mình đừng yêu hắn. Mình thề đi!

Không! Mình đừng bắt tớ thề. Buồn cười lắm!

Mình có hiểu một người như hắn tệ hại đến thế nào không? Hắn thích gì hắn sẽ làm nấy. Hắn có thể đánh nhau đấy!

Ừ…

Tớ đã biết hắn. Hắn rất khinh người. Một người như thế là không tôn trọng ai đâu.

Nhưng hắn đối xử với tớ rất tốt… Dễ thương nữa.

Mình chẳng hiểu gì cả! Ai mà hắn chẳng tốt! Hắn bịp bợm đấy! Hắn chẳng coi cuộc sống ra gì. Mình có thấy cách chi tiêu của hắn không? Nếu có một quốc gia trong tay thì hắn cũng chỉ chi tiêu trong năm phút.

Thơ của hắn lạ lắm!

Lại thơ! Mình cứ mơ mộng thế là chết đấy! Hắn ham chơi lắm, mình đã thấy hắn đá cầu với một thằng bé con sáu tiếng đồng hồ! Mình cứ tưởng tượng xem, sáu tiếng đồng hồ người ta làm được bao nhiêu là việc! Ngộ nhỉ?

Ngộ gì mà ngộ? Có mà điên!

Họ lại ngồi im lặng. Nghe rõ tiếng mưa rơi.

Tớ van mình. Mình cẩn thận đấy! Mình có hiểu tình yêu của một tay đàn ông như thế thì thế nào không?

Không… Tớ biết sao được.

Nó sẽ làm lòng dạ mình tan nát như chơi…

Mình chẳng hiểu gì cả… Hắn chỉ làm mọi việc theo ý hắn thích mà thôi. Khi hắn yêu hắn sẽ quên hết… Mà như thế thì khổ lắm… mà ngượng lắm!

Sao lại ngượng?

Thế mình chỉ sống có mỗi một mình thôi à? Mình còn có bạn bè, bố mẹ, lại còn ông bà, rồi còn sự nghiệp nữa.

Ừ, bà thì rắc rối lắm!

Chứ còn gì nữa? Hắn sẽ gạt tất cả sang bên. Hắn sẽ cười vào mũi tất cả, cười rất khả ố… Hắn chẳng coi mọi sự là cái gì đâu! Tớ cấm mình yêu hắn đấy!

Ừ!

Tớ van mình… Mình đừng yêu hắn…

Thơ của hắn rất lạ… chẳng có đầu có cuối gì cả. Này nhé:

Chính bởi thế mà nửa đêm ta dậy
Lang thang khắp phố phường.

Bởi cái gì?

Ma nào mà biết được? Tớ cũng hỏi hắn thế… Hắn cười, hắn cũng không biết nốt. Hắn chỉ lên trời…

Lại thế nữa… Thế là điên rồi đấy!

Mà còn thế này nữa:

Ta nhổ một cái lông chân
Đem so xem nó có giông lông trâu không?
Ta ký một hợp đồng
Và ra sức lùa gió về
Trong căn phòng trống trải của ta…

M. nhỏm người lên:

Ký hợp đồng với ma quỷ đấy! Chắc chắn thế! Tớ biết mà… Hắn không chơi với người đâu, hắn chỉ chơi với ma quỷ thôi…

Hắn có thể chết bởi những điều rất vớ vẩn… Mà hắn cả tin lạ lùng.

Thôi đi… Tớ van mình. Mình đừng mơ mộng nữa. Cả tin với không cả tin. Tất cả đều một giuộc!

Quả thực, tớ chưa thấy người nào đáng kể như hắn. Hết sức nồng nhiệt, tối tăm như đêm tối chính trực nữa…

Mình yếu đuối lắm!

Họ lại ngồi im lặng. Nghe rõ tiếng mưa rơi.

Này, tớ van mình… Mình đừng yêu hắn…

Ừ…

Em hỏi: Tình yêu là gì? Anh bảo: Đây là nét phong nhã bậc nhất của đức hạnh. Không phải người nào cũng hiểu được đâu. Em hỏi: Sao khi yêu nhau người ta làm thơ? Anh bảo: Tình yêu sinh ra tài năng. Thơ là thử tài năng tầm thường nhất. Em bảo: Tài năng nào mà chẳng tầm thường… Anh bảo: Có một thứ tài năng không tầm thường. Em hỏi: Anh biết à?, Anh bảo: Biết. Em hỏi: Anh có nó không? Anh bảo: Có. Em bảo: Thế thì em yêu anh.

