bắc hành – 2017, phần 13

Nhận thấy một loạt những di tích lịch sử gắn liền với nhà Trần nằm kề cận nhau trong địa bàn 2 tỉnh Hải Dương và Quảng Ninh, bèn quyết định đi thăm cho được đầy đủ, nhất là những ngôi chùa gắn liền với Thiền phái Trúc Lâm thời Trần. Nằm cách Côn Sơn chỉ độ 50 km là Yên Tử, một đỉnh núi cao trên 1000 m thuộc vòng cung Đông Triều. Quyết định leo lên đỉnh Yên Tử cũng khá là ngẫu hứng nên phần nào… đã không lường trước hết được những khó khăn của chặng đường.

Con đường lên đỉnh núi chỉ dài khoảng 6 km, những bậc thang được xây dựa vào sườn núi, gần đỉnh là đường đi trên những mỏm đá, nhưng có chút ít tôn tạo, xây dựng của bàn tay con người để dễ đi hơn. Mất hơn 6 tiếng đồng hồ cả đi và về trên con đường chỉ 6 km ấy, đơn giản vì rất nhiều đoạn là… dốc đứng. Đường lên Yên Tử không dành cho người có sức khoẻ kém, ngay cả khi bạn đi bằng cáp treo, vì 2 hệ thống cáp treo nối tiếp nhau chỉ giúp tiết kiệm được khoảng 60% quãng đường.

Rải rác từ chân lên đỉnh núi là những cụm bảo tháp, nơi chôn cất tro cốt các chư tăng tiền bối… mà nổi bật nhất là của Phật hoàng Trần Nhân Tông, Trúc Lâm đệ nhất tổ, và hai vị tổ đời thứ 2, thứ 3 là Pháp Loa và Huyền Quang. Những ngọn tháp đá, gạch đơn sơ nằm lưng chừng núi, những cây thông, tùng, sứ (hoa đại) cổ thụ hàng trăm năm tuổi, cảnh tượng tịch liêu mà thanh nhã lạ thường. Chùa Hoa Yên nằm lưng chừng núi, tuy là kiến trúc trung tâm, lớn nhất của Yên Tử.

Nhưng Hoa Yên chỉ là một công trình tương đối nhỏ, đơn giản, mộc mạc, chính điện hình chữ công và tả vu, hữu vu ở hai bên. Nhưng trong mắt tôi, chính những công trình nhỏ, nguyên bản như thế mới phản ánh đúng lịch sử, mới toát lên vẻ đẹp của một chốn Thiền môn linh thiêng ngày xưa. Từ chùa Hoa Yên trở lên, có một số công trình hiện đại đang được xây dựng quy mô rất lớn, rất bề thế, như tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông được đúc nguyên khối bằng đồng nặng trên 130 tấn…

Một trong những điều tốt đẹp mà Yên Tử còn giữ được, nhờ bởi uy linh của đức Phật hoàng, chính là cảnh quan tự nhiên tuyệt đẹp, những rặng tùng cổ thụ, những rừng trúc xanh mướt. Cái tên Trúc Lâm chính là bắt nguồn từ những rừng trúc này, một giống trúc thanh cảnh, thân chỉ bằng ngón tay, ngón chân. Gần đỉnh có thể thấy nhiều cây hoa trà my cổ thụ, tiếc mới chỉ đang mùa kết nụ. Có lẻ đó là một ân hạnh tuyệt vời nhất, cho những ai hành hương Yên Tử trong mùa hoa trà my nở!

bắc hành – 2017, phần 12

Sau nhiều do dự và cân nhắc, hành trình quyết định xuôi về miền đồng bằng thay vì miền núi. Cách Lạng Sơn không xa là Hải Dương, một tỉnh với nhiều di tích gắn liền với nhà Trần và nhất là Phật giáo thời Trần… Hành trình xuôi Nam lại đi qua địa phận ải Chi Lăng như năm ngoái, một vùng nay trồng nhiều mãng cầu (miền Bắc gọi là quả na), đến địa phận thị trấn Kép & Vôi (Bắc Giang) thì vào quốc lộ 37 đi về phía Chí Linh, mà sườn tây của thị xã là vùng Vạn Kiếp, thái ấp của Hưng Đạo vương xưa kia.

Vạn Kiếp nằm không xa Lục Đầu giang, là nơi hội tụ của 6 con sông: sông Thương, sông Cầu, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Môn, sông Thái Bình. Phải đến đây thì mới hiểu những ghi chép mơ hồ, thiếu chi tiết thực tế trong sử sách về 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông của nhà Trần, phần nhiều các trận đánh lớn đều diễn ra trên địa hình sông, đầm lầy, biển để lợi dụng sức mạnh của thuỷ binh, thế mạnh của nhà Trần, và hạn chế, né tránh bớt sức mạnh của kỵ binh Mông Cổ.

Ghé thăm đền Kiếp Bạc, thuộc địa phận 2 làng Kiếp và Bạc, thái ấp xưa kia của Hưng Đạo Vương. Dù đền thờ Trần Quốc Tuấn có tại rất nhiều nơi trên khắp cả nước (như đền Trần ở Nam Định), nhưng thiết nghĩ đền Kiếp Bạc ở Vạn Kiếp này mới là công trình tiêu biểu nhất. Dù thời gian đã xoá mờ phần nhiều những đường nét hoa văn, trang trí, những nét chữ xưa, nhưng đại để cũng hình dung ra được phần nào địa thế rất đẹp của công trình, trong chính điện, 1 tấm hoành phi lớn đề: Trần triều hiển thánh.

