bùa chú

Nói chuyện lồng tiếng phim Hồng Kông ở bên hông Chợ Lớn, từ hồi còn nhỏ xíu, hễ mà nghe lồng tiếng kiểu đó là tôi tắt TV không xem. Xin nói rõ là tôi không có ác cảm gì với người Hoa Chợ Lớn, ngược lại còn thích họ rất nhiều! Nhưng mà lồng tiếng như vậy là không xem, không nghe, có hai lý do: thứ nhất là nghe phải cho ra tiếng Việt, dở cũng được nhưng phải là tiếng Việt, thứ 2 là phải hiểu thấu đáo về văn hoá cổ truyền TQ, trích dẫn cổ văn trong phim lồng tiếng, thuyết minh không câu nào là không sai, vì người lồng tiếng thực ra không biết gì về cổ văn. Riết rồi xem phim lồng tiếng, đọc trích dẫn cổ văn giống y như nghe pháp sư đọc sấm ký, bùa chú!

Rồi giờ đọc sách báo cũng thấy cũng y chang như vậy, dịch từ tiếng Anh sang, đọc là biết người dịch không hiểu gì, viết như bùa chú! Haiza, tiếng Hoa khó không nói, học tiếng Anh bao năm rồi thấy “công phu” cũng chỉ có thế. Hãi nhất bây giờ là nhiều sách báo viết thuần tiếng Việt mà đọc mãi cũng không hiểu nói gì, nghe cũng như bùa chú, hay là mình quá dốt chăng!? Tiếng Anh, tiếng Hoa xa lạ, khó khăn không kể, đằng này tiếng mẹ đẻ cũng vậy! Nhiều người thực ra không bao giờ hiểu được tôi khó chỗ nào, là từ những cái nhỏ như thế: tiếng Việt tào lao không nghe, nhạc tào lao không nghe, chuyện tào lao không nghe… miễn nhiễm với những thứ xàm xí!

lại… giáo dục

Không ăn thua đâu, tôi biết nhiều người Việt ở Mỹ hơn 40 năm, đi từ khi còn rất trẻ, học được văn minh nhiều thứ, nhưng bản chất vẫn không thay đổi được mấy! Để thay đổi những điều nằm trong máu mà chỉ có ba cái “phương pháp” này là không ăn thua!

Huống hồ gì Việt Nam bây giờ, thấy toàn là những thứ: ngày xưa em học đến 2 năm lớp 4 và 3 năm lớp 5 lận, làm sao mà viết sai chính tả được? Viết chữ nào cũng sai, câu nào cũng sai mà cứ hễ mở miệng ra là nói chuyện đạo lý, lương tâm, lý tưởng, giáo dục chứ phải…

lạc hà

Sử (ghi chép) và huyền sử (giai thoại): từ Tam hoàng – Ngũ đế, Hạ, Thương, Chu… đến giờ, tất cả đã được chứng minh bằng các khai quật khảo cổ học, trong đó Thương & Chu được chứng minh có chữ viết, các “triều đại” trước chỉ có di chỉ, chưa tìm được chữ. Di chỉ đề cập đến trong bài viết có tên là Song hoè thụ (2 cây hoè) ở trấn Hà Lạc, tỉnh Hà Nam, được cho là kinh đô của vương quốc cổ tên là Hà Lạc cổ quốc.

Hà tức sông Hoàng (hà), Lạc tức sông Lạc, vùng đất nằm giữa 2 sông, Kinh dịch viết: Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, thánh nhân tắc chi. Ấy thế mà cho đến mãi gần đây, vẫn có người Việt tìm cách “chứng minh” rằng Lạc thư – Hà đồ có nguồn gốc từ Việt Nam. Ấy bởi vì “sản xuất” ra “tin giả” từ “không khí” chỉ cần đến sự “hoang tưởng, hoang đường”, chỉ cần “mặt dày, tự tin” đến mức “đúng rồi, vô sĩ” mà thôi!

đức

Báo chí Việt Nam chuyên lặp lại cái câu “để đức cho con”, mà nói cho ngay, vừa mở miệng là đã biết không hiểu “Đức” là gì! Dần dần, vì thiếu sự minh định nên nhiều người cho rằng “đức” là một thứ tài sản vô hình, một loại may mắn, một kiểu kết quả có thể để lại cho con cháu. Hiểu như thế sai hoàn toàn, tra từ điển là thấy ngay, chữ “đức” dịch sang tiếng Anh là: “merit” hay “virtue”, tiếng Việt hiểu là: phẩm chất, phẩm hạnh.

Thời của Khổng tử, chữ “đức” chỉ hiểu đơn giản là phẩm chất của con người: làm việc siêng năng là đức, nói năng thật thà là đức, đối đãi chân thành là đức, .v.v. “Đức trị” hiểu nôm na tức là “lead by example”, dùng bản thân làm gương để người khác noi theo! Thế thì quay về tự vấn bản thân đi chứ làm sao mà “để đức cho con” được!? Chính vì không hiểu “đức” là gì nên tìm cách lái nó sang khái niệm vật chất là… “công đức”!

giáo dục thể chất, 2

Học sinh xưa đi học hay nói: có môn học duy nhất, biết trước đề thi mà điểm vẫn cứ thấp, không như các môn khác như Toán, Lý, Hoá, Sinh, Sử, Địa, Văn, Sinh ngữ, .v.v. Vâng, đó chính là môn… Thể dục! Thể dục dù sao cũng là môn học hết sức thẳng thắn và công bằng nhé, cho biết trước đề thi luôn, không như các môn khác cứ chơi trò ỡm ờ: người biết thì không nói, kẻ nói thì lại không biết!