Này, tớ van mình… Mình đừng yêu hắn…

Ừ…

Để tớ kể mình nghe chuyện này. Ngày xưa hắn đã yêu một thiếu nữ. Cô ấy con nhà gia giáo. Mình có biết một thiếu nữ trinh thục là thế nào không? Môi cô ta lúc nào cũng thắm đỏ. Đáy mắt cô ta ánh xanh như vỏ trứng chim sáo. Cô ta được nuôi dưỡng bằng truyện cổ tích và toàn cơm tám giò chả. Một thiếu nữ được nuôi như thế thì da trắng hồng.

Thôi, mình bỏ trò miêu tả ấy đi. Khó chịu lắm. Một thiếu nữ trinh thục là rất khó chịu…

Ừ thật thế đấy. Hắn đến… liệu hắn có biết thứ quà tặng gì đối với cô ta có thể làm chết người như là tình yêu của hắn hay không? Tớ cũng tin hắn yêu say đắm. Một cô gái như thế thì sao lại không yêu được? Có thể khi đến với cô ta, lòng hắn sẽ yên tĩnh lại, sẽ không sôi réo nữa. Hắn sẽ tu tỉnh, hắn không du côn và lêu lổng nữa. M. im lặng, cô ta lại châm một điếu thuốc lá. ánh lửa ở đầu điếu thuốc đỏ rực. Nghe rõ tiếng mưa rơi…

– Thế… Không thể nói rằng hắn là kẻ vô giáo dục được. Hắn chỉ hơi dám đến gần cô ta. Không phải là hắn yêu đâu, hắn chiêm ngưỡng, hắn thờ phụng cô ta như thể người ta thờ phụng Đức thánh Trần.

Sao lại Đức thánh Trần?

Tại vì đây là thứ tình yêu chẳng có hôn hít gì cả. Chỉ có tình yêu với Đức thánh Trần mới như thế chứ…

Ừ tớ hiểu rồi. Kể cũng kỳ lạ đấy. Hình như bây giờ hắn đã bạo hơn…

Mình im đi! Tớ van mình, mình không được nghĩ gì về hắn nữa đấy.

Ừ.

Thế… hắn với cô ta như thể hai người trong mộng. Cô ta héo hắt đi vì hắn. Mình tưởng tượng xem… Một cô gái mới lớn, lần đầu tiên biết yêu. Còn hắn, một con dê xồm mồ hôi dầu, cười nói thản nhiên như côn đồ. Hắn có thể trồng cây chuối trước mặt bố mẹ cô ta. Bố cô ta là một trí thức, ông treo ảnh danh nhân trên tường, yêu thích văn học cổ điển, nhạc cổ điển và chính trị cổ điển. Còn hắn, hắn biểu diễn âm nhạc bằng cách thọc hai ngón tay vào miệng…

Ngộ nhỉ?

Ngộ gì mà ngộ… Hắn bắt một con thạch sùng rồi để lên bàn. Hắn trình bày thế giới bằng cách miêu tả con thạch sùng ấy. Thượng tầng kiến trúc là đầu, hạ tầng cơ sở là chân, khúc đuôi là đạo đức. Hắn cho rằng đạo đức rụng rồi lại mọc, đạo đức có thể ngoe nguẩy một mình, còn toàn bộ sự sống chuồn mất…

Thật quá quắt!

Đấy. Mình bảo như thế thì ai chịu được.

Không chịu được thật…

Tớ van mình… Mình đừng yêu hắn!

Được rồi. Thế tình yêu của hắn với cô gái kia thế nào?

Hắn quyến rũ cô ta, hay là cô ta quyến rũ hắn… Cũng chẳng biết được. Họ say mê, quyến luyến nhau… Xa cô ta một ngày là hắn gây sự. Kể ra cũng không thể phàn nàn gì về một tình yêu như thế. Quả thực, nếu đấy không gọi là tình yêu thì tớ cũng không biết thế nào là tình yêu nữa…

Tớ hiểu rồi… Tớ biết rất rõ. Mình lại nghĩ đến hắn phải không? Tớ cấm đấy. Tớ van mình… Mình đừng yêu hắn…

Ừ. Mình kể tiếp đi.

