mách qué

Hồi đó cứ lang thang quanh quẩn ở mấy tiệm sách cũ quanh khu chợ Bà Chiểu và góc đường Trần Huy Liệu… bắt gặp cuốn thơ Cao Bá Quát bản in chữ viết tay siêu đẹp, chủ quán nhìn mặt kêu giá 500K, mà học sinh làm éo gì có tiền, đành tiếc mãi thôi! Đương nhiên quá trình lớn lên và học hỏi cũng có đọc ít nhiều Thơ mới, thơ VN, nhưng mà sâu từ trong nhận thức, chỉ có “chữ Hán”, chỉ có Đường thi mới là thơ. Còn “Nôm na là cha mách qué”, tiếng Việt vẫn là một ngôn ngữ “mách qué – không đứng đắn”! Một lũ từ ngữ trơn tuột, cưỡng từ đoạt lý, giảo hoạt, nói cho lấy có lấy được, cứ ưa hơn người bằng cách lấp liếm, hoa ngôn xảo ngữ, chứ không thực sự nhắm đến nội dung bên trong!

Học “cổ văn”, cái đầu tiên là phải kiên nhẫn suy nghĩ xem ý tứ nó ra làm sao, không phải nghe có nửa câu đã nhảy vào miệng người ta ngồi: “ah ta biết rồi, nó là như thế này, thế kia!” Bởi đa số người Việt vẫn chỉ biết: “Cầm đao chém nước chảy cuồng, Tiêu sầu nâng chén càng buồn thêm thôi!”, nhưng có ai chịu khó đọc tiếp mấy câu sau: “Trần gian chưa thoã ý người, Sớm mai xoã tóc rong chơi với thuyền”!? Tiếp sau luôn luôn có những cái “ý tại ngôn ngoại”, viện dẫn sự tích, điển cố, làm cho ngữ nghĩa nó thâm trầm, bao quát! Nói thẳng muôn đời vẫn là một kiểu dân tộc tính khó sửa, học một ông “thầy Tàu” nào đó nhưng vì bản chất nó “đoản” nên lúc nào cũng chỉ học được… một nửa câu!

penpower

Hơn 25 năm trước, một lần đi hội chợ tin học mua được cái này, bút nhập chữ Hoa PenPower với đế cảm ứng 2×1.5 inch! Thế là tiếp tục học chữ với thiết bị này, yêu thích vô cùng, về sau xài nhiều, hỏng mất không dùng được nữa! Thời đó xem như hiện đại lắm, nếu so với cùng thời e là hơn xa iPad + Apple Pencil bây giờ! Thứ tự nét bút rất quan trọng, vì đây là 1 kiểu nhận dạng online (chữ “online” này hiểu trong ngữ cảnh bộ môn Nhận dạng & Xử lý ảnh), không phải đọc ảnh tĩnh, viết đúng thứ tự nét thì nhận rất chính xác! Lý do rất thích cái cảm ứng là vì không như các bạn gốc Hoa cùng lớp, chuyên nhập chữ Hán trên bàn phím máy tính tiêu chuẩn bằng phương pháp Thương Hiệt!

Mà cái Thương Hiệt thâu nhập pháp ấy khó quá, tôi học mãi vẫn không nắm được “yếu quyết” (cũng một phần vì phương pháp này không thật sự chính xác, siêu rắc rối và nhập nhằng), mà nhập liệu bằng bút viết thì nó trực quan, đơn giản hơn! Nên nhớ rằng thời đó cách đây hơn 25 năm, TQ đã tự làm ra những sản phẩm tin học như thế! Còn ở Việt Nam đương thời chỉ mỗi cái bảng mã Unicode tổ hợp hay dựng sẵn mà cãi nhau kịch liệt nhiều năm trời, không ai chịu ai! Đến tận giờ trên điện thoại thông minh với màn hình cảm ứng, giới trẻ TQ vẫn thích gõ phím bằng “Bính âm” cho nhanh lẹ, nhưng giới già thì vẫn thích múa ngón tay, vẽ chữ để trả lời tin nhắn SMS!