Việc đầu tiên là làm sao để các “nhà giáo dục” bớt “đĩ miệng” lại, mà dạy được cho con em những kỹ năng thực tế. Hết chỗ để “khoe chữ, loay hoay với ngôn từ chết” hay sao mà đè đám con nít chưa biết gì ra mà “hoa ngôn xảo ngữ”!? Việc này muốn thay đổi e quá khó, vì người dạy từ nhỏ đã lười vận động, sống trên mây lâu ngày, đã thành loại bệnh mạn tính, chả biết có thay đổi được không!?

giáo dục thể chất, 1

Đây là hệ quả của cái lối: “chơi thể thao một cách triết học, và suy nghĩ triết học một cách thể thao”! Ai cũng biết sức khoẻ, thể chất là nền tảng của mọi điều, ấy thế mà vẫn chỉ “thể dục, thể thao” trên giấy, vẫn cố viết “sách”! Riết rồi suốt ngày chỉ loanh quanh với ba cái ngôn từ vớ vẩn, tìm cách “chơi chữ”, tìm cách “hơn người” bằng hoạt ngôn xảo ngữ, chứ động tay động chân thì không muốn và không làm được!

Không chỉ thế, nó ảnh hưởng suốt phần đời sau của đứa học sinh! Học cái gì cũng không có “hành”, chỉ lải nhải một mớ lý thuyết, ngôn từ chết! Học cái gì cũng lớt phớt bề mặt, không có chiều sâu, không có công phu! Nói đâu xa, ngay trong giới lập trình viên hiện tại, 10 người thì hết 9.5 người, hỏi gì cũng biết, công nghệ nào cũng biết, trên trời dưới đất, chỉ có là những kỹ năng lập trình phức tạp, thực tế không làm được!

giáo dục

Chân trái bước sang ngang rộng bằng vai, hai tay dang ngang, bàn tay ngửa… Ôi, má ơi, thể dục mà học từ sách thế này, không có ai ép phải tập thành nề nếp, thì có khác nào học võ công trên giấy!? Nếu chỉ đọc kinh mà thành Phật được thì thiên hạ vào Niết Bàn hết từ lâu rồi! Thể chất, âm nhạc, rồi mỹ thuật mà dạy kiểu này… haiza, rồi lại đẻ ra toàn mấy con “gà công nghiệp”, suốt ngày “bolero” và “triết học” cho mà xem! Dạy đạo đức cho HS cấp 1 tức là uốn nắn cách hành xử, phép tắc hàng ngày, thiết thực! Đạo đức không phải là mớ ngôn từ Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín, đó không phải là “đạo đức”, đó là “ngôn từ về đạo đức”! Những người làm giáo dục hoàn toàn không có một khái niệm nào về kiến thức thực hành, chỉ huyên thuyên một mớ trừu tượng! Nên kết quả là học sinh không biết về “đạo đức”, mà chỉ xào xáo “ngôn từ đạo đức”, nôm na gọi là… “diễn”!

Trong một post trước, tôi có viết: nói nghe có vẻ bất hiếu hay vô lễ, nhưng thực ra, chúng ta đang sống trong một xã hội mà cha mẹ không thực sự yêu con cái, họ chỉ yêu cái “vai” làm cha mẹ mà họ phải diễn, thầy cô cũng không yêu học trò, họ chỉ yêu cái “vai” làm thầy mà họ phải diễn! Tôi có nhiều bạn bè làm giáo dục, tôi biết họ không thích nghe điều đó, nhưng từ hồi cấp 2, tôi đã luôn nhìn nhận thực tế như vậy! Một số người đọc được ở đâu đó một số ngôn từ rồi tự cho mình hay! Tôi nói càng biết nhiều kiểu đó, càng xa rời sự thật, càng “ní nuận” càng lầm lạc! Nên căn bản với sự vận hành của XH toàn là các giá trị thực hành, chả ai cần “triết lý”, hay ít nhất là 99.99% con người ta sống tốt hơn khi không có “triết học”. Chính những kẻ huyênh hoang chữ nghĩa, xa rời thực tế, lười vận động đã đẻ ra nền giáo dục và xã hội như ngày hôm nay!

vận động

Từ 10, 15 năm trước, tôi đã có nhận định rằng sức khoẻ thể chất và đặc biệt là sức khoẻ tinh thần người Việt có vấn đề, 70~80% người Việt có biểu hiện bệnh lý thần kinh, thể nặng hay nhẹ, dạng này hay dạng khác! Nguyên do sâu xa nằm ở tầng văn hoá, thiếu chiều sâu, thiếu hiểu biết, chia xẻ giữa người và người, thiếu khả năng xây dựng giá trị cộng đồng. Cộng với sự thiếu vận động thời gian dài dẫn đến tâm hồn và cảm xúc xơ cứng! Không có đủ kiên nhẫn tìm hiểu vấn đề gì cho thấu đáo, ai nói gì cũng tin, sẵn sàng nghe theo bất kỳ sự xúi dục vớ vẩn nào! Lật lại vụ “cha chơi đùa với con bị giết chết” mới thấy đó là cả một thế hệ bị “côn đồ hoá”! Cái “chấp ngã” quá lớn: điều tôi thấy phải đúng, điều tôi nghĩ phải đúng…

Nên chỉ cần một câu nói, một sự xúi dục nhỏ nhất là sẵn sàng giết người! Để cho “tôi được đúng” thì điều tệ hại nào cũng làm! Từ anh tiến sĩ “học nhiều”, cho đến gã xe ôm “học ít”, cái sự “chấp ngã” đều lớn như nhau, lớn đến mức ngoài “cái sự đúng của tôi” ra, chẳng còn gì quan trọng hơn nữa, những cái tôi hoang tưởng, méo mó, bệnh hoạn! Cùng với truyền thông hiện đại, khi công nghệ đã trang bị cho mỗi người một cái màn hình be bé, thì sự nô dịch tư tưởng & tâm hồn đã bắt đầu. Cả XH mụ mị trong những chiêu trò nhảm nhỉ! Gốc rễ vấn đề quay về trong một chữ: vận động! Vận động thể chất, tinh thần, vận động mọi mặt, giữ cho tâm hồn được tự do, mạnh khoẻ, giữ cho mầm mống thiện lương sống bên trong mỗi người chúng ta!

ký âm

Nhớ lại một trò chơi cấp 2, lũ bạn chúng tôi “sáng tạo” ra cách viết tiếng Việt, làm sao cho nó “giông giống” tiếng Hoa! Một kiểu “mật mã” của những thằng bé với nhau! Nhìn hình dưới bên trái, sẽ thấy có vẻ hơi lạ, nhưng cầm tờ giấy đưa lên ánh sáng, đọc ngược lại mặt bên kia, thì là chữ bình thường (bên phải)… chẳng qua là một phép chiếu gương!

