Một trong những bài hát hiếm hoi của Trịnh Công Sơn mà tôi thích, nhất là khi nghe không lời. Một trong số ít ỏi những bản nhạc của ông ăn sâu vào tâm hồn tôi như là kỷ niệm… Những trình bày khác nhau của bản nhạc, một hòa tấu piano, một độc tấu guitar (Võ Tá Hân), và một qua giọng hát khá thuyết phục của Trần Thu Hà (với guitar đệm thật đáng yêu). Một vài bìa nhạc Trịnh Công Sơn:
Tag: mp3
bang bang
Bang Bang (My baby shot me down) is quite a special song: written by Sonny Bono, performed by Cher (1966), covered by Nancy Sinatra (1967), and has been translated to various languages since then. Younger people would recognize the the music as main soundtrack in the film Kill Bill (2003).
I actually did thought it was a French song, until I listened to the gentle My baby shot me down, the original soundtrack is really simple, and moving, compared the glamourous French version.
album: con tạo xoay vần


Chiều nao nơi bãi hoang, lại ghé thăm mộ nàng, nhặt đóa hoa rụng vàng, thế thôi ngủ ngon em nhé, một giấc mơ màng. Nhìn hàng cây liễu dương, chạy suốt muôn dặm đường, chạnh nhớ câu đoạn trường. Cố nhân vừa rũ áo, về với vô thường. Chiếc bóng khoác nón ra đi cuối nơi con đường.
Vốn dĩ tính không thích giải thích, nên chọn cách nói bằng nhạc. Hôm nay xem lại những post của mình, cảm giác: tệ! nói (viết) nhiều mà chẳng có nhiều điều mới! Nếu làm tư liệu thì đã có khối những web khác, nếu là tâm sự cá nhân thì hơi lang bang. Muốn diễn đạt điều gì mới (cho dù là trong những thứ cũ) nhưng sợ không có người đồng cảm.
Đặt lời Việt cho nhạc cổ điển không phải là điều gì mới, nhạc sĩ Phạm Duy và những nhạc sĩ khác đã đặt lời cho rất nhiều nhạc phẩm cổ điển: Dòng sông xanh, Sóng nước biếc, Vũ nữ thân gầy, Trở về Soriento, Khúc ban chiều .v.v.
Album Con tạo xoay vần sau đây thì thật sự mới lạ: đem ý Đường-thi phổ vào nhạc cổ điển phương Tây. Đem ý thơ của Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Tiết Đào, Lý Hạ… phổ vào nhạc của Offenbach, Tchaikovsky, Bellini… đem tinh yếu của Đông và Tây hòa lẫn vào nhau. Hòa âm đơn giản, chỉ có một piano đệm, và các giọng hát được thu âm trực tiếp bằng kỹ thuật thu âm nổi, không qua xử lý bằng máy tính.
Album này theo tôi là hay và tinh tế hơn nhiều so với Chat với Mozart của Mỹ Linh. Trong album của Mỹ Linh, phần lời chưa ăn khớp được vào giai điệu và tiết tấu. Với album này, những giai điệu nhẹ nhàng được chọn từ các bản opera nổi tiếng, với lời nhạc lấy ý từ Đường-thi, tất cả tạo nên một loại âm nhạc vừa cao sang, vừa gần gũi. Kỹ thuật thu âm càng giúp cho hơi nhạc giản dị, tự nhiên đi vào lòng người.
abba – the piper – remixed
Tìm thấy bài rất yêu thích này trong một remixed – collection của ABBA, 2006. Rất mê bài này không chỉ vì phần nhạc mà còn vì phần lời: rất hiểu và cũng chẳng hiểu gì cả về phần lời đầy ẩn dụ, nhiều người đã bàn cãi nhưng vẫn không làm rõ được lời hát ám chỉ điều gì.
Bài hát sử dụng một thành ngữ Latin: sub luna saltamus – nhảy múa dưới ánh trăng; Chúng ta đều đi theo theo những giai điệu lạ kỳ, chúng ta đều bị hiệu triệu bởi một âm điệu nào đó, chúng ta đi theo người thổi sáo, rồi chúng ta nhảy múa dưới ánh trăng
. Tuy chưa hiểu The piper ám chỉ điều gì, nhưng chính bài hát đã là một The piper, nó đã seduce rất nhiều người nghe.
Trên tầng nghĩa đơn giản nhất, lời bài hát cũng đã có một sức diễn tả mạnh: chúng ta ai cũng đi theo một giai điệu lạ kỳ nào đó mà ngay cả chúng ta cũng không hiểu nổi, đuổi theo những fantasies thoáng qua trong cuộc đời để rồi trong một phút tĩnh tại nào đó của tâm hồn, dừng lại để nghĩ về đời mình, vẫn thấy mình tự do và không có gì để hối tiếc…
hà thanh – chim họa mi xứ huế
Không như những gì viết trên wiki: Hà Thanh sinh ra trong một gia đình gia giáo chỉ có một mình bà đi theo nghiệp âm nhạc, mẹ tôi (lúc còn học ở trường Đồng Khánh có chơi với một số chị em trong gia đình này) cho biết gia đình Hà Thanh là một gia đình có truyền thống cổ nhạc, tuy không ai đi theo con đường âm nhạc chuyên nghiệp nhưng đờn ca hát xướng đã là môi trường từ nhỏ trong gia đình. Hà Thanh đến với âm nhạc từ rất sớm, tham gia hát cho đài phát thanh Huế từ những năm 50. Bà tham gia cuộc thi tuyển lựa ca sĩ do đài tổ chức (giống như cuộc thi Tiếng hát Truyền hình bây giờ) và dành giải nhất với ca khúc Dòng sông xanh (Johann Strauss).