M. lại hút thuốc. Im lặng. Nghe rõ tiếng mưa rơi.

Em hỏi: Cuộc sống cơ bản là buồn, phải thế không? Anh bảo: Không có tình yêu buồn. Em hỏi: Một trong hai cô gái kia thì ai hạnh phúc? Anh bảo: Một cô vừa đánh tuột mất hạnh phúc. Còn cô kia đang có hạnh phúc trong tay, nhưng không khéo cũng đánh tuột mất.

M. kể tiếp:

Họ yêu nhau. Hắn đính hôn với cô ta. Mọi người ngăn cản. Hắn khuyên cô ta trốn…

Trốn đi đâu?

Chắc là phải trốn đến nơi nào thật lạc hậu.

Sao thế?

Thì những nơi văn mình ai chứa được một người như hắn? Không có gì với hắn là quá cao, cũng chẳng có gì với hắn là quá thấp…

Họ trốn chứ?

Đúng vào phút cuối cùng thì họ từ bỏ ý định, từ bỏ lời thề.

Khốn kiếp?

Ừ.

Hắn có quay lại không?

Một người như hắn thì đời nào quay lại? Lòng cao thượng của hắn là lòng cao thượng của quỷ chứ đâu phải của người! Hắn biết rằng chỉ vì một cô gái thì không đáng để hắn hy sinh cuộc đời, dù rằng đấy là một cô gái trinh thục, môi lúc nào cũng đỏ thắm, da trắng hồng…

Hắn đi luôn à?

Phải! Hắn đi luôn… mất tăm mất tích. Hắn đặc biệt nhạy cảm với sự nhục mạ…

Sau đó thì sao?

Cô ta ốm lăn lóc nhưng không chịu uống thứ thuốc hắn gửi đến, thuốc mà làm gì… Thời gian trôi đi, cô ta bắt đầu tiêu phí đời mình. Cô ta hiểu rằng không có một người đàn ông thứ hai như thế…

Họ lại ngồi im lặng. Nghe rõ tiếng mưa rơi. – Này… Tớ van mình. Mình đừng yêu hắn. Hắn không có lòng đại lượng. Hắn không tha thứ cho ai… Mình, mình đừng yêu hắn. Hắn là quỷ sứ!

N. lục lọi đâu đó trong túi rồi đặt lên bàn một tấm ảnh nhỏ.

Ảnh hắn đấy…

Mình… tớ van mình… Mình đừng yêu hắn. Mình hãy đốt tấm ảnh ấy đi… Hãy xé đi…

Mình…

Không! Phải tự tay mình! Mình xé nó đi!

N. cầm bức ảnh trên bàn lặng lẽ xé nhỏ.

Chớp lóe sáng. Có tiếng sấm rền. Nghe rõ tiếng mưa rơi.

Khốn nạn!

Mình bảo ai khốn nạn?

Mình không hiểu đâu… Mình không biết rằng sau mối tình ấy cuộc đời trở nên khốn nạn thế nào?

Cô ta còn sống à?

Không, cô ta chết rồi! Tâm hồn cô ta chết rồi Cô ta chỉ còn hình hài. Cô ta thành kẻ đê tiện. Cô ta lấy chồng. Chồng cô ta cũng đê tiện đấy. Hắn ăn cắp rất giỏi. Hắn đánh cô ta mỗi khi cô ta hút thuốc.

Tớ không hiểu… Thế là thế nào?

Mình… Tớ xin lỗi mình… Mình đã xé tấm ảnh đi rồi… Mình đã làm điều mà tớ mong muốn… Họ ngồi yên lặng. Nghe rõ tiếng mưa rơi. Bỗng nhiên cả hai khóc òa. M. nói, giọng đầm nước mắt:

Tớ xin lỗi mình… Thế mình tưởng tớ tha thứ cho mình vì mình xé tấm ảnh đi ư?

Mình… mình sao thế?