Haiza, nên ba cái trò “sáng kiến, cải tiến”, các hệ thống ký âm chữ Việt mới, 4.0 các kiểu, hết người này đến người khác, tôi nói bớt hoang tưởng và thiểu năng đi! Nghĩ ra một cách ký âm mới chả có gì khó, đến một thằng học sinh cấp 2 cũng làm được. Vấn đề là cái đó có gì quá hay, quá ưu việt, để mà phải thay đổi toàn bộ hệ thống đang dùng, toàn bộ sách vở, giấy tờ, tư liệu?!

biết tuốt để làm gì!?

Viết nhân đọc được bài hiếm hoi đề cập đúng bản chất vấn đề. Vì tôi đã từng là một thằng “biết tuốt”. Hồi học lớp 6~9, trường cấp 2 Trưng Vương, tôi đã là kiểu “ngôi sao biết tuốt” của trường, chuyên đi thi Toán, tham gia các kiểu “Đố vui để học” phát sóng trên truyền hình. Thành phố bé tí có 4, 5 trường phổ thông thi với nhau, gần như năm nào Trưng Vương cũng đoạt giải nhất. Tả lại chút cho mọi người hiểu về cuộc thi, “format” này thực sự không mới, đã làm trên sóng truyền hình miền Nam VN trước 75.

Hai đội, mỗi đội 3 người, ngồi 2 cái bàn riêng biệt, tay đặt lên nút chuông, giám khảo đưa ra câu hỏi xong thì ai bấm chuông trước được quyền trả lời, đúng được cộng, nhưng sai thì bị trừ điểm. Có lần đang thu hình thì… cúp điện, trong lúc chờ máy phát điện hoạt động thì ông thầy Bùi Thế Mỹ đi qua đi lại doạ nạt: em trả lời sai rồi, nhưng tôi khăng khăng bảo vệ quan điểm của mình. Điện có trở lại, tiếp tục ghi hình, giám khảo đành phải cho tôi điểm vì trả lời đúng, năm đó, Trưng Vương lại về nhất!

Cái thời đói kém, sách vở, thông tin thiếu thốn, nên những trò chơi như thế cũng tương đối vui. Nhưng ngay từ những ngày đó, lũ học sinh chúng tôi đã nhận ra rằng biết nhiều như thế cũng ko để làm gì, cũng kiểu con vẹt, tỏ ra ta đây hiểu biết, ta đây hơn người mà thôi. Rất may là ngoài những kiểu “biết tuốt” như thế, tôi còn biết thêm rất nhiều thứ khác nữa: biết bơi hơn 10km, biết leo núi, băng rừng, cắm trại, biết dùng “trăm phương ngàn kế” để cưa gái .v.v. đó mới là những kỹ năng hữu ích!

Vâng, biết cưa gái, một cách sáng tạo và đứng đắn, đó cũng là một kỹ năng, thời bây giờ gọi là “kỹ năng mềm” ấy! Nhớ lại cái thời “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”, bạn tôi viết thư tình cho gái thế này (thời đó chỉ có thư giấy thôi, chưa có di động, tin nhắn đâu): em à, ở đây muỗi nhiều lắm, mở ngoặc, dùng hồ dán một con muỗi chết vào đó, đóng ngoặc, chấm! Chính những cái “joie de vivre” (tiếng Pháp: niềm vui sống) như thế mới là những động lực để con người ta phấn đấu, cố gắng lâu dài trong cuộc đời.

Những con người / thế hệ ít vận động thực tế cứ nghĩ rằng càng biết nhiều là càng tốt! Biết thì đã sao mà không biết thì đã sao!? Chưa kể thời nào cũng thế, sách vở, chữ nghĩa cũng đầy rẫy loại “đạo tặc”, đọc nhiều những thứ “trít học” vô bổ nó ám vào người, đẻ ra những kiểu “lơ lơ lửng lửng”, gì cũng biết nhưng ko biết được gì! Quan trọng nhất là hao phí sinh lực tuổi trẻ vào những điều ko thiết thực, cốt chỉ để thoả mãn cái mong muốn tỏ ra hơn người. Ngay từ gốc, động cơ của việc học là đã sai!

Thời đại bùng nổ thông tin, hàng tỷ tỷ gigabytes dữ liệu, làm sao mà nhớ hết, và nhớ để làm cái gì!? Càng nhớ nhiều, đầu óc càng mụ mẫm đi, kiểu như con vẹt, chỉ biết “tụng niệm, giáo điều” chứ thực ko có tư duy sáng tạo. Rất nhiều thứ bây giờ người ta ngỡ là “kiến thức”, thực ra mới chỉ là “thông tin”, thậm chí thông tin còn chưa biết chất lượng thế nào! Trong sự phát triển của tư duy con người, có rất nhiều “level” khác nhau, phải phân biệt rất rõ ràng giữa thông tin, kiến thức và tri thức!

viết cho 3///

Tôi không thích dùng từ ngữ bao đồng, xúc phạm, vì ở đâu, giới nào cũng luôn có người này, người khác (trong tất cả mọi phe phái). Nhưng thời gian đã qua đi gần nửa thế kỷ, những sự thật lịch sử hiển nhiên, nhiều người vẫn không muốn thừa nhận, hay tìm cách làm sai lệch nó đi! Dưới đây là bức tranh toàn cảnh sân khấu chính trị miền Nam Việt Nam, nói thật ra, Hà Nội có sách lược từng bước, từng bước, hết sức rõ ràng! Bước 1: tìm cách lật chế độ Diệm: một chế độ độc tài, gia đình trị, thiên vị tôn giáo, ngu dốt và tàn ác. Được dựng lên bằng một cuộc bầu cử gian lận, nhưng ít nhất người Mỹ cũng có thể “lu loa” với thế giới rằng đây là một chế độ “bầu”! Bước 2: ai ra ứng cử thổng thống, thủ tướng với tư cách “dân sự” là kêu biệt động thành đi ám sát, ví dụ như vụ GS Nguyễn Văn Bông.