Cách đền Kiếp Bạc không xa là chùa Côn Sơn, công trình gắn liền với Nguyễn Trãi, người chọn nơi đây là nơi an dưỡng, trí sĩ những năm cuối đời. Nhưng chùa Côn Sơn ra đời từ rất lâu trước thời Nguyễn Trãi, Côn Sơn, cùng với Yên Tử và Quỳnh Lâm là 3 trung tâm lớn của Trúc Lâm thiền phái thời Trần. Chùa Côn Sơn phải nói là ngôi chùa cổ đẹp và hoành tráng nhất mà tôi từng thăm thú, dĩ nhiên không kể các công trình chùa chiền xây bằng kỹ thuật hiện đại (bê – tông giả gỗ) sau này.

Chùa nằm dưới chân một ngọn núi thấp, địa thế rộng rãi, bằng phẳng, tiền môn, cổng chính, tiền điện vẫn là những công trình cổ được tôn tạo lại. Nhưng chính điện và hậu điện đã không còn tồn tại được với thời gian, và đã được xây dựng mới dựa trên nguyên bản cũ, từ hình dáng cho đến kích thước, nên đại khái tạo nên một cảnh quan rộng rãi, hài hoà, đẹp mắt. Đứng giữa sân chùa này, tự dưng nhớ và đọc lại được suôn sẻ nguyên bản Hán Văn của Côn Sơn ca, một bài ngỡ đã quên từ lâu!

bắc hành – 2017, phần 11

Rời Trà Cổ nhưng trong lòng vẫn không hết băn khoăn tại sao những cộng đồng di dân rải rác dọc khắp bờ biển Việt Nam đều mang một đặc tính chung là rất cô lập và cực kỳ bảo thủ, những ngữ âm địa phương ít nhiều giống nhau được bảo lưu với rất ít đổi thay trong suốt hơn 500, 600 năm lịch sử. Trong khi đó, những cộng đồng di dân về phía miền núi lại thường hoà nhập vào với môi trường bản địa tốt hơn, trong suy nghĩ của tôi, lý ra, điều ngược lại đúng hơn mới phải!?

Đã đến với Trà Cổ, Móng Cái, vùng đất địa đầu tổ quốc, hành trình quay ngược lại theo quốc lộ 4B đi về phía Lạng Sơn, cách không xa chỉ chừng hơn 100 km. Nhưng trước khi đến thành phố Lạng Sơn, ghé qua bản Chu, xã Khuất Xá, huyện Lộc Bình, nơi vẫn còn lưu giữ một ít lịch sử di dân của tộc Việt. Ở miền biên viễn này, có những thôn xóm nhìn vào như là của người Tày, từ nhà ở, trang phục cho đến phong tục tập quán… nhưng cư dân ở đó lại không nói tiếng Tày, chỉ nói tiếng Việt.

Đó là con cháu của những cư dân Việt di cư đến nhiều thế kỷ trước, như nhà họ Vi, vốn gốc Đông Thành, Nghệ An, chuyển đến châu Lộc Bình này từ thời Lê Lợi. Đến đời cụ tổng đốc Vi Văn Định là 14 đời làm thổ ti cai quản xứ Cao Lạng (Cao Bằng, Lạng Sơn). Đó là một chính sách giữ đất nhất quán của các triều đại phong kiến xưa, di dân người Việt, dùng người miền núi quản mặt núi, dùng người miền biển giữ mặt biển! Sau bao thời gian chiến tranh tàn phá, nay chỉ còn duy nhất một chiếc cổng!

Bản Chu nằm trong một thung lũng nhỏ sườn đông nam của đỉnh núi Mẫu Sơn, một cộng đồng Tày – Việt với nhiều di tích hoang tàn (bản bị tàn phá nhiều nhất trong chiến tranh biên giới năm 1979, nằm cách đường biên chỉ tầm 6, 7 km theo đường chim bay), nhưng vẫn còn đây đó một số vết tích cổ: giếng nước, tường thành, bờ ao, các công trình phòng thủ… Và nhất là những ngôi nhà cổ xây gạch hai tầng khang trang bề thế, tất cả giúp hình dung nên những nề nếp sinh hoạt xưa.

Hành trình tạm dừng đón Tết ít ngày ở thành phố Lạng Sơn, thời gian trôi qua ở thành phố “mậu biên” này, những tiếp xúc nhiều hơn với người địa phương, những cảm nhận thực hơn về cuộc sống, những mối quan tâm của giới trẻ, những suy nghĩ toan tính của lớp già… Có nhiều cân nhắc về những chặng kế tiếp của hành trình, có một sự phân vân không hề nhẹ giữa ước muốn đi lên miền núi đầy màu sắc ở phía Bắc, hay xuôi về những cộng đồng Việt giàu truyền thống ở đồng bằng…

bắc hành – 2017, phần 10

Hạ Long và Tuần Châu là những khu đô thị mới, được xây dựng rất khang trang và hiện đại, cảnh quan nhìn rất rộng rãi. Hành trình tiếp tục ghé qua Bãi Cháy, vượt cầu Bãi Cháy bắt qua cửa vịnh Cửa Lục để đi về thị xã Hồng Gai cũ, nay là một phường của tp. Hạ Long. Cầu Bãi Cháy nằm trên một địa thế chênh vênh, phức tạp, nối liền hai ngọn đồi cao nơi cửa vịnh, độ tĩnh không 50 m cho thuyền lớn lưu thông, là một cảnh tượng khá ngoạn mục. Dải bờ biển Hồng Gai là một vùng rất rất đẹp.

Một vùng biển nước êm xanh mướt với vô số những hòn đảo nhỏ nằm rải rác cách bờ không xa, như những bức bình phong chắn sóng gió. Trong một giây phút, tôi ước gì mình có thể sắp đặt cuộc sống của mình quanh vùng này, cảnh tượng hoành tráng, đẹp không thua gì dải bờ biển Phan Thiết – Cam Ranh, nhưng lại có nét đặc sắc rất riêng. Cảnh quan này thật đúng là: Nhận nước trăm sông sóng cuộn đầy, Núi bày cờ thế, biếc liền mây… (thơ của vua Lê Thánh Tông khắc trên núi Bài Thơ).