Mình chẳng hiểu gì cả? Mình tưởng tớ kể như vậy là lòng tớ thư thái hay sao? Sẽ thanh thản hay sao? Mình không biết tớ đã rứt từ tim tớ từng mảnh thịt một…

Mình… mình… Sao thế mình…

Mình tưởng tớ sẽ tha thứ cho mình vì mình độc ác thế à? Không, mình hiểu không? Nếu cần, tớ sẽ bỏ chồng, bỏ hết để đi theo hắn. Hắn vào tù thì tớ đưa cơm. Tớ sẽ theo hắn cùng trời cuối đất… Chỉ cần hắn quay lại… Nhưng hắn sẽ không bao giờ quay lại…

Giời ạ. Sao mình lại kể, sao mình lại kể?

Vì sao ư? Vì tớ không muốn… Mình hiểu không, tớ không muốn hắn rơi vào tay một người đàn bà nào khác, rơi vào tay mình.

N. đứng dậy đi ra ngoài trời. Một lúc sau, M. cũng đi ra nốt. Nghe rõ tiếng mưa rơi. Tiếng mưa rơi buồn không tả được.

Em hỏi anh: Cuộc sống cơ bản là phải thế không? Anh bảo: Không. Em hỏi: Người đàn ông mà hai người nói chuyện ấy là ai? Anh bảo: Không biết.

Em hỏi: Là công nhân, nông dân hay thợ thủ công? Anh bảo: Không biết. Em bảo: Chắc là nghệ sĩ. Vì cô ta đọc thơ. Anh bảo: Thơ gì lại thế? Em có muốn nghe thơ anh không? Thơ của anh cũng có nhổ lông. Em bảo: Thôi, để khi khác. Nhưng em áy náy quá, không biết hắn là ai. Em bảo: Em thấy cô ta cầm tấm ảnh in trên tờ báo. Chắc là một nhà chính trị. Anh bảo: Không biết. Em bảo: Hắn thật đáng kể.

Mưa.

Ngoài trời kia vẫn mưa. Khuôn mặt em hiện ra trong anh. Em đang ở xa. em ở đâu Những ý nghĩa của anh hướng cả về em. Bây giờ là 2 giờ chiều. Anh đã ngồi viết truyện ngắn này sáu tiếng đồng hồ. Sáu tiếng đồng hồ liền.

Sáu tiếng đồng hồ. Nhân vật chính trong truyện của anh đá cầu sáu tiếng đồng hồ. Cái thằng vô lại ấy! Một tên Cao Cầu bất hủ!

Em ở đâu?
Ngoài kia trời mưa
Bao giờ thì em về? Hả em?

 

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

[*] Ta tự coi mình như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan nghiệt lạ lùng vì nết phong nhã.

moby dick


Thực sự muốn giới thiệu đến các bạn cuốn sách gối đầu giường của tôi lúc nhỏ, đỉnh cao, cao nhất của văn học hiện thực – lãng mạn Mỹ và của cả văn học Anh ngữ: Moby DickHerman Melville. Truyện đã được dịch sang tiếng Việt dưới tựa đề Cá voi trắng bởi Công BaSơn Mỹ, NXB Mũi Cà Mau, 1987. (Google tất cả các trang web tiếng Việt không kiếm được một soft – copy nào của bản dịch này cả).

Đến đây nhớ lại một chút kỷ niệm thời thơ ấu, năm tôi học lớp 3, lớp 4 gì đó, trong một giờ làm văn ở lớp (hình như đề bài là viết về ước mơ sau này của mình) tôi đã lôi cả con tàu Pequod và thuyền trưởng Ahab vào, báo hại cô giáo không hiểu mô tê gì đã mời bố mẹ lên trao đổi. Chuyện bây giờ nhớ lại vẫn còn thấy buồn cười. Một “thông lệ” luôn luôn gặp phải với các tác phẩm phương Tây được dịch lúc bấy giờ, dù tác phẩm hay hoặc dở, dù bản dịch tốt hay không, trung thành với nguyên tác hay không, mỗi tác phẩm dịch đều có một phần giới thiệu đại loại như thế này:

…Ông kịch liệt phê phán nền văn minh tư bản hiện đại, tố cáo vai trò của bọn giáo sĩ và thực dân đế quốc phương Tây đối với các dân tộc khác trên thế giới… phê phán toàn bộ thế giới phong kiến và chủ nghĩa tư bản đương thời, lên án chế độ chính trị và phong tục tập quán của nhiều nước châu Âu và Mỹ…