Những sự việc này “chính sử” đã thừa nhận, chẳng có gì phải ngại mà không công khai. Bước 3: chính giới SG chỉ còn lại các tướng lĩnh, các ông này thì chẳng ai chịu ai. Như vụ Thiệu, Kỳ & Nguyễn Chánh Thi, cánh miền Nam & cánh miền Trung đánh nhau năm 66 ở Đà Nẵng, hàng trăm lính thương vong! Bước 4: dùng phong trào đấu tranh của Sinh viên và Phật giáo, đòi hỏi một chế độ “dân sự”. Nhưng trong một cái bẫy đã giương sẵn thì người Mỹ kiếm đâu ra một “chế độ dân sự”, trước sau chỉ có “quân phiệt, độc tài” thôi! Bốn bước trên làm cho miền Nam không bao giờ có được một chế độ dân cử, trước sau đều là các “chính phủ tạm thời” cho các tướng lĩnh đảm nhiệm. Như thế, tính “chính danh” của VNCH là không có, vì đó có phải là một chính phủ do dân bầu đâu!?

Nói trắng ra, là gì nếu không phải là một bộ máy quân sự cho người Mỹ tạo nên, bơm tiền nuôi sống và giật dây điều khiển, sự thật trước sau chỉ có thế! Ngay giới quân phiệt cũng không đồng nhất, thành phần già như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn… tương đối có tư cách, không muốn dính líu quá sâu với người Mỹ, thậm chí muốn đàm phán với MTGP. Thấy không thể chống Cộng với thành phần già, Mỹ giật dây cho các tướng trẻ lên nắm quyền. Từ 1963 đến 1973, 10 năm có 10 cuộc đảo chính, chẳng lúc nào yên, tình hình như thế chỉ có lợi cho MTGP. Lúc đảo chính họ Ngô, ông Nguyễn Văn Thiệu mới là… đại tá, sư trưởng, 40 tuổi, ông Nguyễn Cao Kỳ… trung tá, 33 tuổi, 4 năm sau thì một người thành tổng thống, một người thành thủ tướng, ở độ tuổi trên dưới 40!!!

Trong những thể chế thông thường khác thì phải hơn 20 năm nữa, các ông ấy mới “đủ tuổi” để ngồi vào hai cái ghế ấy! Nên nói cho đúng chỉ là một junta – tập đoàn tướng lĩnh tay sai mà thôi! Phật giáo thời gian đầu giữ lập trường không can thiệp chính trị của họ. Nhưng trước thực trạng bị đàn áp, sát hại quá nhiều, nên họ mới phải đấu tranh, trước sau đều bằng các biện pháp bất bạo động kiểu Gandhi! Tại thời điểm 1963, ông Trí Quang cũng chỉ 40 tuổi, trong hàng giáo phẩm Phật giáo mới ở cỡ… trung bình, các ông “boss” thực sự như Thích Tịnh Khiết, Thích Đôn Hậu… vẫn còn chưa ra mặt. 1000 người chết chỉ là một con số, đôi khi chẳng ai biết! Nhưng cái chết như của hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu lại làm rung chuyển thế giới, đánh thức lương tâm loài người!

Rất nhiều lực lượng khác nhau, bao gồm gần như là toàn thể xã hội: một số là Cộng sản nằm vùng, một số thân CS, một số có liên hệ với CS, một số chẳng dính dáng gì đến CS, tất cả đều cùng đấu tranh, đó là phản ứng hiển nhiên trong tình trạng bị đàn áp đến mức dầu sôi lửa bỏng! Nên nói các bạn “ba que”, người Mỹ không hiểu Việt Nam đã đành (đó là một trong những sai lầm lớn nhất của họ, dẫn đến thua toàn bộ cuộc chiến), các bạn mang tiếng là người Việt, sống trong lòng dân tộc, mà các bạn chẳng hiểu éo gì về dân tộc. Đương thời, các bạn chẳng đại diện được cho đa số dân chúng, còn đến lúc thua rồi cũng không biết vì sao mà thua, lại còn cay cú đơm đặt, hoang tưởng! Cũng còn may là đất nước, dân tộc này vẫn còn những nguồn nội lực âm thầm & thâm hậu khác!

narcissism of small differences

Khu vực tôi sinh ra & lớn lên, bên này & bên kia đèo Hải Vân, cách nhau một ngọn núi nhưng đời sống người dân có nhiều khác biệt: giọng nói khác nhau, tâm tính khác nhau, tập quán sinh hoạt cũng hơi khác nhau. Chính vì những sự khác biệt nho nhỏ ấy mà đẻ ra biết bao nhiêu mâu thuẫn, kèn cựa, thù ghét, mỉa mai, đàm tiếu, hài hước…

Ấy là còn cách nhau một con đèo, còn cách trở một chút. Gần hơn, như một dải từ Quảng Bình, Quảng Trị đến Thừa Thiên, con người từng vùng cũng khác biệt. Với người miền ngoài mà nói thì hầu như không thể phân biệt giọng Quảng Bình với Quảng Trị, Quảng Trị với Huế. Nhưng với người địa phương thì sự khác biệt là rất rõ ràng, hiển nhiên.

Ngay bên trong một tỉnh, từ huyện này sang huyện khác, từ làng này sang làng khác cũng không hoàn toàn giống nhau. Sự khác biệt từ ngôn ngữ giọng nói, đến phong tục, tập quán, đến độ có những câu “thành ngữ” kiểu như: Bất thú Dạ Lê thê, bất thực Nguyệt Biều kê… – không lấy vợ làng Dạ Lê, không ăn gà làng Nguyệt Biều…

Cái ám ảnh tự kỷ về những khác biệt nhỏ đó, theo cái nhìn của Freud, là một trong những động lực chính để các nền văn minh đấu tranh và phát triển. Trong nỗ lực tạo nên sự khác biệt, con người ta có xu hướng ghét những cái giống mình, mà thích những thứ khác biệt với mình, đó âu cũng là bản tính tự nhiên của con người và muôn loài!