lỡ chuyến tàu

Khi những con tàu buôn của công ty Đông Ấn đem trà về Anh, trà nhanh chóng trở thành thức uống ưa thích của tầng lớp thượng lưu, trung lưu, những buổi tiệc trà là giờ những gia đình khá giả ở Anh ngồi lại với nhau, uống trà chiều, thảo luận công việc, cuộc sống! Nhưng đa số người lao động bình dân không thích “trà chiều”, tốt hơn là một cốc bia, uống nhanh còn đi làm việc! Sau đó những con tàu đem về Anh những bộ đồ sứ quý của Trung Quốc, chúng ta biết đồ sứ TQ đẹp thế nào, châu Âu lúc đó chưa có điều gì giống như thế! Ngay khi châu Âu học được cách làm đồ sứ rồi nhưng độ tinh xảo vẫn không bằng hàng TQ được!

Đồ sứ nhanh chóng xuất hiện trên bàn ăn của các gia đình thượng lưu, trung lưu, như thế mới sang trọng, đẳng cấp! Các hộ nghèo hơn thì dùng đồ bằng thiếc, thậm chí là gỗ! Nhưng tác động lớn nhất với nước Anh không phải trà, không phải gốm sứ, mà là tơ lụa và gấm vóc, cũng lại từ TQ! Châu Âu lúc đó, nói thật về ăn mặc vẫn còn “quê” lắm, ngay người hiện đại không phải ai cũng biết một bộ đồ lụa tơ tằm óng mượt, bóng bẩy là thế nào! Tơ sợi, vải vóc, may mặc được xem là yếu tố trực tiếp hình thành CM Công nghiệp Anh, đơn giản vì xã hội đã bắt đầu có nhu cầu tiêu dùng, trước hết phải ăn mặc lịch sự, đẹp đẽ, sang trọng!

Và cứ thế, bạc chảy sang phương Đông để đem về trà, gốm sứ, tơ lụa… nhiều đến nổi TQ trở thành “bạch ngân đế quốc”! Nhưng chảy máu mãi thế không được, phải tìm cách thu hồi, thế là thực dân Anh bán thuốc phiện cho người TQ, vừa hại chết một dân tộc, vừa thu hồi lượng vàng bạc đã chi ra! Đó là chuyện mấy trăm năm trước, chuyện của thời hiện đại, tiêu dùng xăng, dầu, gas, nguyên liệu thô nhiều như thế, góp tiền xây dựng nên những xứ sở Ngàn lẻ một đêm “dát vàng” như thế, cứ độ chục năm, Mỹ và phương Tây lại gây ra một cuộc chiến để gây bất ổn, đập chết thằng “chủ nợ” để xù nợ, để thu hồi vốn, khi thì Iraq, khi thì Lybia, khi thì Syria, etc…

Thế nên các nước Trung Đông, bất kể phe phái, tôn giáo, giờ đã khôn ra rồi, phải duy trì cân bằng đa cực, phải kiếm “đại ca bảo kê”, như cách ku Nga đang bảo vệ Syria, chứ không, biết đâu lúc nào đấy, chưa đến 10 năm nữa đâu, NATO nó lại tung con xúc xắc để chọn ra một nước “kém dân chủ” để oánh! Căn nguyên vấn đề nó nằm ở chủ nghĩa tiêu thụ, tiêu dùng vô tội vạ, chứ nó éo phải chuyện khác biệt tư tưởng hay là chuyện “ý thức hệ” gì cả! “Chuyến tàu” đã bắt đầu khởi hành từ nhiều trăm năm trước rồi, đã tăng tốc đến mức không thể dừng lại được nữa… giờ mà nói chuyện “lỡ chuyến tàu” hay “đổi hướng đi khác” là sẽ bị ăn rất nhiều gạch đá chứ phải!