Quá Hồng Gai một chút, đoạn bắt đầu của vịnh Bái Tử Long, đã thấy dấu vết của những vùng khai thác than, tàu chở than đậu san sát trên mặt vịnh. Ven bờ là những nhà máy “tuyển than”, bụi than đen bám khắp sông ngòi phố xá. Nhưng khai thác xuất khẩu than đã bị hạn chế lại đáng kể những năm gần đây, không còn dạng xuất than vô tội vạ đi Trung Quốc, chính sách chung là để dành than cho những nhà máy nhiệt điện đang được xây ven bờ biển Việt Nam suốt dọc từ Bắc vào Nam.

Cứ đi dọc bờ vịnh Bái Tử Long như thế đến thị trấn Cửa Ông, nay là phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả. Rồi từ Cửa Ông, qua một loạt 3 chiếc cầu để ra đảo Vân Đồn. Dọc bờ biển vùng từ Hạ Long đến Cẩm Phả này, có thể thấy khá nhiều di tích lịch sử gắn liền với triều Trần, như đền Trần Quốc Nghiễn, đền Cửa Ông, đền Cửa Suốt, đền Cặp Tiên… Tiếp tục đi dọc bờ biển đến thành phố Móng Cái, ghé thăm đảo Trà Cổ, mũi đất Sa Vĩ, vùng đất địa đầu tổ quốc sát biên giới với Trung Quốc.

Đình Trà Cổ (1461) có kiến trúc tương tự như đình Mông Phụ (Đường Lâm, Sơn Tây), đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) đã ghé thăm trong các chuyến xuyên Việt trước, nhưng có tuổi đời nhiều hơn đến 2, 3 thế kỷ! Trà Cổ do một nhóm lính gốc Đồ Sơn vâng lệnh triều đình ra trấn thủ biên cương lập nên. Một ngạc nhiên đến sửng sờ khi phát hiện ra, cư dân ở đây vẫn còn bảo lưu một giọng nói thô ráp, cứng cáp đặc trưng của vùng Thanh Hoá, khác hẳn với chất giọng mềm mại của miền Bắc!

bắc hành – 2017, phần 9

Lang thang dọc bờ biển Cát Bà, gặp một bác ngư dân đang… đóng thuyền. Trò chuyện một lúc thì nhận thấy, chiếc vỏ composite, dày khoảng 6, 7 ly, được đúc hàng loạt, khá chắc chắn ở một nơi khác. Bác ngư dân mua về, tự làm thêm phần mộc (boong, cabin…) và phần cơ khí (máy móc, tời kéo…) để thành chiếc tàu cá như ý. Thử hỏi một vài câu, kiểu như: nếu cái vỏ này thủng thì vá như thế nào, thì biết người ngư dân hiểu về composite và rành rẽ cách làm việc với sợi thuỷ tinh và keo.

Tuy không thích đa số các mẫu thiết kế thuyền trong vịnh Bắc bộ, nhưng phải thừa nhận một điều rằng người ngư dân miền Bắc chịu khó, nhanh nhạy và biết việc hơn hẳn những vùng khác. Người ngư dân miền Trung, miền Nam vẫn còn khá trung thành với gỗ, chưa chấp nhận và hiểu nhiều về composite, hoặc có hiểu nhưng làm chưa đúng. Với tình hình gỗ tốt ngày càng hiếm và đắt như hiện này, thì việc chuyển sang chất liệu composite ở các dạng thuyền nhỏ là xu thế không tránh khỏi.

Quyết định ở thêm ít ngày tại Cát Bà, mua một tour nhỏ một ngày đi thuyền trong vịnh Lan Hạ để quan sát thêm về vùng biển quanh đây. Về cái tên Lan Hạ, thực chất đó là vấn đề thương hiệu, để tránh xung đột với cái tên Hạ Long, thực chất, chỉ có một vùng biển, một vịnh biển duy nhất, mỗi công ty du lịch được quyền khai thác một phần của nó! Hoá ra, đây là điều tuyệt vời nhất tôi được chứng kiến, được trải nghiệm trong suốt cả hành trình này: đi thuyền trên vịnh Hạ Long!

Tàu đưa du khách đi qua những vùng biển nước trong xanh như ngọc, luồn lách giữa hàng trăm đảo lớn, nhỏ đủ mọi kích cỡ. Riêng quần đảo Cát Bà này đã có khoảng hơn 340 đảo lớn nhỏ, nhiều cái chỉ bé như một hòn đá với muôn ngàn hình thù kỳ dị nổi lên giữa biển khơi. Rải rác đây đó là những bãi cát, rạng san hô nho nhỏ, những địa điểm lý tưởng để sau này tôi có thể neo thuyền dựng lều, cắm trại! Những “thuỷ lộ” xinh đẹp mở ra giữa một “thạch lâm” – khu rừng đá!

Chỉ có một số thằng Tây trẻ với thằng Việt già (+khùng) này mới chèo kayak 5km xuyên qua những hang ngầm và bơi 1km trong cái thời tiết rét căm căm này! Nước biển rất rất lạnh, sau cái sốc nhiệt ban đầu thì mọi việc hoá ra cũng không tệ như tôi nghĩ. Một chút vận động, lại được chèo kayak, lại được vẫy vùng giữa biển khơi! Rời Cát Bá trong luyến tiếc, tôi đáp chuyến phà Gia Luận – Tuần Châu đi về đảo Tuần Châu, rồi chạy về thành phố Hạ Long qua cầu nối đất liền với đảo!

bắc hành – 2017, phần 8

Đồ Sơn là một bán đảo dài và hẹp, có địa thế rất đẹp, giờ đây đã san sát rất nhiều những khu du lịch, nghỉ dưỡng, nhà hàng và khách sạn. Chỉ chạy một vòng quanh bán đảo, chú ý quan sát địa thế khu vực này, mũi đất nằm giữa hai con sông Văn Úc và Lạch Tray. Sông ngòi miền Bắc thường ít phù sa hơn miền Nam, nên các bãi bồi và rừng ngập mặn cũng thường nhỏ hơn. Biển Đồ Sơn đa phần là bãi cát trắng, nước không được trong lắm, đôi chỗ cũng có bãi bồi với chút ít phù sa và rừng ngập mặn nhỏ.