Suốt lịch sử nhân loại, hầu hết những xung đột đều là những mâu thuẫn cục bộ nhưng gay gắt, càng giống nhau lại càng gay gắt. Xưa đã có Hy Lạp & La Mã, Ngô vương Phù Sai & Việt vương Câu Tiễn, gần hơn thì Anh & Pháp (nội chiến 2 Hoa hồng), Anh & Đức (WWI & II), Iran & Iraq, gần nữa thì Nam & Bắc Triều Tiên, Ukraine & Nga, etc…

Cái ám ảnh tự kỷ về những khác biệt nhỏ đó nó lặp đi lặp lại trên nhiều mức độ, quy mô khác nhau. Như người Việt tự nhìn mình thì Nam VN và Bắc VN khá là khác nhau: Mạc & Trịnh khác nhau, Trịnh & Nguyễn khác nhau, Nguyễn & Tây Sơn khác nhau. Nhưng từ góc nhìn phương Tây thì cả Nam & Bắc VN đều giống nhau và đều rất giống… Trung Quốc.

Suốt hơn 2000 năm, Trung Quốc là cái lý do căn bản để VN… đến như ngày hôm nay. Chúng ta học họ mọi thứ, từ ngôn ngữ đến văn chương, từ phương thức sản xuất đến thể chế chính trị. Đến tận hôm nay, chúng ta vẫn tiếp tục học, TQ làm cái gì là y như rằng 5, 10 năm sau, chúng ta bắt chước làm theo (kiểu như “điện mặt trời” và “ví điện tử”).

Nhưng cũng vì quá giống nhau như thế, nên hết lần này đến lần khác, xuyên suốt lịch sử, cái ám ảnh tự kỷ đó lại thôi thúc VN đi tìm kiếm, khẳng định bản sắc riêng của mình, luôn muốn tách ra để được “độc lập”, không chịu nằm trong vòng ảnh hưởng của TQ. Căn bản, đó cũng là một điều tốt, tiếc là sự “khác biệt” tạo ra chỉ ở trên “đầu lưỡi”.

Khác biệt nhỏ, nhưng thế nào là to, thế nào là nhỏ…tất cả đều tương đối. 15 tuổi, tôi đã thấy những khác biệt địa phương là nhảm nhí, 25 tuổi, đã thấy toàn VN đâu cũng như nhau… Toàn cầu hoá, kết nối thông tin, thế giới lại càng trở nên “không phẳng” hơn bao giờ hết, tất cả khác biệt, to hay nhỏ sẽ đều được đem ra xét lại… (to be continued)



thế hệ từ khoá, thế hệ vô hồn

Tiếp tục series những post trước, một kỹ thuật nguỵ biện hàm hồ là bịa ra những khái niệm trống rỗng (kiểu như “bolero”, “phượt thủ”, etc…) để dẫn dắt dư luận, “chụp mũ”, đánh đồng tất cả tốt xấu, đây có thể xem là những hành động “bất lương” của một đám gọi là “nhà báo”! Người ta đi du lịch chẳng ai giống ai… anh hoạ sĩ đi tìm chất liệu sáng tác, anh nhiếp ảnh đi tìm khung hình đẹp, người đi tìm hình dáng kiến trúc, văn hoá dân gian, các bạn trẻ cũng đi để “check-in” một phát, khoe với bạn bè, thoải mái đầu óc, việc đó cũng chẳng có gì sai cả! Dĩ nhiên không loại trừ vài cá nhân có những hành động chưa được đẹp!

Thế nhưng cái đám “nhà báo – chuyên gia mạng” suốt ngày la liếm chuyện “trong nhà ngoài ngõ” trên mạng thì nhất quyết phải chụp mũ cho bằng được, bằng một khái niệm gọi là “phượt thủ”, kéo tất cả những ai đi du lịch vào đó, phải tạo ra một “cái tên”, một “danh từ”, một “từ khoá” có thể search Google được, bắt người khác tin vào đó, gieo rắc tâm lý phán xét bầy đàn. Cái tâm lý muốn được phán xét, được tỏ ra hiểu biết thực ra cực kỳ mạnh mẽ: à, ta đã biết rồi, anh A là như thế này (abc), thằng B là như thế kia (xyz), nhưng thực ra A, B là ai thì không ai biết, mà abc, xyz là như thế nào cũng chẳng ai hiểu! Cái sự vô minh, vô hồn của đám đông, dưới sự dẫn dắt của truyền thông, mạng xã hội, dần dần trở thành tội ác!

Nó đẻ ra những con người tách rời với thực tế, hoàn toàn không hiểu tự nhiên vận động như thế nào, tất cả chỉ quay cuồng trong những suy nghĩ hời hợt, nhảm nhí, ghen ăn tức ở lặt vặt. Công bằng mà nói, không phải chỉ thời buổi Internet mới đẻ ra những con người như vậy, mà thực sự đã có rất lâu từ trước, những ông già đọc sách “triết học cao siêu” khi đất nước đang chìm trong khói bom đạn! Một cá nhân lành mạnh chỉ quan tâm đến nội dung công việc anh ta làm, chẳng hơi đâu tranh luận những “khái niệm” rỗng tuếch! Tôi nói đó là những kiểu “nguỵ biện” mà đám “báo chí bất lương” hay sử dụng: nào là “bolero”, nào là “4.0”, nào là “phượt thủ”, nào là “thế giới phẳng” etc… Bao giờ thì em suy nghĩ mới có được tí nội dung, hả em!?

thanh điệu

Nói chuyện… chính tả, lần này từ góc nhìn của một kẻ tập tễnh làm nhà ngôn ngữ học. Xưa giờ, dù thi thoảng vẫn viết sai chính tả (thường là do vô ý hay do đánh máy quá nhanh), tôi vẫn chủ trương mọi người viết đúng một thứ chính tả chung! Đó là lẽ hiển nhiên, vì mình viết là cho số đông người khác đọc và xã hội phát triển thì mọi điều cần phải được chuẩn hoá! Nên sai thì thi thoảng vẫn sai, nhưng chuẩn thì vẫn cứ phải chuẩn. Thế nhưng vẫn có những suy nghĩ khác, khác với số đông thường nghĩ. Những suy nghĩ bất chợt đến khi trò chuyện với những thiếu nữ Mông ở Đồng Văn và Mèo Vạc, những người đã đi học và nói tiếng Phổ thông còn xịn hơn, còn dể nghe và hay hơn cả tôi, ít nhất là về mặt phát âm!