đánh bắt theo mùa

Facebook nhắc ngày này năm trước, nhân tiện lảm nhảm về “lệnh cấm đánh bắt cá theo mùa”, phải hiểu điều này như thế nào!? Về mặt kỹ thuật mà nói, châu Âu, Anh, Mỹ từ nhiều trăm năm trước, và cả Trung Quốc ngày nay đều đánh bắt theo mùa! Vào mùa, vừa dỡ bỏ lệnh cấm là hàng ngàn chiếc tàu lao ra biển đánh bắt, hết mùa, ban hành lệnh cấm là tất cả quay về treo lưới, nghỉ! Việc đánh bắt theo mùa này, tuy rằng cũng “tận thu” từ thiên nhiên, nhưng không “tận diệt”, xét góc độ kinh tế hay môi trường cũng đều có nhiều tác dụng tốt!

Vì nó dành quãng thời gian nhất định cho đàn cá phục hồi, cá phải đủ lớn tới một mức nào đó, chứ không như VN, đánh bắt chả theo quy luật nào, thích lúc nào đi lúc đó, và đánh bắt theo kiểu tận diệt! Nên “lệnh cấm đánh bắt cá”, ngoài các yếu tố địa chính trị áp đặt lên nước khác, thực chất là một quyết sách thuần tuý mang tính chất “chuyên môn”. Chỉ có VN là một mình một kiểu, không chịu học tập phương pháp, thay đổi phương thức sản xuất đã đành, mà còn hy vọng cách thức “không giống ai” đó giúp bảo vệ được chủ quyền!

trịnh quốc cừ

Năm 247 TCN, Doanh Chính lên ngôi Tần vương, nước Tần bắt đầu kế hoạch Đông-xuất, tiến quân về phía đông qua ải Hàm Cốc, tiêu diệt 6 nước, thống nhất Trung Quốc! Nước Hàn nằm giữa, là nước nhỏ và yếu nhất trong số lục quốc, khi ấy bắt đầu một kế hoạch phá hoại, ly gián nước Tần bằng cách gởi một kỹ sư thuỷ lợi tài năng tên là Trịnh Quốc đến Tần, thuyết phục Tần vương cho xây dựng một con kênh đào lớn. Công trình sẽ mất hơn chục năm mới hoàn thành, phải huy động hàng chục vạn dân phu, binh lính và tiêu tốn vô số tiền bạc, của cải! Với kế hoạch này, nước Hàn hy vọng phần lớn nhân lực, tài nguyên nước Tần sẽ bị lôi cuốn, hao phí vào đại công trình thuỷ lợi mà chậm trễ các hoạt động quân sự! Kế hoạch “thành công”, hay ít nhất trên phương diện nào đó cũng tạm gọi là như thế!

Ngay từ đầu, Lý Tư (lúc đó vẫn chưa lên đến chức Thừa tướng nước Tần) biết rõ Trịnh Quốc là gián điệp nhưng vẫn ủng hộ xây dựng công trình! Công việc tiến triển được 5 năm thì Tần vương biết được sự thật, bèn triệu tới hỏi chuyện, Trịnh Quốc đáp rằng: vốn dĩ là gián điệp nước Hàn, kế hoạch thuỷ công có thể giúp nước Hàn yên ổn thêm vài năm, nhưng sẽ giúp nước Tần hùng mạnh vạn đại! Tần vương cân nhắc và cho tiếp tục xây dựng con kênh dài 150 km này, sau khi hoàn thành thậm chí còn đặt tên là “kênh Trịnh Quốc”, hệ thống thuỷ lợi đã giúp tưới tiêu cho hàng triệu mẫu ruộng, giúp nước Tần có đủ lương thực để thực hiện kế hoạch tiêu diệt 6 nước, thống nhất thiên hạ! Đến ngày nay, kênh Trịnh Quốc chỉ là một trong số những công trình xây dựng vĩ đại mà Tần thuỷ hoàng lưu lại cho hậu thế!