Điều đáng lưu ý là rừng ngập mặn ở phía Bắc này cũng thường nhỏ và thấp hơn ở miền Trung & miền Nam, những bụi cây chỉ thường cao ngang cỡ đầu người. Những chi tiết cũng rất quan trọng nếu sau này có phải cắm trại hay kéo thuyền lội qua rừng. Trời đã quá trưa xế chiều nên chạy gấp cắt ngang qua thành phố Hải Phòng để đi về bến phà Đình Vũ – Ninh Tiếp qua đảo Cát Hải, chạy xuyên qua đảo Cát Hải để bắt chuyến phà cuối bến Gót – Cái Viềng để ra đảo Cát Bà.

Cầu Tân Vũ – Lạch Huyện nối thành phố Hải Phòng với đảo Cát Hải đang trong giai đoạn xây dựng cuối nhưng vẫn chưa thông xe. Tuy mất hai lần phà để đến được Cát Bà nhưng quan sát thấy giao thông tương đối thuận lợi, đảo lại nằm không xa đất liền, nên đoán rằng du lịch ở đây sẽ rất phát triển. Nhưng phải đến sáng hôm sau mới quan sát được bình minh đang lên trên thị trấn Cát Bà, một khung cảnh tuyệt đẹp hiện ra, bờ vịnh kín gió, nước xanh như ngọc, tàu bè neo đậu thanh bình.

Cát Bà là nơi du lịch rất phát triển, cung cách của người làm du lịch nơi đây (tuy vẫn còn khá chanh chua) cũng đã khá chuyên nghiệp. Kêu một ly cafe ngồi phè bên bờ vịnh hóng gió, nhìn ra khơi xa, thời tiết tuy khá lạnh nhưng đã có nắng và không mưa, rồi chạy xe xuyên qua rừng Quốc gia trên đảo về phía bến phà Gia Luận, cũng là một khung cảnh rất đẹp. Điểm nhấn trong ngày là lên điểm cao 177, pháo đài Thần Công ngắm toàn cảnh thị trấn, một cảnh tượng đẹp đến ngây người.

Hàng chục, hàng trăm hòn đảo nhỏ thu vào trong tầm mắt, và qua chiếc ống nhòm đặt tại quán cafe trên điểm cao, có thể quan sát hoạt động chi tiết của rất nhiều tàu thuyền cách xa hàng chục cây số, những điều không thể trông thấy bằng mắt thường. Pháo đài này là một công trình khá quy mô xây thời chống Mỹ, kiểm soát một vùng biển rộng lớn. Nhiều điểm đã mở cửa, nhưng tôi ngờ rằng, nhiều hầm ngầm âm trong lòng núi vẫn bị đóng cửa không cho du khách tham quan.

bắc hành – 2017, phần 7

Thị trấn Quất Lâm không phải chỉ có điều mà ai cũng biết tới, thực sự đây là một cảng cá, vùng nuôi trồng thuỷ sản và là nơi đóng tàu khá lớn. Những con tàu cá đóng bằng gỗ ở đây nhìn khá bắt mắt, được đóng theo một lối nửa hiện đại, nửa truyền thống, nghĩa là vẫn xây dựng một số (khá ít) khung cơ bản trước rồi mới ghép ván vào, nhưng tàu hoàn toàn không có ki (sống lưng), chỉ có một ít đà, sống ở gần mũi và gần đuôi để chịu lực, ở dưới đáy tàu chỉ có duy nhất một lớp ván gỗ.

Từ Quất Lâm, tiếp tục đi dọc theo triền đê biển đến vườn quốc gia Xuân Thuỷ. Lại là những hệ thống đê điều, cống, ngòi… thể hiện sự dày công tạo tác của con người. Ngoài cũng phía biển là những bờ kè chắn sóng, trong một chút là những bãi bồi với rừng ngập mặn xen lẫn với bãi cát. Trong nữa là đê biển, có nhiệm vụ ngăn mặn, với nhiều cống xả nước từ sông ra. Bên trong đê là vùng nuôi tôm, trong nữa là vùng trồng lác, cói (dệt chiếu), trong nữa mới đến vùng trồng lúa và những loại hoa màu khác!

Một phát hiện rất đáng ngạc nhiên về sự sáng tạo của người ngư dân, lần đầu tiên tôi thấy ghe biển chạy máy mà có cái xiếm – centerboard (thanh gỗ màu đỏ, hình 5, 6) như ghe buồm! Trò chuyện với một bác ngư dân và xác nhận đó chính là cái xiếm, đâm xuống rất sâu đằng mũi ở vị trí ngay sát mớn nước. Và không phải chỉ có một chiếc, thuyền đi biển vùng này đồng loạt đóng như thế. Có thể vì cấu trúc thuyền đáy tròn, thân ngắn và rộng nên cần xiếm để cho bớt lắc và đi thẳng hơn.

Từ Giao Thuỷ, qua phà Cồn Nhất bắc qua sông Hồng, bên kia đã là tỉnh Thái Bình. Mất một vài giờ đi lạc trong cái ma trận những cầu cống, đê điều và sông ngòi này… những hệ thống đường phức tạp mà Google Map chưa kịp cập nhật đến. Cũng phải nói thêm rằng, đồng bằng Bắc bộ, mà điển hình là tỉnh Thái Bình, đã đô thị hoá cao độ, nhiều nơi không thể phân biệt đâu là nông thôn, đâu là phố thị… nhà cửa và công trình xây dựng san sát. Loay hoay một hồi mới đến được thị trấn Tiền Hải.