Hồi trước nghĩ rằng tiếng Việt có 6 thanh sắc (hoặc 5 thanh tuỳ vùng) đã là nhiều lắm rồi, nhưng đến khi lên cao nguyên Đồng Văn, nghe người Mông nói mới biết tiếng Mông ở Việt Nam có đến 7 thanh, tiếng Mông một số vùng ở Trung Quốc có đến… 8 thanh. Thật khó hình dung một ngôn ngữ lại có nhiều thanh điệu như vậy, líu lo còn hơn cả chim hót! Tiếng Hoa cổ (cổ ở đây là nói thời Đường), lấy âm địa phương Trường An làm chuẩn, theo ghi nhận của “Thiết vận”, có 6 thanh. Thiết vận (phiên thiết) là gì thì người học chữ Hán mới biết, nhưng nôm na là một phương pháp ghi âm của người xưa, xuất hiện từ thời Tuỳ, Hán, thậm chí có thể còn sớm hơn. 6 thanh của tiếng Hán cổ đó, miễn cưỡng có thể “ánh xạ” vào 6 thanh của tiếng Việt.

Tiếng Mông 8 thanh, tiếng Việt 6 thanh, tiếng Hoa hiện đại chỉ còn 4 thanh… Nói điều này sẽ có người phản đối, nhưng một nền văn minh càng khép kín, càng lạc hậu thì ngôn ngữ càng có nhiều thanh sắc! Đó là vì càng hiện đại, càng có nhu cầu giao tiếp đến lượng lớn thính giả, thì ngôn ngữ càng phải bỏ bớt những “khu biệt” địa phương, vùng miền, dần dần bỏ bớt số thanh điệu. Tại thời điểm lưu truyền vào Việt Nam, Thiết vận đã ghi nhận những phát âm không còn tồn tại, vì nó là một hệ thống ký âm đã có từ trước đó rất lâu. Có nghĩa là tiếng Hoa thời Đường đã khác thời Hán rất nhiều, nhiều “ký âm” chỉ còn tồn tại trong sách vở chứ không còn trên thực tế! Điều tương tự cũng đúng cho tiếng Việt và hệ thống ký âm “Quốc ngữ”.

Hệ thống ký âm Quốc ngữ, từ khi hình thành, lấy “chuẩn” là một địa phương đâu đó ở vùng Quảng Bình, khá nhiều ký âm cổ cũng đã không còn tồn tại ngay tại gốc Quảng Bình, ví dụ như: “các” & “cát”, “ngan” và “ngang”… theo như quan sát hiện tại hầu như đã đồng nhất. Các địa phương càng cổ, càng bảo thủ (điển hình là một dải khu 4, từ Thanh Hoá, Nghệ An đến Huế) thì sự “khu biệt” càng lớn. Tiếng Hoa hiện đại đã phát triển đến một mức mà rất nhiều ký âm không thể phân biệt được, không những “mam” và “man” đọc như nhau, mà “man” và “nan” cũng đọc như nhau, nghĩa là “m” và “n” đọc như nhau, dù đứng đầu hay cuối con chữ. Suy nghĩ lan man… nhận thấy rằng sự tiến hoá của tự nhiên, nó khác xa những điều người ta thường nghĩ!

Nghe có vẻ ngược đời, nhưng tôi nghĩ, không nhất thiết phải chấp nhất quá triệt để vào hệ thống ký âm “Quốc ngữ”, vì nguyên thuỷ, nó đã không phải là một hệ thống ký âm phổ quát (mà thực sự thì làm gì có một thứ tiếng Việt phổ quát!?), và quan trọng nhất là xu hướng tiến hoá của ngôn ngữ thường không bảo lưu những khác biệt quá “tinh vi, nhỏ nhặt”. Viết đúng chính tả vẫn là việc cần phải làm, nhưng bên cạnh đó, sự phát triển của “chuẩn hoá”, cái suy nghĩ băn khoăn cho rằng tự nhiên là “deterministic” hay “non – deterministic”, là “tất định” hay “bất định”, vẫn luôn còn đó (tức là Einstein sẽ vẫn luôn đối nghịch với Heisenberg). Dù gì đi nữa, ngôn ngữ vẫn sẽ phát triển theo hướng âm luật dần đơn giản hoá, dần thống nhất!

tần thời minh nguyệt

王昌齡 – 出塞

秦時明月漢時關
萬里長征人未還
但使龍城飛將在
不教胡馬渡陰山

Khi nhỏ, một mình tự học Hán tự, tự đọc thơ Đường, mọi thứ đều là trên giấy trắng mực đen, thông tin không được phong phú, đa phương tiện như bây giờ. Tất cả chỉ là một mình tự thưởng thức cái đẹp, những gì lịch sử còn lưu lại, Đường thi với gần 5 vạn (50 000) bài của hơn 2 ngàn tác giả (số lượng thực tế chắc chắn lớn hơn nhiều, không kể phần đã thất truyền, mai một qua hơn 1200 năm biến động lịch sử). Kho tàng văn hoá đồ sộ như thế, Trung Quốc lâu lâu bẻ ra một miếng là làm thành một bộ phim, thỉnh thoảng trích một câu là làm được một series truyền hình, thậm chí còn không cần tới một câu!