dân tộc tính, 1

Vì vài đồng bạc lẻ mà bỏ độc vào trà, hại người là chuyện nhỏ, cầm đá tự ghè chân mình mới là chuyện lớn! Tâm địa lưu manh lặt vặt, là tự mình hại chính mình thôi! Thế éo nào lại có chuyện: làm trò lưu manh (bỏ độc vào trà) xong rồi quay sang than thở như chính mình mới là bị hại!? Ai dung túng cho cái thói vừa ăn cướp, vừa la làng như thế!? Thế nên mới bảo “tư cách mãi không chịu lớn”, ai nói gì cũng nghe, ai xúi gì cũng làm! “Giá trị cộng đồng” bao gồm rất nhiều thứ, nhưng căn bản, sau cùng vẫn quay về “đạo đức cá nhân”! Mà không phải chỉ “ít học” mới thế, các thành phần “học nhiều” rồi cũng y như thế!

Cái sự lưu manh vặt này là bất kể trình độ, học vấn, bất kể vùng miền, xu hướng tôn giáo, chính trị! Cả những loại đã ở nước ngoài 30, 40 năm, thấy bao chuyện hay của thiên hạ rồi mà tâm địa không thay đổi gì! Từ “đạo đức cá nhân”, biết phân biệt đúng sai cơ bản, cho đến “đạo đức nghề nghiệp”, biết quý trọng điều mình làm ra, thảy đều là một khoảng không trống hoác! Lại thêm thói “hoa ngôn xảo ngữ” lâu ngày thành quen, gì cũng “biết”, mà rút cuộc không “biết” được gì cho ra hồn! Thế nên mới bảo: người ta không thể hiểu cái bên trong họ không có, vì nó đã trở là thứ dân tộc tính cố hữu!

whataboutism

Những ai đọc blog của tôi sẽ thấy tôi dùng cụm “ngôn từ hình thức” rất nhiều lần! Đó là sự lầm lạc trong suy nghĩ chỉ dựa trên hình thức nhị nguyên trắng đen, càng phụ thuộc vào hình thức càng xa rời sự thật! Những người phụ thuộc vào tư duy hình thức thường đơn giản, phiến diện, không sâu xa! Một ví dụ gần đây là chữ “whataboutism”. “Whataboutism” đơn giản là một sự so sánh, liên tưởng, vội vàng chụp mũ nó là “nguỵ biện” e rằng không đúng! Mọi so sánh, liên tưởng luôn chứa đựng một lý lẽ đằng sau nó! Đương nhiên chính xác tới mức nào vẫn còn tuỳ vào tình huống! Ngược lại, bác bỏ “whataboutism” mới chính là nguỵ biện! Một đằng khẳng định phải có nguyên tắc phổ quát đứng sau mọi việc, một đằng phủ nhận điều này, cũng là trá hình cho “tiêu chuẩn kép – double standard”, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, không cần lý do! Chỉ những môi trường văn hoá kém mới vướng vào kiểu tư duy hình thức này, nó thể hiện một điều: con người bị vướng vào cái tôi nhỏ nhoi, lúc nào cũng: tôi đúng, anh sai, liên tục cần phải có lý luận trắng đen để bám víu!

Nhìn qua xứ bạn, chúng ta thấy những điều khác hẳn! Đọc đề thi môn Ngữ Văn, Cao khảo của TQ những năm gần đây là thấy, học sinh trung học của họ đã ở một trình độ khác, đã biết vượt qua các kiểu tư duy hình thức mà nhìn mọi việc toàn diện hơn! Thú thật là tôi rất thích đọc đề thi ngữ văn TQ, cao hơn hẳn một bậc so với VN, ví dụ như đề văn Thiên Tân: Tưởng tượng một ngày bộ óc con người được cấy một siêu chip thông minh, giúp cho ngay cả một bà lão cũng có thể am tường mọi vấn đề, lĩnh vực trong cuộc sống. Không ai còn cần phải học tập. Hãy bày tỏ suy nghĩ của bạn. Đề văn Thượng Hải: Phán xét cuộc sống người khác không còn là một hiện tượng xa lạ. Hiện tượng này ảnh hưởng nhất định đến mỗi cá nhân và toàn xã hội. Viết bài trình bày suy nghĩ của bạn về hiện tượng trên. Đề văn Chiết Giang: cuộc sống cần nghỉ ngơi, cuộc sống không ngơi nghỉ. Em có suy nghĩ gì về vấn đề này? Hãy viết bài không dưới 800 chữ với chủ đề này. Đề văn Bắc Kinh, thật sự xuất sắc: bàn về sự bền vững của nền văn minh, thí sinh cần phân tích sự bền vững trong nền văn minh Trung Quốc đã giúp nhân dân vượt qua thời kỳ gian khó và xây dựng lại đất nước như thế nào.