Những năm 60, bà gia nhập làng văn nghệ Sài-gòn, trở nên nổi tiếng và thường xuyên xuất hiện trên sóng phát thanh cũng như trong các chương trình Đại nhạc hội. Hà Thanh có giọng hát rất đặc biệt, cao sang, trong mà mềm mại. Nghe bà hát, ta mới cảm thấy những luyến láy nhấn nhá đặc trưng của một giọng hát cũ. Hơn thế nữa, giọng Hà Thanh rất Huế, một giọng Huế sang trọng và tinh tế. Mời các bạn thưởng thức giọng ca Hà Thanh qua hai ca khúc: Ai lên xứ hoa đào (Hoàng Nguyên) và Các anh đi (Văn Phụng).
avt chúc xuân
Sau đây là tiết mục chúc xuân của ban AVT tái lập tại hải ngoại. Thành phần cũ của ban chỉ còn duy nhất nhạc sĩ Lữ Liên, bổ sung thêm hai thành viên mới Trường Huy & Hoàng Long nhưng vẫn giữ cái tên AVT cũ. Hai thành viên cũ ở lại VN sau 75: Tuấn Đăng thì biệt tích, còn Vân Sơn nhảy xuống kênh Thị Nghè tự tử, nghệ sĩ hài kịch không chịu đựng nổi những bi kịch cuộc sống. Xin post ở đây tiết mục Chúc xuân, có thể xem video trên youtube hay nghe file âm thanh rời.
Nghe AVT thích thú nhất là ở chỗ ban nhạc sử dụng nhuần nhuyễn các làn điệu dân ca Bắc và Trung bộ (tuy vậy lại không có dân ca Nam bộ), diễn tấu thành thục các nhạc cụ dân tộc (đàn nhị, tỳ bà, đàn đoản…), cũng như sự kết hợp phong phú giữa nói, nói lối, ngâm thơ và hát… Ba người trên sân khấu thường giả giọng nói của ba miền Bắc, Trung, Nam, rất giống, rất thật, lại là loại giọng cũ chỉ còn nghe thấy được ở lớp người già cả.
Bản Chúc xuân này là bài bản cũ, có customize lại chút xíu, tuy vậy chẳng mấy chốc cũng đã lạc hậu so với cuộc sống nơi trời Tây, may ra đem về VN thì vẫn còn nhiều giá trị. Mới tháng 10 nhưng nghe AVT xong cảm giác như Tết sắp đến: năm mới, cuộc đời phây phây, năm mới gặp thời gặp may, năm mới bạc triệu tới tay, năm mới không phải kéo cày, năm mới cuộc đời lên hương, năm mới tràn đầy yêu thương, năm mới thần tài giúp ta, năm mới năm đẹp Thái Hòa…
hoàng trọng
Lòng càng thổn thức, quên hết bao mối hận mà đi.
Yêu đương say đắm mà chi, xa xôi đem thú biệt ly.
Sầu nhớ đau thương làm chi!
(Khúc nhạc ly hương)
Từ nhỏ tôi đã nghe nhiều nhạc của Hoàng Trọng mà chưa hề biết tác giả là ai. Những ca khúc Khúc nhạc ly hương, Ngàn thu áo tím, Nhạc sầu tương tư, Gió mùa xuân tới, Tiến bước sang ngang, Đẹp giấc mơ hoa… đã gieo vào hồn tôi những dáng nhạc độc đáo, riêng biệt. Sau này, càng tìm hiểu, tôi càng được biết nhiều hơn về con người lao động nghệ thuật cần mẫn, nghiêm nhặt này.
Học nhạc, sáng tác và làm ban nhạc từ rất sớm, Hoàng Trọng là người có khả năng tổ chức, ông đã làm phòng trà Thiên Thai ở Nam Định từ rất sớm (1945). Trong chiến tranh, ông là trưởng ban quân nhạc Bảo Chính Đoàn (quân đội Pháp), đến năm 1954 thì di cư vào Nam. Ở Sài gòn, ông thành lập nhiều ban nhạc chơi cho các Đài phát thanh Sài gòn, Đài phát thanh Quân đội, Đài Truyền hình… nổi tiếng nhất là ban hợp xướng Tiếng tơ đồng (1967).
Ông sáng tác khoảng chừng 200 tác phẩm, phần nhiều là theo điệu tango, và nhiều nhạc cho phim ảnh. Hoàng Trọng còn nổi tiếng với tư cách là người chỉ huy dàn nhạc và người soạn nhiều phần hòa âm giá trị. Tuy đã rao là Hoàng Trọng – vua nhạc tango Việt Nam nhưng ở đây, mời các bạn nhớ lại người cố nhạc sĩ tài hoa này qua hai tác phẩm của ông, một theo điệu valse: Nghìn thu áo tím và một theo điệu pasodoble: Dừng bước giang hồ.
Một vài bìa nhạc Hoàng Trọng:
ngọc cẩm & nguyễn hữu thiết
Kể về tình hình Tân nhạc tại miền Nam trước 1975 mà bỏ qua cặp vợ chồng song ca Ngọc Cẩm & Nguyễn Hữu Thiết thì quả là một thiếu sót. Người miền Nam bấy giờ rất mê nhạc, cải lương thì có Thanh Nga, tuồng cổ thì có Phùng Há, vọng cổ thì có cậu Út Trà Ôn… Tuy vậy lớp trẻ lại thích Tân nhạc hơn. Chính quái kiệt Trần văn Trạch là người cải tiến các show diễn. Ông đề nghị thêm phần biểu diễn Tân nhạc vào trước các buổi chiếu phim, về sau lại tổ chức các chương trình Đại nhạc hội. Cũng chính ông là người giới thiệu cặp “danh ca miền Trung” Ngọc Cẩm & Nguyễn Hữu Thiết trước công chúng Sài-gòn. Cặp danh ca này nổi tiếng với khán thính giả miền Nam từ đó, với các bản dân ca hay tình ca, trên các sân khấu nhạc hội hay qua làn sóng phát thanh. Những đĩa nhạc của họ bán chạy như tôm tươi và có sức lan tỏa rộng trong quần chúng nghe nhạc.
Với thế hệ cha mẹ tôi, nhạc và giọng ca Ngọc Cẩm & Nguyễn Hữu Thiết là điều gì gần gũi, rất “Vietnamese – native” như những món cơm hến, bún bò Huế. Thêm một chi tiết nữa là Ngọc Cẩm & Nguyễn Hữu Thiết chính là song thân của ca sĩ nổi tiếng Hồng Hạnh sau này. Mời các bạn thưởng thức hai giọng ca dân dã, tự nhiên mà truyền cảm này qua một bản “dân ca” Gạo trắng trăng thanh và một bản tình ca Ai đi ngoài sương gió (hai bài trong băng nhạc 18 tình khúc quê hương yêu dấu). Nhất là Gạo trắng trăng thanh là bản nhạc có mức độ phổ biến sâu rộng trong quần chúng thính giả, đến mức nó có một bản lời “chế” như sau: Ai đi qua trên cầu Bông, té xuống sông ướt cái quần nilông…
Một vài bìa nhạc Ngọc Cẩm & Nguyễn Hữu Thiết:
quái kiệt trần văn trạch
Năm thế hệ nhà họ Trần: ông sơ Trần Quang Thọ là nhạc sĩ cung đình Huế, ông cố Trần Quang Diệm được gởi đi Huế học đàn tỳ bà và sau đó nổi tiếng khắp miền Nam với ngón đàn này, ông nội Trần Quang Triều nổi tiếng trong giới cổ nhạc với ngón đàn kìm. Phía bên ngoại thì có ông cậu 5 Nguyễn Tri Khương (cháu nội Nguyễn Tri Phương) chuyên về sáo, và cậu 4 là nhạc sĩ Nguyễn Mỹ Ca. Đến thế hệ thứ 4 thì có anh cả GS Trần văn Khê, người không cần phải nhắc đến thì ai cũng biết là ai, người con thứ là Trần văn Trạch, một quái kiệt độc nhất vô nhị của Tân nhạc Việt Nam.