Rồi qua sông Trà Lý, sông Diêm Hộ đi về thị trấn Diêm Điền, là một thị trấn biển nhỏ, nhưng có một vẻ “miền Nam” đáng kinh ngạc, có thể dễ dàng tìm thấy những đồ ăn thức uống phổ biến của phía Nam ở đây: cà phê, cơm tấm, bánh xèo, chè Huế, etc… Rồi từ đây, qua sông Hoá (một nhánh của sông Thái Bình) là đã vào địa phận Hải Phòng, dừng lại một lúc để mua một ít thuốc Lào Tiên Lãng, rồi lại theo tỉnh lộ 354 qua cầu Khuế (sông Văn Úc), theo tỉnh lộ 402 đi về phía bán đảo Đồ Sơn.

hạ long

Nhiều nhiều con trăng về trước, tự dưng có mối quan tâm đến nhiếp ảnh, thằng này nghĩ rằng mình có những khả năng nhất định với những nghệ thuật “tĩnh” của thị giác như hội hoạ, nhiếp ảnh, đồ hoạ… Trên chuyến tàu Hạ Long này, gặp một ông già người Ý, ông ấy đem theo một “tấn” dụng cụ để sáng tác.

Thấy có một số máy medium – format, không phải chỉ là những loại full – frame DSLR bình thường. Đứng trên boong tàu này, nhìn ra chân trời, như một sự chế nhạo hài hước, giấc mơ nhiếp ảnh đã tan như bọt nước! Một ngày nào đó, có thể là 30, 40 năm nữa, có thể cũng sẽ loay hoay chụp hình như ông già kia. Nhưng ko phải bây giờ, vị trí của mình bây giờ phải là ở đâu đó trên lưng những con sóng!

bắc hành – 2017, phần 6

Đây là lần thứ 3 trở lại vùng hạ lưu sông Lam, một dải từ cửa Hội đến cửa Lò (sông Cấm), huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Có những điều khó diễn tả nên lời, nhưng nhìn bến cảng, nơi neo đậu thuyền, cách tổ chức đường sá đi lại, có một cái gì đó rộng rãi, ngay ngắn, sạch sẽ… thể hiện cá tính có tổ chức của người dân nơi đây. Vùng cửa Hội, tàu bè neo đậu ven sông hay trong những kênh rạch một cách ngay hàng thẳng lối, không dầy đặc lộn xộn như phần nhiều các cảng cá khác của Việt Nam.

Rồi lại chạy dọc ven biển đến Bãi Lữ, cửa Lạch Vạn, thuộc huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Rồi lại lang thang vùng cửa Lạch Quèn, làng muối Quỳnh Long, vùng cửa Còn, nay là thị xã Hoàng Mai, Nghệ An. Rồi theo quốc lộ 36 thăm cảng nước sâu Nghi Sơn, tới đây là đã bước sang địa phận huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá. Bỏ qua một đoạn từ Sầm Sơn, thành phố Thanh Hoá (đã thăm thú kỹ trong chuyến xuyên Việt năm ngoái) theo quốc lộ 10 đi về hướng thị trấn Phát Diệm, Ninh Bình.

Từ Phát Diệm, qua đò Mười và đò Cau, hai chuyến phà nằm rất gần nhau băng qua sông Đáy và sông Ninh Cơ là đã vào địa phận tỉnh Nam Định. Trong chuyến xuyên Việt năm trước, đã tham quan kỹ vùng Phát Diệm, và cũng đã để ý phần nào đến hệ thông sông ngòi, kênh rạch, cống ngăn mặn và tưới tiêu thuỷ lợi nơi đây. Nhưng càng đi sâu vào vùng duyên hải của các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình… mới cảm nhận được hết tầm vóc và quy mô của các công trình thuỷ lợi này!

So với miền Nam, thì sông ngòi kênh rạch vùng này không thể bì được về độ lớn và độ phức tạp. Nhưng so về các công trình tạo tác của con người: đê, kè, đập, cầu, cống, ngòi… bao nhiêu thế hệ đã dày công xây dựng, thì nơi đây quả thật đáng kinh ngạc. Những công trình thuỷ lợi lớn như thế này thể hiện một đời sống cộng đồng lâu đời, có quy hoạch và tổ chức nghiêm chỉnh, có sự phân công lao động chi tiết, có những luật lệ, quy ước rõ ràng về đời sống, về tổ chức làng trên xóm dưới.

Thêm nhiều điều đáng suy nghĩ về cuộc sống của đồng bằng Bắc bộ xưa, những lề luật, khuôn khổ của nó, những mâu thuẫn giữa duyên hải và nội địa, giữa trung ương và địa phương, giữa nhu cầu duy trì ổn định cộng đồng và nhu cầu sáng tạo, phát triển những cái mới. Vùng duyên hải Bắc bộ này cũng có nhiều làng Công giáo lâu đời, nhà thờ mới cũ mọc lên san sát… Hành trình tiếp tục đi ven biển, về hướng nhà thờ đổ Nam Định, thị trấn Quất Lâm và vườn quốc gia Xuân Thuỷ.

cát bà

Chỉ một số thằng Tây trẻ & thằng Việt già (+khùng) mới chèo kayak 5km, bơi 1km trong cái thời tiết rét căm căm này. Một trãi nghiệm cực kỳ thú vị, sau cái sốc lạnh ban đầu thì mọi việc cũng ko đến nỗi tệ lắm. Cát Bà quá tuyệt!! Leo lên pháo đài Thần Công (điểm cao 177) ngồi uống cafe ngắm toàn cảnh thị trấn, hay đi thuyền trong vịnh Hạ Long… Rồi sẽ có một ngày, tự ta sẽ chèo qua bằng hết những thuỷ lộ này!

composite boat

Dù không thích các mẫu ghe thuyền trong vịnh Bắc Bộ, nhưng phải thừa nhận một điều: ngư dân miền Bắc chịu khó, nhanh nhạy và biết việc hơn hẳn các vùng khác. Cái vỏ composite dày khoảng 6, 7 ly, được đúc hàng loạt ở một nơi khác, người ngư dân mua về, tự làm thêm phần mộc (boong, cabin…), phần cơ khí (máy, chân vịt, tời…) để tạo thành chiếc ghe như ý.