Sau này có điều kiện đọc được nguyên tác Anh ngữ, có dịp đối sánh từng đoạn, từng câu văn giữa nguyên tác với bản dịch, tôi mới nhận thấy, dịch giả không kham nổi cái phức tạp của nguyên tác, đã bỏ đi rất nhiều đoạn văn và chi tiết quan trọng. Thực sự dịch một tác phẩm không phải là chuyện dể, như người ta thường nói: Traduire, c’est Trahir (Dịch tức là Phản), nhưng để giữ được cho bản dịch một phong cách lãng mạn, dịch giả đã loại gần hết những chi tiết hiện thực quan trọng, mà trong nguyên tác, hiện thực và lãng mạn hòa quyện vào nhau trong một phong cách vừa trữ tình, vừa khốc liệt.

Nguyên đoạn văn này đã bị lược bỏ trong bản dịch, cũng như khá nhiều đoạn văn khác. Lối hành văn lãng mạn mà trúc trắc, mơ mộng mà đầy tư duy của Melville hẳn đã làm khó dịch giả tiếng Việt không ít, đến độ buộc lòng phải lược bỏ. Ngay như cảm nhận phương Đông thường thấy của chúng ta cũng thế, một cảnh buồn, đẹp thì tự nó buồn đẹp thôi, hà cớ gì đưa metaphysicsmeditation vào đấy!? Nhưng có đọc nguyên bản mới thấy được những nét hay khác lạ, meditation and water are wedded for ever, tôi tạm dịch: sự trầm tư và đại dương mênh mông đã kết nghĩa trăm năm tự bao giờ

Tôi cảm thấy mình hợp hơn với cách hành văn nguyên bản, bản thân tôi không hợp lắm với những kiểu lãng mạn suông, một chút suy tư trúc trắc mang đến cho đoạn văn nhiều dấu ấn cá nhân hơn: Yes, as every one knows, meditation and water are wedded for ever. Nhiều chi tiết quan trọng đánh dấu phong cách hành văn của tác giả cũng đã bị lược bỏ, như đoạn Ishmael (tôi trong truyện) và Queequeg ký giao kèo làm thủy thủ trên tàu Pequod:

– Yes – said I – we have just signed the articles.
– Anything down there about your souls?
– About what?
– Oh, perhaps you hav’n’t got any – he said quickly – No matter though, I know many chaps that hav’n’t got any, good luck to ’em; and they are all the better off for it. A soul’s a sort of a fifth wheel to a wagon.

Đoạn văn quan trọng này cũng bị lược bỏ, nhiều ẩn dụ, điềm báo trước về số mệnh con tàu và thủy thủ đoàn được lồng ghép trong lời thoại, tôi tạm dịch:

“Thế (trong hợp đồng) có khoản nào về linh hồn anh không? Có lẽ anh cũng chẳng có đâu, không sao cả. Tôi thấy nhiều người cũng chẳng có, cầu cho họ được may mắn, và tốt hơn họ nên như thế. Linh hồn ư, cũng như cái bánh xe thứ năm trong một cỗ xe thôi.

Sau khi đọc nguyên tác và so sánh với bản dịch nhiều lần, tôi không còn thấy bản dịch hay như đọc lúc nhỏ nữa. Như sẽ nói kỹ ở phần sau, Moby Dick là một tác phẩm lớn và phức tạp, có tính biểu tượng cao độ, sử dụng nhiều điển tích và ẩn dụ, nhiều chi tiết thực tế sống động bên cạnh rất nhiều hình ảnh tượng trưng, nhiều ngôn ngữ đối thoại đời thường bao hàm nội dung triết lý. Cái lãng mạn của Moby Dick kỳ thực là một cái lãng mạn khắc kỷ, cũng giống như chính tác giả, một tín đồ Quaker sùng đạo, luôn có ý thức về lòng tin, nghĩa vụ cũng như sứ mệnh, cũng giống như chính thuyền trưởng Ahap, vị thuyền trưởng độc đoán, một đời làm thủy thủ chỉ có khoảng 3 năm sống trên bờ, hy sinh cả đời mình, cả con tàu và thủy thủ đoàn cho một mục đích duy nhất.