Phim thanh xuân Trung Quốc thường đặt nặng tính giáo dục, không chỉ đưa ra ví dụ điển hình, họ rất quan tâm việc giảng giải các vấn đề tâm lý xã hội: chuyện thường gặp của các lứa tuổi, cách vấp ngã và trưởng thành, các kiểu hiểu lầm phổ biến thường xảy ra giữa con người với nhau, các mẫu tâm lý bất thường, bệnh hoạn thường gặp, các vấn nạn xã hội như đa cấp, lừa đảo, các mánh khoé thị phi của mạng xã hội cũng được phân tích kỹ! Nếu đã đạt đến trình độ cỡ các đề Cao khảo thì hầu như sẽ không còn vướng vào các “lý luận hình thức” trắng đen nữa! Một điểm nữa, kinh nghiệm của riêng tôi về những người “lú luận hình thức” là… họ không có khả năng phân biệt âm nhạc hay và dở, vì mãi tìm kiếm ngôn từ khả dĩ có thể chứng minh “tôi đúng”, vì chỉ “nói” mà không “nghe”, vì không để tâm lắng nghe cho nó thấu đáo, để cảm nhận nó hay dở, thô mộc tinh tế như thế nào, suốt ngày lên mạng tìm đọc tài liệu, xem cái gì khả dĩ có thể có lợi về lý luận ngôn từ, mà không biết cách “phản tỉnh”, nhìn vào cái tâm của chính mình cho nó rốt ráo! Họ không hiểu rằng ngôn từ kiểu trắng / đen vẫn luôn có sự giới hạn, khiếm khuyết rất hiển nhiên của nó!

nhị cú tam niên

Cứ như thế, càng năm càng rơi rụng đi, rồi dần dần chỉ còn đám ngu dốt đến mức nhảm nhí kiểu bolero mà thôi! Người như Nguyễn Tài Tuệ thì… “nhị cú tam niên đắc – 二句三年得 – hai câu làm mất ba năm” là chuyện bình thường, cả một đời chỉ đề lại hơn chục bài, nhất là khí nhạc, chứ về thanh nhạc lại thấy không nổi trội bằng…

chấn hoa

Coi nhiều đến phát nhàm, những kiểu mẫu phổ biến, con nhà người ta: cấp 3 là học trường Chấn Hoa (chữ ‘chấn’ trong chấn chỉnh, chấn hưng), lên Đại học là vào Thanh Hoa (chữ ‘thanh’ với 3 chấm thuỷ, nghĩa là trong sạch, thanh cao), ra trường là tham gia kiến thiết doanh nghiệp kiểu như Hoa Vi (Huawei, chữ ‘vi’ tức là: vì, bởi, do, cho…)

Trung Quốc mà, nhất là những vùng đông bắc, làm cái gì cũng có bài bản, có tư tưởng nhất quán, nói theo kiểu ngày xưa tức là…. “tu, tề, trị, bình”! Tuy có phần khuôn mẫu, thậm chí giáo điều, nhưng phim thanh xuân Trung Quốc truyền đi những thông điệp, những ví dụ, những bài học làm người một cách rất rõ ràng và tươi đẹp!

chánh niệm

Để tưởng nhớ bậc thầy “chánh niệm”, chi Từ Hiếu, nhánh Liễu Quán, phái Lâm Tế, Thiền tông, Đại thừa… người vừa rời cõi tạm! Giờ ai cũng nhắc như vẹt “chánh niệm”, cái “chánh” áp cuối trong “Bát chánh đạo”.