Thử hỏi vài câu, kiểu như: “nếu cái vỏ này thủng thì vá làm sao”… là biết ngay người ngư dân rành rẽ cách làm việc với sợi thuỷ tinh và keo (polyester resin?), không như đa số ngư dân miền Trung & miền Nam (không kể thợ đóng tàu chuyên nghiệp) vẫn còn trung thành với gỗ, chưa biết nhiều về composite, hoặc có biết, nhưng vẫn chưa được thành thạo chuyên nghiệp lắm…

bắc hành – 2017, phần 5

Một cuộc gặp gỡ trên đường, ven đầm Đề Gi, Bình Định, một bác già ngoài 60 tuổi, tự giới thiệu là ngư dân (!?), bề ngoài nhìn lam lũ, nhưng nét mặt sắc sảo, tinh anh khác người. Nói chuyện trên trời dưới đất một hồi thì mình phát hiện ra bác ấy hiểu chi tiết về đội hình 1 hàng dọc, đội hình 2 hàng dọc, chiến thuật cắt mặt hình chữ T (crossing the T) cùng một lô một lốc những chiến thuật hải quân cổ điển khác… Ôi má ơi, tôi không tin một người ngư dân bình thường lại có được những kiến thức ấy!

Một cuộc trò chuyện khác, bác thợ đóng thuyền bên bờ vịnh thắc mắc: “Trông chú giống người gốc Chà Và?”, trả lời: “Dạ không, em Việt 200% mà”. Nhủ thầm trong bụng: mịa, đúng là ông đây có 1 chút “da nâu, rậm râu, sâu mắt” (Chà Và) thật, nhưng… luận về mô – đen của đàn ông Việt cách đây non 1 thế kỷ, cũng trên dải đất Trung Trung bộ này, không tin xem lại ảnh các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phan Khôi, Phan Thành Tài, etc.. thì sẽ thấy toàn là “phường” “da nâu, rậm râu, sâu mắt” cả đấy!

Từ Bình Định trở ra Bắc, tôi xem như “miền đất cũ”, nơi quá trình di dân định cư đã có một truyền thống lâu đời, làng xã có tổ chức sản xuất quy cũ hơn hẳn. Tuy vậy, những cảnh quan thiên nhiên đa phần không còn nguyên sinh, rừng cây đa số là rừng tái sinh, mới trồng lại đều tăm tắp, không có được vẻ tự nhiên như các vùng Ninh Thuận, Bình Thuận. Một ngày gió mùa Đông Bắc giảm bớt giúp có thể “thăm dò” thêm một đoạn đường ven biển bắt đầu từ phía Bắc của tp. Quy Nhơn đến Tam Quan.

Cửa sông Lại Giang với một cồn cát dài và hẹp chắn ngang chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, cửa sông Tam Quan là một cảng cá lớn, đi sâu vào trong cảng cá xem xét cách tổ chức sinh hoạt. Rồi chạy tiếp qua bãi biển Sa Huỳnh, qua Đức Phổ, Mộ Đức, tp. Quảng Ngãi, rẽ phải đi về phía cảng Sa Kỳ và khu công nghiệp Dung Quốc. Đến đây, thời tiết càng trở nên lạnh và mưa, nên tăng ga chạy nhanh qua Tam Kỳ, Đà Nẵng, Huế, Đông Hà và Đồng Hới, đây là những vùng đất đã biết khá rõ.

Hình thứ 4: chụp gần địa đạo Kỳ Anh, Tam Kỳ, Quảng Nam, 1 đoàn xe đạp hơn 20 người Hàn Quốc, đi dọc theo QL1, đa số là trẻ, chỉ có 1 số ít già. Sau lưng mỗi người có buộc 1 mảnh vải in dòng chữ: “I’m sorry Vietnam”, họ đang gởi đi 1 thông điệp… Biết rằng thời tiết mưa dầm rét buốt này còn tiếp diễn cho đến quá Quảng Bình, Hà Tĩnh, nên tiếp tục bỏ qua nhiều vùng đất chạy đến Nghệ An. Lúc này thời tiết đã hết mưa, chỉ còn lạnh khô, đây rồi cửa sông Lam rộng mở, một vùng đất mà tôi rất ưa thích!

xiếm

Ngạc nhiên nhất trong ngày, lần đầu tiên thấy ghe biển chạy máy mà có cái xiếm – centerboard (thanh gỗ màu đỏ) như ghe buồm!!! Đã nói chuyện với một bác ngư dân và xác nhận đó chính là cái xiếm, đâm xuống đằng mũi ở vị trí ngay sát mớn nước. Và không phải chỉ có một chiếc, thuyền đi biển vùng này đồng loạt đóng như thế. Có thể vì cấu trúc thuyền đáy tròn, thân ngắn và rộng nên cần xiếm để cho bớt lắc và đi thẳng hơn. Hình chụp đâu đó giữa thị trấn Quất Lâm và vườn quốc gia Xuân Thuỷ – Nam Định…

bắc hành – 2017, phần 4

Từ vịnh Vĩnh Hy tiếp tục đi về phía Bắc chẳng bao lâu là đã thấy những dãy đảo ven bờ của vịnh Cam Ranh, bắt đầu bằng đảo Bình Hưng, rồi đảo Bình Ba. Lúc này vẫn chưa qua hết vườn quốc gia Núi Chúa, cảnh quan vẫn một màu xanh biếc, thêm vào cái nắng hanh vàng của một ngày quang trời tuyệt đẹp. Những đợt sóng lớn xô bờ tung bọt trắng xoá. Riêng năm nay, gió mùa Đông Bắc không mạnh như các năm trước, sóng biển tuy hơn lớn một chút, tầm 1 ~ 1.5m, nhưng vẫn thanh bình đến lạ!