Tần thời minh nguyệt, mới có 4 chữ trong một câu 7 chữ. Trông người lại ngẫm đến ta, xưa có câu Nôm na là cha mách qué, ý nói về bản chất, ngôn ngữ Việt cũng thể… phường “ba que xỏ lá”, chẳng có thực chất gì! Lại nói, gần đây, giới ngôn ngữ học có xu hướng cho rằng, thực ra “tiếng Việt” chưa phải là một ngôn ngữ hoàn chỉnh mà mới chỉ là một “Creole language”, một dạng tập hợp, hình thành tạm bợ, nhất thời từ nhiều nguồn khác nhau, thừa hưởng cấu trúc ngữ pháp từ gốc Môn – Khmer, tiếp nhận hệ thống thanh điệu từ phía Tày – Thái và vay mượn một lượng rất lớn từ vựng từ nguồn Hán tự!

nước mắt cá sấu

Một bài viết rất hay! Lại cái thói trí trá lặt vặt, muôn đời của người Việt, cứ hay lấy những giá trị cực đoan, cực hạn ra để thách đố người khác! Giáo dục là hướng con người đến những hành động đúng đắn, trong những tình huống bình thường hàng ngày, hướng đến một sự tiến bộ từ từ và thiết thực. Chứ không phải vẽ ra những mẫu hình đạo đức cao siêu không tưởng, thường chỉ xảy ra ở những tình huống cực đoan trong cuộc sống! Riết như thế một lúc sẽ trở thành những trò đạo đức giả!

Học sinh học cách khóc “nước mắt cá sấu” khi cần phải “diễn”, học cách vẽ ra những hình tượng đạo đức gương mẫu, nhưng thực tế thì ngược lại, sẵn sàng làm những trò lưu manh không nháy mắt trong các tình huống thực của cuộc sống! Thêm một bằng chứng về thói “đĩ miệng” và “lưu manh vặt” của người Việt, hai cái đó thường đi đôi với nhau! XH Việt vẫn luôn như thế, đa số vẫn bị lôi cuốn bởi những chuyện đạo đức giả đầy nước mắt cá sấu mà quên đi cách nhìn vào cốt lõi của vấn đề.

Ngay từ lúc còn rất nhỏ, cái bản chất bướng bỉnh của tôi vẫn luôn nhìn ra những chuyện như thế. Nói nghe có vẻ bất hiếu hay vô lễ, nhưng thực ra, chúng ta đang sống trong một xã hội mà cha mẹ không thực sự yêu con cái, họ chỉ yêu cái “vai” làm cha mẹ, thầy cô cũng không yêu học trò, họ chỉ yêu cái “vai” làm thầy, cô mà họ phải diễn. Tác hại của những điều ấy tưởng vô hình, khó thấy, nhưng thực rất khủng khiếp, nó đẻ ra những thế hệ mất niềm tin, nhưng lại rất giỏi diễn kịch!

Rút cuộc trở thành một cuộc thi ai “kể chuyện” hay hơn, ai lấy được nhiều nước mắt hơn, còn hơn cả… một lũ bán hàng đa cấp! Nguy hại là những điều ấy xâm nhập trường cấp 1, 2, tiêm nhiễm những đầu óc còn non nớt! Sự đổ vỡ tâm hồn là hậu quả hiển nhiên tất yếu, khi con người ta bị dồn nén mãi bởi những điều “có vẻ tốt đẹp nhưng lại không có thực”, nó phải tự giải thoát theo chiều hướng ngược lại: lưu manh, xảo trá, càng nguy hiểm hơn dưới những vỏ bọc “tốt đẹp” nguỵ tạo như đã nói trên!

đình làng Trà Cổ



Giây phút sững sờ bên đình làng Trà Cổ… Phường (đảo) Trà Cổ, tp. Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, ngay sát biên giới với TQ, là một khu định cư rất lâu đời của người Việt. Đình xây năm 1461, về kiến trúc có nhiều điểm tương đồng với đình Mông Phụ (Đường Lâm, Sơn Tây), đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh)… đã viếng thăm trong các chuyến xuyên Việt trước. Tuy không đẹp bằng nhưng tuổi đời nhiều hơn đến 2, 3 thế kỷ! Đình do một nhóm lính gốc Đồ Sơn, vâng lệnh triều đình ra trấn thủ biên cương xây dựng nên.

Ngồi nói chuyện với một cụ bà ngoài 70 sống ngay bên cạnh đình làng (và cũng nói chuyện thêm với một vài cư dân địa phương nữa), thoảng qua vài câu đầu đã thấy cụ bà rõ ràng không nói giọng miền Bắc! Thêm vài câu nữa thì tôi sững sờ nhận ra cái ngữ âm ấy, cái ngữ âm của chính mình, khó có thể mô tả một cách chính xác, nhưng có chút gì thô ráp kiểu Bắc và Trung Trung Bộ. Trà Cổ như quan sát hiện cũng đang dùng một loại thuyền đi biển dạng bè tre y như vùng Sầm Sơn, Thanh Hoá.

Rồi chợt nhận ra mình đang trò chuyện với một thứ tiếng Việt cổ, rất cổ, rất… Vietic! Một vết tích của sự di dân bằng đường biển, phân tán và rải rác nhiều nơi suốt chiều dài bờ biển Việt Nam, một di sản truyền đời với rất ít thay đổi, mang tính chất cực kỳ “phụ hệ và bảo thủ” được duy trì trong suốt hơn 500, 600 năm lịch sử. Một thứ tiếng Việt cổ thô ráp, cứng cáp của… chàng Lạc Long Quân trước khi nên duyên với nàng Âu Cơ, và trở nên mềm mại, êm dịu như giọng đồng bằng Bắc bộ bây giờ!

bộ bộ kinh tâm

Bữa xem 1 trích đoạn “Bộ bộ kinh tâm” – thường ko thích ngôn tình, kiếm hiệp, những thi thoảng vẫn xem để “học chữ”. 2 chị em Nhược Lan, Nhược Hy nhận được thư nhà, ngồi chờ viên thái giám đến đọc thư giúp. Xem đến đây lấy làm lạ, vì phụ nữ quý tộc xưa, tuy ko “thông kim bác cổ” như các trang nam nhi “luận bàn chính sự”, nhưng học vấn cũng ko phải là tầm thường, đều có ít nhất mười mấy năm học chữ. Cổ văn, Đường thi, Tống từ… thảy đều thông thạo, làm sao có chuyện ko đọc được thư nhà!?