Chữ “niệm” này, chiết tự ra, trên là chữ “kim” – – hiện tại, dưới là chữ “tâm” – . Nên “niệm” có phải là cái tâm của bản thân, ngay tại đây, ngay lúc này không!? Nói thì dễ, nhưng làm siêu khó…

từ nguyên: ảo não

Từ nguyên: ảo não – 懊惱 – âm Hán Việt: áo não, chỉ tâm trạng buồn bực, rầu rĩ. Cuồn cuộn – 混混 – âm HV: cổn cổn, một âm khác là “cút” (không rõ du nhập vào Việt Nam tại thời điểm nào, có nghĩa là: lặn, biến đi). Lao đao, lảo đảo – 潦倒 – âm HV: lạo đảo. Rất nhiều lúc chợt nhận ra, hoá ra chữ Hán, tiếng Hoa thâm nhập vào ngôn ngữ Việt sâu đến như vậy, rất nhiều từ nghĩ chắc chắn là “thuần Việt” nhưng hoá ra là gốc Hán tự.

Chỉ đọc một bài Đăng cao – Đỗ Phủ là đã thấy mấy chữ rồi: Bất tận trường giang cổn cổn lai… Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi. Cảm giác tiếng Việt như cái thùng rỗng, chỉ được cái kêu to thôi, chứ nội dung trống hoác, cái gì cũng phải đi vay, mượn! Về mặt ngôn ngữ học, có nhiều câu hỏi chưa có lời giải đáp, những từ đó thâm nhập lúc nào, bằng những cách thức nào? Vì thường văn viết không thể có ảnh hưởng đến văn ngôn nhiều đến như thế!

thanh xuân, 1

…Dans le miroir du temps, qu’ils étaient
simplement des gens heureux…

Thời gian cuối năm rảnh rỗi, xem vài bộ phim thanh xuân giải trí! Phim này đúng là có khác biệt với những thể loại “thanh xuân ngôn tình” khác, ít “trai xinh gái đẹp”, ít “tiểu thịt tươi” và các màn diễn đơ cứng, công thức, đầy tính “phẫu thuật thẩm mĩ”, thay vào đó, phim tập trung nhiều vào những chi tiết thật của cuộc sống, đôi khi thực đến mức “lầy lội”. Xem qua vài tập, thấy vài lần trích dẫn những loại “cổ văn” mà tôi không biết là đã thấy hơi giật mình! Thường thì phim thương mại TQ hiện đại nếu có trích dẫn “cổ văn” thì đa số vẫn chỉ là những câu tương đối phổ thông, vì trình độ “biên kịch” chỉ đến thế mà thôi! Còn trích dẫn sâu xa hơn thì đương nhiên là phải ở một trình khác, chính vì như thế mà có hứng xem tiếp!

Trong một trích đoạn, 2 vị phụ huynh nói chuyện với nhau: “Bao giờ thì con gái chúng ta lớn?” Đáp: “Có tập phim nào mà ông không hỏi câu đó, mãi vẫn chưa lớn đấy thôi”! Trong một trích đoạn khác, hỏi: “Cậu có biết Cẩu-ca thích cậu hay không?” Nữ chính đáp: “Lâu như vậy rồi mà mình còn không biết, thì khán giả xem phim toàn quốc chửi cho ngập mặt à?” Xem tiếp thấy rõ tính “kịch” của phim này, những đoạn thực và giả cứ hoán đổi cho nhau! Dĩ nhiên là một thủ pháp nghệ thuật tốt nếu dùng đúng lúc! Nhạc phim khá, nhiều đoạn cứ đem “vòng quãng 5 cổ điển” (kiểu như Pachelbel canon) ra đánh là tạo cảm giác êm đềm, hạnh phúc ngay, tuy hơi lạm dụng nhưng dù sao cũng có đầu tư, tốt hơn nhiều so với các phim thương mại!