Dọc suốt bờ biển miền Trung, có rất nhiều những địa điểm cùng mang những cái tên giống nhau như: Nước Ngọt, Nước Mặn, Đá Bạc, .v.v… những cái tên mang đậm tâm thức di dân và hàng hải! Qua hết vườn quốc gia Núi Chúa, con lộ 702 nhập vào với QL 1, từ đây tôi chạy nhanh băng qua vịnh Cam Ranh, Nha Trang, đầm Nha Phu, vịnh Vân Phong… bỏ qua Ninh Hoà vì đoạn này đã thăm thú kỹ trong hành trình xuyên Việt năm ngoái. Tạm dừng nghĩ đêm ở làng chài Vạn Giã gần bờ bắc vịnh Vân Phong.

Gọi là làng chài chứ thực ra giờ đây, Vạn Giã đã là một thị trấn hiện đại, nhà cửa san sát, giá cả sinh hoạt có phần đắt đỏ, một thị trấn phồn vinh nhờ vào nghề nuôi tôm. Và theo như quan sát, thủ đô của giới buôn gỗ lậu Nam Trung bộ có lẽ đã chuyển về Vạn Giã (chứ không phải ở miệt Cam Ranh như trước). Thời tiết, khác hẳn cái nắng ấm dễ chịu của mấy ngày hôm trước, giờ đây đã chuyển sang lạnh và mưa, càng đi về phía Bắc, sự hiện diện của gió mùa Đông Bắc càng lúc càng thấy rõ!

Mục tiêu của hành trình ngày hôm sau là Vũng Rô và mũi Điện, nhưng quá Đại Lãnh, trời đổ mưa tầm tã, chiếc xế nổ của tôi liên tục tắt máy do cái nắp chụp bugi hở và thấm nước. Đành phải bỏ qua hai điểm đến quan trọng đã dự tính mà chạy tiếp đến thành phố Tuy Hoà, nơi có thể sửa được xe. Xác định đây không phải là vấn đề lớn, khắc phục dễ dàng và có thể yên tâm tiếp tục hành trình còn dài phía trước. Trời mỗi lúc mỗi mưa nặng hạt, và rét buốt đến cắt da, cảm giác rất khó chịu!

Một đợt rét vừa tràn về đúng như dự báo thời tiết vài ngày trước đã cảnh báo! Cái lạnh ướt khi chưa quen với nó gây cảm giác buốt và khiến cơ thể mất năng lượng nhanh chóng. Thời tiết này mà đi dọc ven biển thì chẳng có gì hay ho cho lắm, suy đi tính lại, quyết định tăng ga chạy nhanh qua hết đoạn Trung Trung bộ này, một phần cũng vì đoạn từ Quy Nhơn đến Quảng Bình đã biết khá rõ, một phần cũng dự tính dành lại một vài vị trí còn lại cho chuyến hành trình ngược từ Bắc vào Nam!

hòn

Hòn Bà (mũi Kê Gà), hòn Lao (mũi Né), hòn Câu (vịnh Phang Rang) etc… là những đảo nhỏ ven bờ. Hòn Rơm (mũi Né), hòn Bà (Nha Trang), hòn Bồ (Đà Lạt) etc… là những đỉnh cao nằm hoàn toàn trong đất liền. Vậy “hòn” là đảo hay là núi!? Nếu tư duy theo kiểu phân tích ấy sẽ thấy không ổn thoả. Đã bảo “hòn” tức là hòn, thế mà ko tin!

bắc hành – 2017, phần 3

Tạm biệt thị trấn Liên Hương, làng quê – phố thị yên bình tuyệt đẹp nằm bên bờ con sông Đại Hoà, hành trình ven biển tiếp tục đi về phía Bắc theo QL 1A, qua nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân (lại thêm 1 công trình nữa mang dấu ấn Trung Quốc). Vừa qua hết ranh giới của tỉnh Bình Thuận, vào đến Ninh Thuận là đến Cà Ná, một vùng đầm lớn ven biển, con đường làm du lịch vừa mới xây xong rộng đến 4 làng xe băng ngang giữa vịnh Cà Ná, xung quanh là những đầm nuôi tôm rộng lớn.

Từ đây, con đường ven biển tiếp tục vòng qua mũi Dinh, đây thực sự là một cảnh quan hùng vĩ khoáng đạt lôi cuốn tầm mắt. Con đường đi qua những động các lớn bao quanh chân các núi đá, hai bên đường phải xây những dãy tường cao chắn cát, nếu không thì chỉ sau một mùa gió, cát sẽ lấp hết những mặt đường nhựa này. Mũi Dinh, nhìn từ xa, với phần “chân” cát trắng xoá như hoà lẫn vào mặt biển và đường chân trời, chỉ còn thấy một chóp núi xanh nổi lên bềnh bồng giữa khoảng không bao la.

Qua mũi Dinh, không bao xa nữa là đến Phan Rang – Tháp Chàm. Một đô thị nhỏ, thanh bình nữa, nằm giữa hai con sông Dinh (là một con sông cùng tên, nhưng khác sông Dinh ở Ninh Thuận), và đầm Nại (bãi biển Ninh Chữ). Đấy có phải là mẫu hình chung cho khá nhiều đô thị miền Trung, luôn được xây dựng giữa hai vùng nước: đầm, sông hay phá!? Tạm dừng ăn trưa ở Phan Rang – Tháp Chàm, rồi lại tiếp tục khởi hành, ngay sát phía Đông – Bắc của Phan Rang – Tháp Chàm đã là vườn quốc gia Núi Chúa.