Thế hệ thứ 5 của gia tộc này là TS âm nhạc Trần Quang Hải, người vẫn tiếp nối ông cha đóng góp cho nền cổ nhạc nước nhà. Trần văn Trạch được xem là hiện tượng độc nhất vô nhị trong làng Tân nhạc, chuyên sáng tác và biểu diễn nhạc hài, là nghệ sĩ hài “trí thức” duy nhất đương thời, hát tân nhạc, cổ nhạc, làm kịch, làm phim, tổ chức các chương trình Đại nhạc hội (bao gồm đầy đủ ca, vũ, nhạc, kịch, hài, tạp kỹ… trong một chương trình văn nghệ).
Lần đầu nghe Trần văn Trạch ca, tôi lập tức thích cái giọng ông, một giọng nói đặc sệt Nam bộ, tự nhiên, bình dân, không kiểu cách. Nó làm tôi nhớ đến “một thời đã xa”, khi mà những gì sáng tạo, mới mẻ đều khởi phát từ những gì tự nhiên bình thường nhất, không cần phải đi qua những lăng kính méo mó như thực trạng văn hóa, văn nghệ hiện tại. Bao nhiêu năm xây dựng XHCN đã làm suy đồi con người cũng như các nền tảng văn hóa nghệ thuật… Xin giới thiệu đến các bạn hai tác phẩm hài do nghệ sĩ Trần văn Trạch sáng tác và trình bày. Chúc các bạn những trận cười sảng khoái!
Tôi thường có cảm giác rằng những người hiểu sâu về sắc điệu thì không vướng chấp vào cái vỏ âm thanh bên ngoài và dể tiếp cận đến tầng âm nhạc. Đa số các ca sĩ hiện nay đều có những chất giọng vay mượn, không ai bằng lòng với cái âm sắc cha sinh mẹ đẻ của mình. Mời các bạn nghe Trần văn Trạch hát Chiều mưa biên giới, một ca khúc phổ biến trong giới bình dân ở miền Nam trước 1975, nghe để thấy được rằng giọng nói chúng ta bất kể nguồn gốc thế nào, tự nó đã là vốn thiên phú của chúng ta rồi, không cần phải học đòi gượng ép.
ban kích-động-nhạc avt
Lẳng lặng mà nghe họ chúc nhau,
Chúc nhau mạnh mẽ khỏe như trâu.
Chúc nhau tiền của giàu như nước,
Chúc đẻ vừa xong lại… có bầu.
(Chúc xuân – Lữ Liên – ban AVT)
Trong các ban nhạc chơi theo trào lưu mới (nhạc Mỹ) ở miền Nam trước 75, có một ban rất đáng lưu ý gồm 3 thành viên: Anh Linh, Vân Sơn, Tuấn Đăng, do đó mà có cái tên AVT. AVT thường xuất hiện trong trang phục áo dài khăn đóng, chơi nhạc cụ Tây phương (guitar, trống…) hay nhạc cụ cổ truyền (đàn nhị, tỳ bà, đàn đoản…).
Được biết đến ban đầu với cái tên ban kích-động-nhạc AVT, về sau đổi thành Tam ca trào phúng AVT, AVT đã thu những đĩa riêng, và từ khi ở miền Nam bắt đầu có vô tuyến truyền hình, AVT thường xuất hiện trên các chương trình chúc xuân đầu năm.
Nhạc của AVT rất đặc biệt, vừa rất mới, vừa rất cũ: mới vì hòa âm “rặt” Mỹ, cũ vì phần nội dung rất chi Lý Toét và Xã Xệ. Không như các ban kích-động-nhạc đương thời đều làm nhạc Trẻ, AVT là ban nhạc duy nhất có chủ đề, nội dung rất chi đại chúng: trào phúng, khôi hài, mà với trình độ âm nhạc cao.
Mời các bạn điểm qua 2 tác phẩm tiêu biểu của AVT, chắc rằng ai cũng sẽ có những trận cười no nê với Ba bà mẹ chồng kể chuyện ba bà mẹ Bắc, Trung, Nam ngồi nói xấu những nàng dâu và Em tập Vespa, kể chuyện một anh chàng kèm một em “tập đi xe Vespa”. Chúc các bạn những trận cười thoải mái!
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau,
Chúc nhau đầu trước đón đầu sau.
Phen này nhiều kẻ xây cao ốc,
Thiên hạ bao nhiêu đứa nhảy lầu.
(TKXuyen’s version)
mal
Nhớ lúc nhỏ, lũ nhóc cấp 2 chúng tôi luôn nghĩ ra những trò tiêu khiển giết thời gian thú vị. Tôi còn nhớ một trong những trò đó là ngồi tìm ra những từ tiếng Việt gốc Pháp, chẳng hạn như cái ba-ri-e (barrière) là cái rào chắn, hay ra-đi-a-tơ (radiateur) là bộ phận tản nhiệt của xe máy… Mặc dù chưa hề biết tiếng Pháp, lũ nhóc chúng tôi vẫn cãi nhau, lục tìm từ điển để minh chứng cho những ví dụ của mình. Bạn cu Bông (Quang Khải) hẳn còn nhớ trò chơi này.