Ishmael, cái tên bắt nguồn từ một người bị cuộc đời bỏ rơi trong Kinh Thánh, chán nản và tìm đến đại dương để lãng quên nổi buồn, và cũng là người duy nhất còn sống sót để kể lại toàn bộ câu chuyện. Pequod, tên con tàu được lấy theo Pequot, tên một bộ tộc da đỏ Mỹ đã tuyệt diệt, ngụ ý một kết cục tương tự. Thuyền trưởng Ahab, cái tên cũng bắt nguồn từ Kinh Thánh, người suốt đời chỉ có một ám ảnh: giết con cá voi trắng huyền thoại, ông đã hy sinh tất cả, mạng sống của mình, con tàu và thủy thủ đoàn để theo đuổi mục đích đó. Tất cả nhân vật chính trong truyện: Ishmael, Ahab, Elijah, Starbuck, Stub, Flask, Queequeg, Tashtego, Daggoo, Fedallah… đều là những nét cá tính được chọn lọc, không phải dể dàng nhận thấy, nhưng đó là một xã hội thu nhỏ, trong đó tất cả các cá tính đặc trưng dường như đã được sắp đặt sẵn cho một thành công (hay một thảm họa) hoàn hảo.

…Once more. Say you are in the country; in some high land of lakes. Take almost any path you please, and ten to one it carries you down in a dale, and leaves you there by a pool in the stream. There is magic in it. Let the most absent-minded of men be plunged in his deepest reveries stand that man on his legs, set his feet agoing, and he will infallibly lead you to water, if water there be in all that region. Should you ever be athirst in the great American desert, try this experiment, if your caravan happen to be supplied with a metaphysical professor. Yes, as every one knows, meditation and water are wedded for ever…

Moby Dick có cấu trúc chương hồi rõ rệt, dù hành văn và nội dung hiện đại, nhưng bố cục tiểu thuyết dường như nhắc lại một cuốn kinh xưa nào đó. Cuốn sách được chia làm nhiều chương, mỗi chương thường ngắn, và có một đầu đề rất rõ rệt: The Carpet-Bag, The Spouter-Inn, The Sermon, The Ramadan, The Advocate… Mỗi chương thường ít có tính liên hệ, liền mạch, như những suy nghĩ bất chợt của người khách lãng du đãng trí, tất cả xoay quanh câu chuyện săn bắt cá voi và con tàu, những giây phút lãng mạn, những hiểm nguy, những thách thức, và tất cả những chuyện tầm phào khác, để rồi tất cả lộ ra giây phút cuối cùng cái định mệnh đã được báo trước: một con tàu có ba người chủ, có ba người phụ tá, có ba tay phóng lao chính, làm một cuộc hành trình kéo dài ba năm, trận chiến cuối cùng với con cá voi kéo dài ba ngày, để rồi chỉ còn lại một người sống sót. Giây phút cuối cùng của con tàu được khắc họa như trong một áng sử thi:

Ý nghĩa của câu chuyện, xin dành cho những ai tự tìm và hiểu nó. Điều tôi nhận thấy ở đây là tôi chỉ có thể hiểu được trọn vẹn Moby Dick sau khi đã đọc nguyên bản tiếng Anh của nó, bản dịch thực sự không lột tả được nhiều. Chỉ đọc trong nguyên gốc mới thấy được cái văn hóa, cá tính, ngôn ngữ, tâm lý của từng nhân vật, mới hiểu được tất cả những chi tiết vừa thực nhất, vừa đẹp nhất, để rồi nhận ra rằng Moby Dick thực sự là một kết hợp hoàn hảo giữa bi kịch và lãng mạn. Ngay cả trong văn hóa Âu Mỹ, người ta cũng không thường nhắc đến Moby Dick, nhưng nếu có nhắc, thường nhắc đến nó như cuốn kinh, cuốn sách của một đời người.