Mở thư ra mới biết chữ viết lối bán thảo, học 10 năm cũng chưa chắc đã đọc được (tôi cũng ko đọc được, vậy mà biết có người ở làng Đường Lâm, Hà Nội, mới học 3 năm đã đọc / viết thảo thư thông thạo). Như nhân vật chính Nhược Hy trong phim tự nói về bản thân: ta ở thời hiện đại dù sao cũng có 16 năm đèn sách, chữ nghĩa, thế mà “xuyên không” quay ngược về quá khứ, lại trở nên người nửa mù chữ! Cái sự học ngày xưa cực kỳ khó khăn, học 10, 15 năm vẫn chưa biết gì, từng câu, từng chữ, thảy đều có ý nghĩa thâm sâu.

Không như “quốc ngữ” ngày nay, ngu lắm chỉ 6 tháng là có thể đọc viết tương đối. Vì dể dàng như thế nên trên đường dài, hại nhiều hơn lợi! Đây là vấn đề rất lớn của tiếng Việt: ngôn từ cạn cợt, ngữ pháp lỏng lẻo, nội dung ít ỏi… sinh ra nhiều người với “lổ hổng tư duy”. Từ những năm 20 tuổi, bằng cách so sánh ngôn ngữ học (comparative linguistics), đem cách suy nghĩ, hành văn trong tiếng Anh, Pháp, Hoa… đối chiếu vào tiếng Việt, tôi có thể phát hiện nhiều “lổ hổng tư duy” trong nhiều người nói chuyện với mình.

Những lỗi tư duy đó khiến cho người Việt rất dể bị xúi dục, lừa gạt. Đáng tiếc lỗi có tính chất cố hữu nên phần lớn không tự nhận ra. Cũng là nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng XH Việt như ngày nay, không thể tự phản tỉnh để biết mình thiếu chỗ nào. Chưa kể đến vô vàn những thể loại “tỉnh để chi oa”, vì đã ngồi đáy giếng, không muốn xem trời bằng vung cũng không được! Sâu xa hơn, ngôn ngữ ko phải chỉ là cái vỏ của tư duy, nó hàm chứa trong đó nhân sinh quan và thế giới quan của một con người, một dân tộc…

đồng đen, 1

Nhân có người “bạn” nhắc về “đồng đen”… Haizza, đã là thế kỷ 21 rồi mà dân tình vẫn như thời Trung cổ, cứ mơ mơ hồ hồ, để cho bao nhiêu trò bịp bợm sơ đẳng lộng hành. “Đồng đen” là gì thì chưa bao giờ có định nghĩa rõ ràng. Nhưng trong những gì người ta biết về các loại hợp kim đồng (copper alloys) thì có 2 thứ sau có thể xem là “đồng đen”:

  • Shibuichi là hợp kim 3/4 đồng với 1/4 bạc, có màu đen tuyền tự nhiên rất đẹp (hình dưới, bên trái).

  • Shakudō là hợp kim đồng với khoảng 4~10% vàng, tự nhiên có màu vàng đồng. Đáng lưu ý là Shakudō thường được xử lý bề mặt bằng các loại hoá chất để tạo nên nhiều màu sắc khác nhau, từ vàng đồng đến màu đen tuyền (hình dưới, bên phải).

Ngày xưa, ở khắp các nước Á Đông: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, etc… Shakudō thường được dùng để đúc chuông, vì nó cho màu đẹp và tiếng hay. Cả 2 loại hợp kim trên đều quý vì chứa hàm lượng bạc, vàng kha khá. Nhưng chỉ như thế thôi, ngoài ra chẳng có thuộc tính “siêu nhiên” gì khác như những trò “ảo thuật” của bọn bịp bợm!


toán & tính

Nhớ lại ông thầy dạy Toán ở Đại học hồi xưa có nói rằng: cái thứ mà các anh đang học đó, ở cái “trường phổ thông trung học cấp 4” này, nó là “tính” chứ không phải là “toán”! Nhớ lại những ngày đang học lớp 13 hay 14 gì đó (modulo cho 12), câu nói đó đến tận giờ vẫn chẳng hề sai tí nào! Ở Việt Nam, số người làm “toán” thực sự, như GS Ngô Bảo Châu, chỉ đếm được trên đầu ngón tay mà thôi, mà lại là các ngón trên bàn tay của một thằng Yakuza ấy! Và những người như ông thì đa số đại chúng (>99%), chẳng thế éo nào mà hiểu cho được, dù chỉ là phần nhỏ!

Những gì chúng ta học ở cấp 3 và những năm đầu Đại học: vi tích phân, đạo hàm… phần lớn vẫn là “tính”, chúng ta được dạy nhân chia, cộng trừ, chuyển vế đổi dấu các kiểu. Nhưng ai “nhạy cảm” chút sẽ nhận ra rằng, từ “lý thuyết vành”, “lý thuyết trường”… trở đi không còn là “tính” nữa, đó là biểu diễn của thế giới thực qua những mô hình trừu tượng của Toán học. Cuộc phiêu lưu của thằng “Mít đặc” toán là tôi đây dừng lại ở đó, cũng có thể là xa hơn một chút, nhưng đủ để hiểu rằng, Toán nó hoàn toàn khác với Tính, Tính chỉ cần khả năng, Toán cần tài năng.

Ngày GS NBC được trao giải Fields, một người bạn hỏi tôi: liệu rằng lễ trao giải có thượng quốc kỳ, cử quốc ca hay ko!? Tôi nhìn vào mắt anh ấy, như thể nhìn vào một khoảng trống vô hồn, ko nói gì nhưng thầm nghĩ: hoá ra 5 năm ĐH ngành Toán chẳng có tí xíu ích lợi gì với con người này! Cái tư duy chưa vượt qua được luỹ tre làng ấy ko hiểu rằng, có những cộng đồng nhỏ chỉ vài trăm người nhưng uy tín và danh dự cá nhân của họ vượt lên trên ranh giới quốc gia, dân tộc! Hoặc giả như rằng những cái bản ngã nhỏ nhoi đó ko thể hiểu, hay ko muốn chấp nhận điều ấy!