Bây giờ thì tôi tìm ra một từ khác: Mal, như trong tiếng Việt, khi người ta nói: cái thằng đó hơi bị man man. Vốn gốc chỉ có nghĩa là đau, bệnh, qua tiếng Việt từ đó đã phái sinh một nghĩa mới: đau bệnh theo kiểu thần kinh. Ảnh hưởng của văn hóa Pháp lên văn hóa Việt thật sâu đậm, tìm thấy khắp trong ngôn ngữ, ca từ, ca khúc! Đôi lúc lại có cảm giác rằng chúng ta tiếp thu văn hóa nước ngoài không hẳn là thiếu chọn lọc, nhưng vẫn quá ư dễ dãi. Đến tận những năm 70, khi văn hóa Mỹ đã lan tràn khắp miền Nam Việt Nam, các phòng trà Sài-gòn vẫn rỉ rả những ca khúc Pháp. Trong trào lưu hát nhạc Pháp lời Việt này, nhạc sĩ Phạm Duy đã đặt lời cho hàng loạt ca khúc Pháp, mà bài này là một đơn cử.
Rồi những ban nhạc rock đầu tiên của Sài-gòn (lúc ấy không gọi là nhạc rock mà gọi là kích-động-nhạc) vẫn tiếp tục lấy những cái tên Pháp, đặt lời theo kiểu Pháp nhưng làm nhạc theo lối Mỹ. Đúng là một loại tranh collage sinh động. Tôi sẽ còn trở lại với chủ đề những ban “kích-động-nhạc” đầu tiên của Sài-gòn trong một bài khác, những Elvis Phương, Lê Hựu Hà, Tuấn Ngọc, những Trần văn Trạch (em ruột Trần văn Khê), Lữ Liên (ban kích-động-nhạc AVT)… những cậu ấm Sài-gòn gốc “Bắc cầy” đã tiếp tục làm nên những trào lưu nhạc mới. Điều đáng lưu ý là trong những trào lưu này dần xuất hiện những loại nhạc giải trí, nhạc tuýt, lần đầu tiên văn nghệ ở VN bước ra khỏi “tháp ngà hàn lâm” để mang hơi thở đời thường của cuộc sống.
Mal, bài hát này thích đã lâu, lúc này lại đúng là lúc để hát: Mal, au fond du coeur, oui j’ai mal (Đau! Từ đáy trái tim ta buồn đau!). Bài gốc có phần hòa âm thật hay, đúng tông yêu thích của tôi, còn bài lời Việt chỉ để nghe tham khảo!
chanson de solveig
Vốn âm nhạc cổ điển chẳng có được mấy bài, chỉ biết và thích được một đôi bài ngăn ngắn, đại loại như một số serenade, polonaise, nocture, overture… Nhưng đặc biệt thích Chanson de Solveig này, từ nhỏ đã nghe qua tiếng hát Lê Dung, mà không biết rằng từ trước ở miền Nam, nhạc sĩ Phạm Duy đã có đặt một lời Việt khác hay đến như vậy: Một lần người đưa tiễn nhau, như vẫn cầu lời hứa năm nào, đằm thắm cho vui lòng nhau… Cuộc đời từ trong chiếc nôi, đã quay về cùng với gió bụi, về chốn không tên xa xôi
. Càng thêm yêu bản nhạc vì cái lời đẹp vậy.

Thường cần nghe nhạc không lời, dể nắm được dáng nhạc, xong rồi thì hát lời Phạm Duy vậy. Lời tiếng Anh, hát đến líu lưỡi mà vẫn không ăn được cách ngắt câu nhả chữ của nó! Cái giai điệu đẹp một cách giản đơn, như muốn tự giới hạn mình trong một cảm xúc hẹp và cô đọng, nghe như tiếng gió Bắc phương thổi qua những fiord buồn bã của xứ Scandinavi. Những tình khúc đẹp thế này vẫn thường được dùng làm bài ca vĩnh biệt, như cái ám danh tiếng Pháp của nó (Chanson de l’adieu) đã chỉ rõ!
trường ca Hòn vọng phu, 1
Đồng-đăng có phố Kỳ-lừa,
Có nàng Tô-thị họ vừa nung vôi.
(nhại ca dao)

Núi đá vôi “Hòn vọng phu” – Đồng-đăng, Kỳ-lừa, giống hệt một thiếu phụ ôm con đứng chờ chồng về. Ảnh lấy từ trang web phamduy.com
Từ lâu đã nhắc đến Trường ca Hòn vọng phu của nhạc sĩ Lê Thương nhưng chưa post bản nhạc này một cách đầy đủ bao giờ. Đây là trường ca đầu tiên, báo hiệu bước trưởng thành của Tân nhạc. Bản nhạc được chia thành 3 phần. Phần 1: ngày ra đi: lệnh vua hành quân trống kêu dồn, quan với quân lên đường, đoàn ngựa xe cuối cùng, vừa ruổi theo lối sông…
Phần 2: tâm tình người vợ ôm con chờ chồng về: trời đổ mưa trong tiết tháng ba, suốt năm nước nguồn tuôn đổ xuống Bà, hình hài người bế con nước chảy chan hòa…
Phần 3: ngày người chinh phu trở về: chờ người con, chờ vợ đón, bao ước mong nét xưa hãy còn…
Ba bài ca Hòn vọng phu là một ẩn dụ về những tâm tình biệt ly, đoàn tụ, về công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt từ ngàn xưa cho đến tận bây giờ.
Công cuộc Nam tiến ấy bắt đầu với việc gã Huyền Trần công chúa cho Chế Mân để đổi lấy châu Ô, châu Rí, với việc chúa Nguyễn vào Nam và gầy dựng nên đất Quảng-nam, rồi Sài-gòn, Gia-định, Đồng-nai, Hà-tiên… là những cuộc chiến tranh để thống nhất đất nước… Và cho đến tận bây giờ, công cuộc Nam tiến ấy vẫn chưa kết thúc, lớp lớp người miền Bắc, miền Trung chúng ta vẫn đổ vào Nam, sinh sống, lập nghiệp, gầy dựng nên kinh tế phía Nam giàu mạnh.
Hòn vọng phu là trường ca đầu tiên tóm tắt nên tâm sự, nỗi niềm của lớp lớp bao người dân Việt, đã khái quát cả một chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, một bài trường ca của xiết bao u hoài xen lẫn tự hào: tâm sự của người vợ ôm con chờ chồng đi mở mang bờ cõi đã bao năm chưa thấy về, và tâm sự của người chinh phu ra đi, bên thì nợ nước chưa đền, bên thì nợ tình thâm chưa trả.
phạm duy, 9
Khi còn bé, Mẹ bảo:
lớn lên đi lính, con sẽ làm tướng,
lớn lên đi tu, con sẽ làm giáo chủ.