When We Were Young

Đầu phim là cảnh 2 nữ sinh nắm tóc, đánh nhau long trời lở đất, lăn từ trên cầu thang xuống (tập 4, phút 7:00), thanh xuân quả thật có nhiều chuyện để nhớ! Cũng đánh nhau mẻ đầu sứt trán, mà tại sao phim của người ta vẫn mang tính giáo dục rất cao!? Vì ngoài phản ánh thực tế, vẫn truyền tải rất nhiều giá trị khác! Không như phim VN, ngoài mấy cái bắt chước thô thiển, nhìn lại thấy một khoảng trống rỗng trong tâm hồn!

Phim đầy tính hình mẫu, sử dụng khá nhiều cổ văn, thành ngữ, Đường thi, Tống từ. Cũng bởi khối lượng văn học cổ đồ sộ như vậy, để học được 2, 3 ngàn chữ phổ thông mất rất nhiều năm, tốn khá nhiều “công phu”, thế nên thói “đĩ miệng”, những kiểu suy nghĩ và phát ngôn tuỳ tiện tự nhiên, tự dưng mà biến mất! Ai cũng “biết” muốn phát triển lâu dài cần nền tảng văn hoá, nhưng ai cũng loay hoay éo biết “văn hoá” là cái gì, bắt đầu từ đâu!?

Vì nhà không có TV và cũng không có thói quen xem TV, nên lâu lâu, lại cứ phải xem vài bộ để cập nhật tình hình! Xem phim phụ đề này có nhiều cái hay, có thể sử dụng cùng lúc 3 ngôn ngữ: tiếng Việt, tiếng Hoa, lâu lâu xem thêm tiếng Anh để xem họ dịch (diễn đạt, chuyển ngữ) như thế nào! Tiếng Hoa quả nhiên là một thứ tương đối “kỳ cục”, rút cuộc trở thành một không gian văn hoá riêng biệt mà người ngoài khó hiểu hết được!

Một kiểu chữ viết rất khó khăn và bất tiện! Không thật phù hợp để diễn đạt những vấn đề kỹ thuật chính xác, nhưng lại mang công năng giao tiếp xã hội vô cùng đa dạng và phong phú! Suy cho cùng, văn hoá không dừng lại ở tầng đầu tiên là ngôn từ (textual), nó đi xa hơn thế rất nhiều! Nên bảo ngôn ngữ chỉ là cái vỏ của tư duy là như thế! Bao giờ các “con ranh” VN mới hết loay hoay ở tầng ngôn từ thô thiển mà hiểu sang những tầng cao hơn!

đương gia chủ mẫu

当家主母

Trung Quốc, từ hàng chục năm qua, đã tạo ra nhiều thế hệ văn hoá điện ảnh có bề dày đáng nể: phim thanh xuân vườn trường, phim xã hội mới, phim cổ trang lịch sử .v.v… Tuy loại lảm nhảm không ít, nhưng loại có giá trị nghệ thuật vẫn không thiếu! Cuối tuần tranh thủ coi vài tập phim, coi để thấy cái vốn văn hoá, tư tưởng, kinh tế, kiến thiết, doanh nghiệp… kinh hoàng của họ! Phim nói về nghề dệt cổ truyền Tô Châu, ít nhất cũng đã thành công trên 2 phương diện, một là: kể lại ngày xưa “ông cha” đã xây dựng doanh nghiệp thế nào, hai là: qua đó cũng truyền tải một vài thông điệp đạo đức, mà cái thông điệp ấy, điện ảnh TQ lặp đi lặp lại mãi không chán: có nợ trả nợ, có ơn báo ơn, sống có trước sau, sống vì con người!

Nên tuy cũng có lúc, có chỗ giả tạo, nhưng ít ra phim ảnh TQ đã tương đối thành công trong việc tạo ra một chuẩn mực đạo đức nhất định cho xã hội, chứ không như ở VN, đã lưu manh là bất chấp, không cần biết xuống thấp đến cỡ nào! Thấp đến độ tìm mọi phương cách đê tiện, cốt chỉ để hạ thấp, mưu hại người khác, đi đến tận cùng chính là tự mình làm hại chính mình, là tự cắt đường sống của chính mình! Sở dĩ nói sống “vì con người” là như thế, không phải chỉ có cái văn hoá “cố chấp cùng cực” và “bất chấp thủ đoạn”. Suy cho cùng, mưu hại người khác chỉ khiến cho bản thân “bất an”, tâm lý “bất ổn”, tâm hồn “bất thiện”, cái “nghiệp” ấy tuy chậm, nhưng chắc chắn, không thể che giấu, càng không thể tránh né!