Từ đây trở ra đến vịnh Cam Ranh, vịnh Vân Phong theo tôi là cung đường ven biển đẹp nhất Việt Nam, con đường 702 đi qua những khung cảnh hết sức ngoạn mục, một bên là biển xanh biếc với nhiều ghềnh đá hiểm trở xen kẽ với những bãi cát trắng tinh, một bên là khu bảo tồn quốc gia ít nhiều vẫn còn nguyên sinh xanh tốt. Hành trình đi qua khu vực này trở nên rất chậm thì tôi gần như phải dừng liên tục để chụp hình và đánh dấu trên bản đồ những bãi cát có thể neo thuyền, cắm trại.

Tôi không biết điều gì làm bạn vui thú nhất, với tôi, đó là neo thuyền, cắm trại bên một vịnh biển hoang vắng, không thể đến được bằng phương tiện gì khác ngoài thuyền… Như thế bạn được an toàn khỏi “văn minh hiện đại”, ít nhất là trong một khoảng thời gian… Vịnh Vĩnh Hy, một lõm nhỏ ăn sâu vào đất liền, tuy không quá lớn nhưng lại là một nơi lý tưởng để tránh gió bão: lối vào hẹp, hầu như 4 phía đều là những sườn núi cao, từ trên nhìn xuống y hệt như một lòng chảo tròn trĩnh, xinh xắn.

địa đạo kỳ anh

Hình chụp gần địa đạo Kỳ Anh, Tam Kỳ, Quảng Nam, 1 đoàn xe đạp hơn 20 người Hàn Quốc, đi dọc theo QL1, đa số là trẻ, chỉ có 1 số ít già… Sau lưng mỗi người có buộc 1 mảnh vải in dòng chữ: ” I’m sorry Vietnam ” … Họ đang gởi đi 1 thông điệp…

rừng & rú

Yếu tố sống còn với một làng biển miền Trung là cái “rú” (chữ “rú” trong “rừng rú”), là khoảng rừng chắn gió ven biển, rộng thì vài km, hẹp thì chỉ vài trăm mét. Không có cái rú này, gió và cát tràn vào, trồng cây gì chết cây ấy, nuôi con gì chết con ấy, không ai sống được.

Ai đã đi những bước chân trần trên cát những năm tháng tuổi thơ mới hiểu, là hạnh phúc âm thầm khi đi qua những ngôi làng với dãy rú tươi tốt. Đã có thời vì vài bó củi, vì tí quặng titan mà người ta tận diệt khoảng rừng nhỏ này rồi… tự giết luôn mình. Các cụ xưa có câu: rú tan (thì) làng nát!!!

bắc hành – 2017, phần 2

Điều tôi chẳng lấy làm thích ở hầu hết các cảng cá VN, đó là dưới sông thì san sát thuyền, nhiều khi chen chúc dày đặc đến mức hỗn độn, đậu tràn kín cả mặt sông, chẳng có trật tự nào. Ngộ nhỡ xảy ra cháy, thì tất cả những tàu thuyền gỗ ấy sẽ chẳng biết xoay xở ra làm sao. Đấy là dưới sông, trên bờ thì san sát quán nhậu, những ngư dân ở đây sau những ngày vất vả trên biển, là những ngày say luý tuý, cuộc sống nghe ra vẫn có điều gì bế tắc, xoay đi xoay lại như một cái vòng luẩn quẩn!

Rời Phan Thiết đi tiếp về phía Mũi Né… từ đây trở đi là san sát các khu du lịch, các resort, nhiều không thể đếm hết. Tôi vốn không thích những chỗ đông người, nhưng không thể không cảm thấy xiêu lòng trước vẻ đẹp của bờ biển nơi đây, bờ cát trắng phớt vàng, những rạng đá ngầm nho nhỏ. Biển Mũi Né có một vẻ đẹp đơn giản, thanh bình, không hùng vĩ, nhưng cũng không đe doạ, những bờ nước hiền hoà ít vẻ hiểm trở. Toàn bộ dãy bờ biển này, hầu như nơi nào cũng đều có thể ghé thuyền cắm trại tốt.

Từ thành phố Phan Thiết trở đi, địa hình mang tính “bán sa mạc” thấy rõ: những rặng đồi dài với rừng cây bụi thấp xen lẫn những trảng cát rộng mênh mông. Con lộ 716 tiếp tục dẫn đến Hồ Trắng, một cụm hai hồ nước ngọt lớn nằm kề nhau ven bờ biển. Đến đây lúc trời gần tối, bỗng sừng sờ đứng lại trước vừng trăng tròn cực lớn đang dần nhô lên phía Đông Bắc bên kia hồ, vầng sáng lung linh lay bóng, rung động như một ảo ảnh sa mạc, một cảnh tượng đẹp đến huyền ảo, ma mị.

Màn đêm dần buông xuống thôi thúc dồn bước tiếp theo con đường về thị trấn Phan Rí Cửa, một đô thị bé tí xíu nằm bên bờ sông Luỹ. Đây cũng là một cảng cá nữa, nhưng nhỏ hơn, nơi nhịp điệu cuộc sống mang vẻ rất chi an nhàn và chậm rãi. Ngày hôm sau tiếp tục con đường ven biển đi về phía mũi đất Lagan (huyện Bình Thạnh, tỉnh Bình Thuận), và liền kề đó là bãi đá 7 màu và thị trấn Liên Hương với chùa Cổ Thạch (Tuy Phong, Bình Thuận), một vùng đất rất rất đẹp trong mắt người lữ khách!

Một vùng quê với những dãy rú (rừng cây ven biển) xanh tốt, những con tàu đánh cá nằm ngay ngắn dọc bờ vịnh, một vài chiếc được kéo lên đà sửa chữa. Thị trấn Liên Hương vốn là 1 làng chài cũ, trong làng còn có nhiều ngôi nhà đề năm xây 192x, 193x. Tôi thích những nơi có 1 tí truyền thống xưa cũ: cuộc sống ổn định, cư dân hiền hoà. Dự tính là 1 nơi rất tốt để ghé vào nghỉ ngơi, tiếp thêm nước uống, lương thực cho… chuyến chèo thuyền xuyên Việt… 1 lúc nào đó trong tương lai!