Ông đã soạn nhạc và trở thành Phạm Duy!
(phỏng theo Picasso)
Kết thúc sêri 9 bài viết về nhạc sĩ PD này, có lẽ không thừa nếu nhắc lại rằng PD xứng đáng là nhạc sĩ vĩ đại nhất trong nền âm nhạc Việt Nam từ cổ chí kim, mà chưa một nhạc sĩ theo sau nào bén gót được. Không thừa khi hiện tại chỉ có khoảng vài chục ca khúc của ông là có trong danh sách những bản nhạc được phép lưu hành. Trong tình hình âm nhạc đã khá nghèo nàn hiện tại, việc cấm không phổ biến những ca khúc của ông là một tổn thất lớn cho công chúng yêu nhạc, khi họ chỉ được biết một Văn Cao chỉ với mười mấy ca khúc nổi bật, một Trịnh Công Sơn với rất nhiều ca khúc đáng yêu về ngôn từ nhưng không mấy phong phú về nhạc.
PD, tác giả một gia tài tạm gọi với cái tên Ngàn lời ca, là khoảng 1000 tác phẩm phong phú về âm nhạc, tân kỳ về ngôn từ, mang nhiều phong cách, nhiều mảng nội dung đa dạng khác nhau. Ngàn lời ca, đặc sắc nhất phải kể đến những bài “dân ca mới”, đem lại sự hồi sinh cho dân nhạc Việt Nam, không phải là những thứ “nhại dân ca” hay “tân cổ cưỡng duyên” như chúng ta có hiện nay. Đó là những bài nhạc hùng trong kháng chiến 9 năm, những bài tình ca quê hương tuyệt đẹp. Tiếp đến nữa là những bản nhạc tình bất hũ, nhiều bài chúng ta, vì đã nghe quá nhiều, quá quen tai: Cây đàn bỏ quên, Em bé quê… mà không biết đó là của ông, không biết chúng có giá trị như thế nào chăng? Đó là những bản du ca, tâm ca, tâm phẫn ca, đạo ca, rong ca, thiền ca, và những “bé ca”, những bài ca viết cho tuổi nhỏ… Đó là hai trường ca: Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam, về sau tác giả còn có thêm một trường ca Hàn Mặc Tử. Đó là những tác phẩm Minh họa Kiều, Hương ca… sáng tác sau này.
Nhạc PD, với tôi không phải chỉ là những kỷ niệm âm nhạc lúc nhỏ, đó còn là một mảng khuất trong nền ca khúc VN không nhiều người biết đến giá trị. Nhạc PD là nơi tôi bắt đầu biết cách lắng nghe những giai điệu ngũ cung, những cái chính là bản chất con người Á Đông mình. Nhạc PD là ẩn dụ về những gia tài VN bị đánh mất, bị quên lãng vì những lý do chiến tranh, chính trị, xã hội… những lý do không đứng vững trước giá trị nghệ thuật trường cửu. Nhạc PD là ẩn dụ khác biệt, dằn vặt về những nghèo nàn và phong phú, tầm thường và sáng tạo, bao đồng và tinh tế…, cùng một lúc, trong tất cả những gì gọi là chúng ta, con người VN.
Để kết lại sêri viết về nhạc sĩ PD, mời các bạn nghe một ẩn dụ bằng âm nhạc khác, ca khúc Cành hoa trắng, ca khúc kể chuyện nàng tiên vì tình yêu, làm huyên náo Thiên đường mà bị đầy xuống trần gian lạnh lẽo.
phạm duy, 8
Âm nhạc là một sự khải thị
lớn hơn mọi nền luân lý.
(Beethoven)
Viết đến đây, khi cố gắng hệ thống hóa, “chia lô” những sáng tác của nhạc sĩ PD (sự phân chia này một phần dựa trên sự tự phân loại của tác giả), tôi mới nhận ra rằng làm như thế vô hình chung đã bỏ qua nhiều phần sáng tác quan trọng của nhạc sĩ. PD ông có nhiều sáng tác không đơn thuần có thể chia vào một hạng mục nào cụ thể, hơn nữa nhiều sáng tác lẻ lại có giá trị nghệ thuật quan trọng. Vì vậy ở phần này chúng ta lại “thập di”, đi tìm bổ khuyết những thiếu sót trong 7 bài viết vừa qua.
Có rất nhiều ca khúc nhạc ngoại quốc chúng ta đang hát có phần lời Việt do nghệ sĩ PD đặt, và nhiều khi chúng ta được biết phần lời Việt này trước khi được biết nguyên tác. Trong số những bài ca này có những bản nhạc cổ điển phương Tây: Dòng sông xanh (Le beau Danube bleu), Trở về mái nhà xưa (Retour à Soriento), Vũ nữ thân gầy (La Cumparsita), Dạ khúc (Serenade)… Một số là những bài dân ca các nước hay nhạc Pháp, Mỹ: Clémentine, Khi xưa ta bé (Bang bang), Em đẹp nhất đêm nay (La plus belle pour aller danser), Giàn thiên lý đã xa (Scaborough fair), If you go away (Ne me quitte pas), Hỡi người tình Lara (Chanson de Lara)… và rất nhiều những bài khác.
Trong những ca khúc giai đoạn đầu của ông, những ca khúc “dân ca mới”, tôi đặc biệt lưu ý một số ít ca khúc có giai điệu rất cổ kính, nét tân kỳ ẩn tàng đi đâu mất. Trong số đó có Thu chiến trường và Chinh phụ ca. Nghe những ca khúc này chúng ta có cảm giác được thưởng ngoạn lại những gia tài âm nhạc cũ đã thất truyền, không còn ai biết đến nữa. Cái biệt tài sáng tạo của nghệ sĩ PD là làm ra những cái mới chưa ai có, thì một biệt tài khác, trong những ca khúc này, là hình dung lại những cái cũ mà cũng không ai còn nhớ. Có lẽ đến một lúc nào đó, muốn có một hình dung về âm nhạc cổ truyền Việt Nam, chúng ta phải nhờ đến những bài như thế này chăng?