Dấu ấn của Moby Dick lên các lĩnh vực khác của cuộc sống không nhiều, và không dễ thấy. Nhưng nó như một ám ảnh lớn, một chủ đề tư duy quan trọng xuất hiện tại những thời điểm quan trọng. Như trong sêri phim viễn tưởng Star Trek (một phim tôi rất thích không phải vì nó hoành tráng hay đẹp, so với những phim bây giờ, kỹ thuật Star Trek rất thô sơ), nhưng đó là phim đầu tiên trong thể loại của nó: một câu chuyện, những chuyến hành trình và những ẩn dụ triết học. Star Trek trích dẫn rất nhiều từ Moby Dick, đô đốc James T. Kirk là một bản sao tính cách của Ahab (cũng với ám ảnh báo thù và quyết tâm theo đuổi mục đích đến cùng).

Ban nhạc rock huyền thoại Led Zeppelin thường hay mở màn các show diễn của mình với một đoạn intro (instrumental) mang tên Moby Dick. Cũng có một phim hoạt hình trong sêri Tom và Jerry có cốt truyện nhại theo Moby Dick. Theo như tôi biết thì thương hiệu cà phê hàng đầu thế giới Starbucks chính là lấy theo tên người phụ tá của thuyền trưởng Ahap. Ngay cả về sau này, dù đồng tình hay không với tinh thần tác phẩm Moby Dick, cuốn truyện tiếp tục là nguồn cảm hứng và đề tài tư duy quan trọng để tiếp tục bàn cãi và tạo nên những đỉnh cao nghệ thuật khác.

Moby Dick đã được ít nhất hai lần chuyển thể thành phim, năm 1956 và năm 1998. Chưa tìm được bản phim 1956 để xem (chỉ có một số trailer), nhưng bản 1998 rất ấn tượng. Cảnh Pequod căng hết buồm ra khơi, hay cảnh con tàu chìm như đúng định mệnh của nó… thật sự rất hoành tráng. So với Master and Commander, các cảnh quay không những không kém hấp dẫn, mà phần nhạc phim (cùng được thực hiện bởi Christopher Gordon) lại hay hơn rất nhiều.

Một ngọn sóng cuối cùng dìm hẳn mặt mũi Tachigô, trong khi ở sát mặt nước, ngọn cờ đỏ thắm của tàu Bêquốt vẫn còn phất phơ trong gió. Một cánh tay rám nắng cố ngoi lên để đóng thêm vài búa cho ngọn cờ dính chặt thêm vào cột buồm. Bỗng một con hải điểu từ trên cao bổ xuống định xé nát ngọn cờ. Rủi thay, tay của Tachigô vẫn còn nhô lên và trong một cử động cuối cùng của người thủy thủ sắp chết, đóng chặt chim trời và ngọn cờ… Con ác điểu theo tàu vào cõi chết. Trước khi xuống âm phủ, quỹ Sa tăng còn cố bắt cho được một linh hồn theo hắn cho vừa lòng. Vài cánh chim lẻ bạn kêu réo trên miệng vực thẳm còn hé mở, Cảnh vật mờ dần dưới màn đêm bao phủ. Gió biển và sóng nước vẫn gào thét như tự ngàn xưa.

into the primitive

Bìa cuốn sách, NXB Lao Động, 1983.

Nhưng không phải bao giờ gã cũng đi một mình. Khi đêm đông dài kéo về và lũ sói bám theo mồi thịt xuống những thung lũng thấp, người ta có thể nhìn thấy gã chạy dẫn đầu bầy dưới ánh trăng nhợt nhạt hơn trong ánh bắc cực quang mờ ảo, nhảy những bước dài phi thường vượt các bạn cùng bầy, từ cổ họng to lớn của gã phát ra âm thanh vang dội khi gã hát lên một bài ca của thế giới hoang sơ, bài ca của bầy sói.

Mấy điều về hai cuốn sách rất phổ biến và quen thuộc với nhiều người Call of the wildWhite fang của Jack London. Tôi đọc bản dịch Tiếng gọi nơi hoang dã của Nguyễn Công ÁiVũ Tuấn Phương lúc nào tôi cũng không nhớ rõ lắm, chắc là trong những năm học cấp 2. Tôi còn nhớ sách được in trên giấy đen, mỏng và xấu, chữ in lem nhem, dấu con chữ hằn từ mặt này sang bên mặt kia trang giấy.