Trong số những ca khúc giai đoạn đầu của nhạc sĩ PD, có một ca khúc rất đáng để ý: Áo anh sứt chỉ đường tà phổ thơ bài thơ nổi tiếng Đồi tím hoa sim của Hữu Loan. Liên quan đến bài thơ này là một đời người đày đọa, Hữu Loan là một phần của vụ án Nhân văn giai phẩm ngày trước, hẳn phải có lúc nào lịch sử lật lại vụ án này, với những lời xin lỗi và công nhận chính thức. Riêng về ca khúc này, đây là một đỉnh cao trong nhạc thuật của PD, khi nhỏ, mỗi lần nghe ca khúc này là tôi lại có cảm giác gió rờn rợn trên mộ vàng
… Có đến hơn 3, 4 ca khúc cùng phổ nhạc bài thơ này, nhưng chỉ mỗi bản nhạc của PD là đáng nhớ (những bản khác còn chưa thoát ra được thể loại boléro rẻ tiền, đàn ca nhạc nhậu.
Có một số bài hát hiện nay chúng ta được biết qua phần lời đã sửa chữa của chúng. Một số bài hát phần nhạc rất hay sáng tác trong kháng chiến 9 năm về sau bị nhạc sĩ PD sửa lại lời, phần nhiều là vì những lý do chính trị. Như Bao giờ anh lấy được đồn Tây thường được biết dưới cái tiêu đề Quê nghèo hay Tiếng hát trên sông Lô đã được đổi thành Tiếng hát trên sông. Tuy vậy, hai bài hát được giới thiệu ở đây đều có phần lới mới khá hay, nhất là bài Quê nghèo.
(Còn tiếp…)
phạm duy, 7
Chỉ có hiện tại là không dứt!
(Schrodinger)
Những ý tưởng sáng tạo luôn đến một cách bất chợt, cóp nhặt… để đến một lúc nó trở thành những thay đổi trong xu hướng, phong cách. Từ những năm 70 trở về sau, nhạc của PD chuyển theo một hướng mà không phải ai cũng hài lòng. Một số tự bảo rằng: Ồ, PD, ông ta đâu còn như trước!. Dĩ nhiên tôi cũng thích PD lúc trẻ hơn, nhất là những năm 60, khi nhạc thuật đã đạt đến chỗ chín muồi, và những phần hòa âm phối khí cũng đã được tinh luyện.
Đó là lúc ông còn chưa bị cuộc đời dằn vặt đến mức nhạc phải nhuốm màu suy tư triết lý. Nhưng từ những năm 70, âm nhạc của ông đã chuyển theo một hướng thâm trầm hơn, bác học hơn, và thể hiện đầy đủ hơn những gì được tích lũy, cóp nhặt là ông. Với những gì ông đã đạt được, việc bắt ông phải lặp lại chính mình, phải sáng tác những ca khúc đỉnh cao như lúc trước là điều không thể.
Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là PD đã bế tắc, cạn nguồn trong nhạc hứng, chỉ có một điều nhạc của ông ngày càng ít cho công chúng, mà càng cho riêng bản thân ông. Phàm những cái đạt đến đỉnh cao thì tự quay vào chính mình vậy! Sau đây, chúng ta sẽ tiếp tục công cuộc “cỡi ngựa xem hoa” để điểm qua Thập mục ngưu đồ – tức mười bài Đạo ca.
Về sau, nghệ sĩ PD còn tiếp tục làm giàu cho gia tài âm nhạc của mình bằng 10 bài Thiền ca, 10 bài Rong ca. Những ca khúc này được sáng tác khi ông đã định cư lâu năm ở Mỹ, nhiều bài thể hiện ước mơ hồi hương từ rất sớm như: Hẹn em năm 2000. Trước đây tôi chỉ được biết một phần nhỏ trong những ca khúc sáng tác sau này của ông.
Sau này nghe kỹ lại có thể thấy, những nguồn cảm hứng lớn cho các ca khúc này đã không còn nữa, các giai điệu phần lớn là những trò chơi âm thanh của riêng tác giả, một số rất đáng nghe, nhưng nhìn tổng thể những tác phẩm này không còn đạt đến đỉnh cao như trước.
(Còn tiếp…)
phạm duy, 6
Truyền thống chân chính không phải là làm lại những
gì người khác đã làm mà là tìm lại cái tinh thần
đã khiến thực hiện nên những đại sự ấy!
(Paul Valéry)
Phạm Duy, ông là một con người kỳ lạ. Lúc xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ trước còn xem âm nhạc là dạng xướng ca vô loài thì ông đã lang thang trên khắp những nẻo đường đất Việt theo chân gánh hát Đức Huy, và làm bạn với tất cả những nhân vật tên tuổi trong nền âm nhạc Việt Nam sau này như: Văn Cao, Hoàng Trọng, Hoàng Quý, Cung Tiến, Đặng Thế Phong, Trần Văn Khê .v.v… Ông đã quyết con đường xướng ca vô loài đó, khởi đi từ chỗ cơ bản nhất: nuôi sống gia đình bằng âm nhạc.
Ông là nhạc sĩ đầu tiên và duy nhất đương thời sống được và sống tốt bằng nghề nhạc: mua nhà, mua ôtô, nuôi con, thảy đều bằng những hoạt động âm nhạc của mình. Khi những đứa con ông lớn lên, những Duy Quang, Thái Hiền… sau này, ông có những nhạc phẩm cho riêng những người con của mình. Và những bài ca viết cho tuổi thơ, tuổi ô mai này đến bây giờ vẫn nằm trong top những bài ca hay nhất.
Khoảng cuối cấp 1 đầu cấp 2, tôi có một băng nhạc chừng 20 bài ca viết cho tuổi thơ: Ông trăng xuống chơi, Chú bé bắt được con công, Thằng Bờm, Bé bắt dế, Đốt lá trên sân.. Nhưng mà cái tâm hồn ông cụ non của tôi lúc đó không hảo những món này lắm, chỉ khi lớn lên rồi mới biết những ca khúc này phù hợp với lứa tuổi như thế nào.
Xin cho em, một chiếc áo dài, cho em đi, mùa xuân tới rồi. Mặc vào người rồi ra, ngồi lạy chào mẹ cha, hàng lụa là thơm dáng tiểu thơ… Xin cho em một mớ tóc dài, cho em phơi ngoài hiên nắng rọi. Rụng một vài sợi thôi, còn lại một con suối, dòng mượt mà buông xuống chùm vai…
Càng về sau, những ảnh hưởng của hòa âm phối khí Mỹ đã thấy rõ trong nhạc PD, ông viết những bản “dân ca mới” cho trẻ em trên nền tiết tấu nhanh, sôi động, và nhiều biến hóa hơn. Mỗi lần nghe lại những bản nhạc cho tuổi ô mai này, tôi luôn rất thích phần hòa âm rộn ràng, sôi nổi bên dưới.
(Còn tiếp…)
phạm duy, 5
Thật ra cuộc sống ít thực bằng nghệ thuật…
Nghệ thuật phục thù cho cuộc sống!
(L.Pirandello)
Cuối những năm 60, mối tình đằng đẳng 10 năm của nghệ sĩ PD dần dần nhẹ nhàng rút khỏi đời ông, để lại một khoảng trống mà ông chỉ biết bù đắp bằng những bản tình ca đẹp nhất. Nghìn trùng xa cách, Tóc mai sợi vắn sợi dài, Nha Trang ngày về, Giết người trong mộng, Phượng yêu… Đó là những bản tình buồn da diết, có lúc mơ màng hoài niệm quá khứ: tôi xây lại mộng mơ năm nào, bờ biển sâu, hai đứa tôi gần nhau
, có lúc giận dữ, oán hờn vì một mất mát quá lớn lao: giết người đi, giết người trong mộng đã bội thề
…
Một chuỗi những khúc nhạc tình đẹp nhất, đỉnh điểm nhất trong những tình khúc của nhạc sĩ PD, đối với nhãn quan giới trẻ chúng ta bây giờ đôi khi “quá ủy mị, quá tuyệt vọng”. Nhưng đấy là họ chỉ nhìn thấy phần ca từ của các bài hát, còn tôi, tôi lại thấy đó là những dáng nhạc đẹp nhất trong sự nghiệp sáng tác của PD.
Một chuỗi những trăn trở tình yêu nối tiếp nhau, đã có quá nhiều suy tư, dằn vặt để rồi kết thúc bằng Mùa thu chết, bài thơ nổi tiếng của thi sĩ Pháp Apollinaire ấy tìm được một chốn an trú vĩnh hằng trong một mộ phần không kém phần đẹp đẽ:
Ta ngắt đi, một cụm hoa thạch thảo. Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi, mùa thu đã chết, em nhớ cho… đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa, trên cõi đời này, trên cõi đời này…
Nhưng những tưởng kỷ niệm đã chết, đã ngủ yên, kỷ niệm vẫn còn trở về thổn thức, giày vò trong Thu ca điệu ru đơn: Mùa thu nức nở, tiếng thở dài, tiếng vĩ cầm, buồn ru điệu ru đơn… Lòng ta khốn khổ, đến mỏi mòn, buồn ru điệu ru đơn… Ta đi và ta đi, theo ngọn gió cuốn ta đi, trôi dạt đây đó, như chiếc lá mùa thu, lá chết vàng khô…
Lại là một bài thơ Pháp nữa của Paul Verlain. Tôi đặc biệt thích ca khúc sau này, vì lẽ những ca khúc trước đã nghe nhiều lúc nhỏ, Thu ca điệu ru đơn là một tiếng thở dài mới mẻ. Hình như chỉ những điều đang tới và những điều đã qua là duy nhất đẹp khi đối diện cái thực tại đằng đẳng tàn nhẫn này.
(Còn tiếp…)
phạm duy, 4
Tôi biết rằng niềm đau khổ
là sự cao thượng duy nhất.
(Baudelaire)
Chưa bao giờ tôi khóc khi nghe người ta hát. Thế mà tối hôm đó nước mắt tôi cứ chực trào xuống trong suốt thời gian tôi ngồi nghe nhạc sĩ Phạm Duy hát bài tâm ca số 5 của anh… Trong ánh mắt của những trẻ tuổi hôm ấy, tôi quả đã đọc thấy tha thứ và tin yêu. (Thích Nhất Hạnh)
Cuối những năm 60, 10 bài tâm ca của nghệ sĩ PD là một sự kiện có ý nghĩa xã hội lớn lao. Lúc này, quân đội Hoa Kỳ chính thức có mặt tại miền Nam Việt Nam, về mặt xã hội, đây là một giai đoạn đỗ vỡ về niềm tin và luân lý, một thời kỳ sợ hãi, hoài nghi và khinh thị. 10 bài Tâm ca ra đời là để phản ứng với hoàn cảnh ấy. 10 bài Tâm ca: Tôi ước mơ, Tiếng hát to, Ngồi gần nhau, Giọt mưa trên lá, Một cành củi khô, Kẻ thù ta, Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi, là những ca khúc đơn giản về mặt âm nhạc, nhưng thẳng thắn và ác liệt về ngôn từ. Nhiều trong số những bài tâm ca này đã được các ca sĩ phản chiến Mỹ dịch và hát bằng tiếng Anh. Riêng tôi, tôi đặc biệt yêu thích nét thánh nhạc đơn giản mà thiêng liêng trong Giọt mưa trên lá, bài nhạc đã được post ở Phạm Duy 1.
Sau 10 bài tâm ca, PD viết Vỉa hè ca, Tục ca, nhưng không phổ biến ra công chúng, bởi vì những ca khúc này chỉ có tác giả mới dám hát! Người ta chỉ biết qua một số nhan đề và ca từ được nhắc lại: Sức mấy mà buồn, Bỏ đi Tám, Okê Salem… Về những chi tiết này xin xem Hồi ký Phạm Duy, tập 3, chương 19. Nhiều người phê bình Phạm Duy đã đem nghệ thuật đến chỗ nhảm nhí, thô bỉ, nhưng tôi thiết nghĩ đó là những ca khúc viết chơi, không phổ biến. Còn riêng về con người tác giả, cũng giống như mỗi người chúng ta, tiếu lâm, tục tĩu đâu phải là cái gì không phổ biến trong cuộc sống, đâu phải là chuyện gì quá to lớn?! Bên cạnh ngưỡng mộ tài năng, tôi còn thích PD ở chỗ ông là một người Việt Nam điển hình, bao gồm cả rất nhiều điểm xấu: dễ dãi, bao đồng, đôi lúc hời hợt, dung tục… nhưng ít ra ông vẫn thẳng thắn: sức mấy mà buồn, nỗi buồn Giao Chỉ không lớn…
Sau Tâm ca, tác giả PD viết tiếp Tâm phẫn ca, một chùm ca khúc tuy ít hơn Tâm ca về số lượng, nhưng lại phẫn uất hơn nhiều về ca từ. Những ca khúc này có bối cảnh ra đời chính là Tết Mậu Thân 1968: Tôi không phải gỗ đá, Nhân danh, Bi hài kịch, Đi vào quê hương, Người lính trẻ, Chuyện hai người lính và Bà mẹ Phù Sa. Tuy nhiên, tôi có cảm giác rằng những chùm ca khúc viết theo chủ đề này (Tâm ca, Tâm phẫn ca), về mặt âm nhạc lại ít có bài hay, chỉ có những bài ca lẻ, viết theo ngẫu hứng lại là những bài xuất sắc về mặt âm nhạc.