Tuy không thể nào chịu được cách phiên âm phổ biến của Hà Nội lúc đấy: Giắc Lăn Đơn, Bấc, Piugít Xao, Milơ… nhưng phải thừa nhận đây là bản dịch tiếng Việt hay nhất cho đến bây giờ, hay hơn hẳn những bản dịch mới sau này. Lớn lên, tôi mới tìm đọc lại nguyên văn tiếng Anh của tác phẩm, và ngay những chương đầu tiên, Into the primitive, The law of club and fang, tác phẩm đã đem lại cho tôi nhiều cảm nhận mới. Bản dịch tiếng Việt rất trau chuốt, bài thơ mở đầu cũng được chuyển thể sang tiếng Việt, sát về nội dung, và sát cả về hình thức gieo vần cách (leap – sleep, chain – strain, bước – ước, tù – vu).

Old longings nomadic leap
Chafing at custom’s chain
Again from its brumal sleep
Wakens the ferine strain

Ôi khát vọng xưa đất trời rộng bước
Giận thói thường xích chặt tựa lao tù
Đêm đông lạnh từ giấc nồng mộng ước
Lại bừng sôi huyết thống của hoang vu

Into the primitive không đơn giản là Vào cõi nguyên thủy như trong tiếng Việt. Cái tựa đề chương ám ảnh suy nghĩ của tôi một thời gian dài, vì nó còn được hiểu như: quay lại những điều đơn giản nhất, quay lại những yếu tố cơ bản nhất (think about it like primitive data types in programming). Lẽ tốt xấu trong cuộc sống có nhiều điều để bàn cãi, nhưng nó thật đơn giản như khi bạn gieo một hạt giống thiện, nó sẽ mọc lên một cây thiện, bạn gieo một hạt giống ác sẽ được một cây ác. Không trực tiếp đề cập đến vấn đề thiện ác, nhưng cả hai tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dãNanh trắng nối tiếp nhau, đều hàm chứa những suy tư về vấn đề tội ác và trừng phạt như sẽ nói ở phần sau.

Tiếng gọi nơi hoang dã là câu chuyện của chú chó Buck, vốn sống sung túc ở trang trại thẩm phán Miller, cuộc sống đưa đẩy Buck trở thành chó kéo xe giai đoạn “the gold rush” để rồi nhận ra, dù ở đâu, cũng chỉ có duy nhất một thứ luật: luật của dùi cui và răng nanh. Tiếng gọi của bản năng dần trở lại và cuối cùng Buck đã gia nhập và sống cuộc đời của một con sói hoang dã. Đoạn kết câu chuyện tuyệt hay minh họa cho hình ảnh này:

Tiếp nối và không đơn giản như Tiếng gọi nơi hoang dã, Jack London đã phát triển Nanh trắng, một câu chuyện theo chiều hướng ngược lại. Xuất phát từ một con sói hoang, Nanh trắng tham gia vào cái thế giới tạm gọi là “văn minh” (nhưng không kém phần ác độc) là thế giới loài người, tham gia vào trò chơi đấu chó và những ân oán của con người cho đến ngày Weedon Scott xuất hiện và giải thoát cho nó. Nanh trắng trả thù cho vụ ám sát Scott (giết Jim Hall) và sống phần còn lại của cuộc đời trong trang trại chan hòa ánh nắng của thẩm phán Scott (cũng tại vùng Santa Clara).

Nơi kết thúc câu chuyện này là phần khởi đầu cho câu chuyện kia. Nếu như Tiếng gọi nơi hoang dã mô tả quá trình từ đời sống “văn minh” đến cuộc sống hoang dã, từ cái nhìn của con chó Buck, thì Nanh trắng là sự dịch chuyển từ thiên nhiên hoang dã về lại với thế giới “văn minh” con người. Nhưng lần này, Jack London đã không thể đứng từ vị trí của chính nhân vật, mà buộc lòng phải kể câu chuyện từ vị trí của một người quan sát thứ ba. Nội tâm của Nanh trắng là điều không phải dễ dàng lột tả được trong quá trình “dịch chuyển ngược” như thế.

Không uyên áo, phức tạp như văn học châu Âu, văn học Mỹ giai đoạn đầu, đơn giản và sáng tạo như là chính nó, cũng chuyển tải những vấn đề về đạo đức, nhân quả, thông qua một cách trình bày khó có thể chân thực hơn như chính bản chất của cuộc sống (phải mở ngoặc ở đây: cuộc sống như là các câu chuyện về “chó”).