Một lúc nào đó, dưới nhiều áp lực, PD cũng đã viết những ca khúc tuyên truyền chính trị (tuy vậy vẫn mang tính trái khoáy, khôi hài ngấm ngầm, kiểu như Một hai ba ta đi lính Cộng hòa). Tuy có nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh vấn đề này, nhưng tôi nghĩ, không dễ gì khuất phục thâm tâm của một người nghệ sĩ lớn. Tự do tư tưởng, tự do sáng tạo là cái tự do lớn nhất của một con người, nhất là một người nghệ sĩ như PD.
(Còn tiếp…)
phạm duy, 3
Hãy nhìn cho khá sâu xa,
và sẽ nhìn thấy khúc điệu.
(Carlyle)
Nói vậy chắc không ai tin. Lúc tôi đã có vợ, tôi chỉ yêu một người phụ nữ trong 10 năm trời với mối tình rất nghệ sĩ. Tôi không đụng chạm tới cái chân lông của cô ấy. Cô ấy làm 300 bài thơ tặng tôi, tôi viết tặng cô ấy gần 50 bài tình ca hay nhất đời mình…
NS PD nói những lời này hiển nhiên là nói thật, tôi tin là như thế. Có điều đó chỉ là một nửa sự thật. Có thể ông đã yêu một người 10 năm trời mà không hề đụng chạm tới cái chân lông cô ấy, nhưng cũng trong thời gian đó, ông cũng có thêm vài đứa con rơi ở đâu đó. Để biết về cái nasty reputation người NS này, xin đọc 3 tập hồi ký của ông.
Năm 1954 đánh dấu một bước chuyển biến trong sáng tác của nhạc sĩ Phạm Duy. Ông hoàn thành phần đầu tiên của trường ca Con đường Cái quan (phần Từ miền Bắc), và bắt đầu chuyển hướng qua viết nhạc tình. Ở đây tôi xin phép được bỏ qua những phê bình hướng về đời tư của tác giả, một người có hàng chục (nếu không muốn nói là hàng trăm) người tình… Chỉ có một điều, nhạc tình của Phạm Duy cũng tuyệt diệu không kém gì những loại nhạc khác của ông.
Đường xưa lối cũ, Đường chiều lá rụng, Hoa rụng ven sông, Cho nhau, Xuân thì, Tìm nhau, Đừng xa nhau, Ngày đó chúng mình, Đường em đi, Thú đau thương, Còn gì nữa đâu, Kiếp nào có yêu nhau… chỉ là một ít trong số rất nhiều bản nhạc tình tuyệt vời của con người đào hoa Phạm Duy. Một số nhạc phẩm chỉ là những mối tình “sinh viên” lãng mạn, hẹn hò, một số lại là những cuộc tình gây chấn động tâm tưởng và để lại những vết cắt, vết đau lâu dài.
Trong số đó Đường chiều lá rụng là một bản nhạc đặc biệt, rất “khó chịu”, tinh vi về nhạc thuật, tác giả đã bỏ ý định chiều lòng đa số quần chúng nghe nhạc mà đặt nghệ thuật lên trên hết. Đây là một bản nhạc phức tạp, rất kén người biểu diễn và người nghe. Tuy vậy, Kiếp nào có yêu nhau và Nghìn trùng xa cách mới thực sự là một trong những đỉnh cao của nhạc tình PD. Có lẽ PD chỉ thực sự yêu có một người, và dành tất cả những bài tình ca hay nhất của mình cho người ấy, nhưng đấy lại là một tình yêu Platonic (chỉ có điều ông lại có những cái non-Platonic ở quá nhiều những người khác!).
Năm 1960, PD hoàn tất trường ca Con đường cái quan, một công trình của nhiều năm làm việc và của một lời hứa thời hoa niên: ghi lại những gì ông đã tai nghe mắt thấy trên chuyến du ca xuyên Việt theo gánh hát Đức Huy. Qua những năm 60, khi cuộc sống gia đình đã ổn định tại Sài gòn, khi đã hoàn tất những đại tác phẩm, nhạc sĩ PD quay sang sáng tác những tác phẩm nho nhỏ xinh xinh: Xuân ca, Bài ca trăng, Bài ca sao, Nước mắt rơi, Ngậm ngùi, Mộ khúc…
Ngoài ra, ông còn bắt đầu viết những công trình nghiên cứu về dân ca cổ nhạc: Đặc khảo dân nhạc Việt Nam (NXB Hiện Đại, 1972) và Đường về dân ca (NXB Xuân Thu, USA, 1990). Hiện tôi mới chỉ tìm được soft-copy của công trình đầu, xin post ở đây, (format ebook PRC), cuốn Đường về dân ca là một tác phẩm quan trọng nhưng do xuất bản tại Mỹ nên đến giờ tôi vẫn chưa tìm được. Những bài dân ca chúng ta còn nghe được hôm nay: Trèo lên Quán Giốc, Qua cầu gió bay, Cây trúc xinh… là nhờ công của ông.
Điều tôi yêu ở những ca từ của PD là chúng đẹp, tân kỳ nhưng đơn giản, gần gũi, không trừu tượng xa vời, không đao to búa lớn. Ca từ cũng như nhạc của ông không triết lý, không siêu hình, chỉ là những thoáng chớp thăng hoa của cảm xúc, của tâm hồn, vậy thôi: Vâng, tôi còn yêu, tôi còn lẽo đẽo mang nhiều mộng nghèo, đường về cõi tiên xa vời, nhạc trời đứt dây tơ rồi, thần đồng gãy đôi cánh vàng tả tơi… Vâng, tôi còn yêu, bên bờ suối vắng lạnh lẽo tiêu điều. Dòng lệ hết vơi lại đầy, ngập lụt thế gian đêm ngày, chập chờn bóng ma kêu bầy cuồng quay… (Tôi còn yêu tôi cứ yêu).
(Còn tiếp…)