Quay trở lại phim ảnh… thứ nhất: với điện ảnh TQ, lâu lâu lại xuất hiện tài năng, sáng tạo thật sự, đủ sức thay đổi thị hiếu, thị trường, đủ khả năng giáo hoá con người, chứ không phải chỉ toàn những thể loại bất tài, chỉ biết chạy theo thị hiếu rẻ tiền, hạ cấp. Thứ hai: thỉnh thoảng “Quan gia” lại ban lệnh từ trên xuống, cứ phải “chỉnh huấn”! Nên nói một chữ “thị trường” nhưng có nhiều cách hiểu, đành rằng phim ảnh thành công phần lớn theo tiêu chuẩn “kinh tế”, nhưng hàm lượng sáng tạo cũng có vai trò quyết định! Và đành rằng “Quan gia” có quyền lực to lớn, nhưng bản thân con người cũng phải “hướng thiện”, cũng phải tự biết cái gì là tốt xấu! Xã hội “hưng” hay là “phế” cũng chỉ do những lý do tự thân như thế!

đếm chữ

Coi phim thanh-xuân Trung Quốc cũng thấy y như vậy, họ có truyền thống “đếm chữ”, và chữ nghĩa của họ thì siêu nhiều! Ví dụ như học sinh phổ thông phạm lỗi kỷ luật gì đó là phải về nhà viết bản kiểm điểm “1 ngàn chữ”, nếu lỗi nặng hơn nữa thì sẽ phải viết kiểm điểm “2 ngàn chữ”… Điều này đã từng thấy áp dụng cho cả quan chức chính trị cỡ bự, kỷ luật là cũng phải viết kiểm điểm “5 ngàn chữ”, “1 vạn chữ”, mà chữ TQ thì rất dễ đếm!

Phải công nhận giáo dục phổ thông TQ kỹ hơn VN nhiều, học sinh được học nhiều về văn học, lịch sử… tất cả tạo nên một “corpus”, tập từ vựng, hành văn, diễn đạt, tư tưởng cơ bản. Không như VN, chỉ vài ba năm “đọc viết thông thạo” coi như xong, cùng lắm chỉ đạt đến trình ngôn ngữ báo chí cấp thấp! Nên mới đẻ ra những loại không biết cái gì, loay hoay với những ngôn từ “ngáo ngáo, thiểu năng” mà vẫn tự cho mình giỏi!

vô môn quan

無門關

Ngôn ngữ, đó là cái vỏ của tư duy, ngày trước nghe nói như thế, nhưng vẫn chưa hiểu lắm! Thật ra, người ta dùng từ rất chính xác, “cái vỏ”, giống như cái vỏ của các loài giáp xác (tôm, cua…) vậy, vừa là hệ thống bảo vệ cơ thể khỏi tác động của môi trường xung quanh, vừa là cái khung cấu trúc để cho cơ thể bên trong được phát triển! Người có suy nghĩ chính chắn, vững vàng không dễ gì bị tác động của môi trường xung quanh, kẻ không có tư duy gì đáng kể thì… ai nói gì cũng nghe, ai xúi gì cũng làm! Tuy tác dụng là vậy, nhưng phát triển đến một mức độ nào đó, cái vỏ này lại trở thành vật cản trở, vì cơ thể có nhu cầu phải trở nên lớn hơn, mà cái vỏ không lớn hơn được, do đó phải trãi qua… rất nhiều chu kỳ lột xác!

Nhiều người học đâu đó vài ngôn từ lảm nhảm, cũng tự tạo nên cái vỏ như thế, họ hài lòng với cái vỏ be bé ấy, rồi đóng khung cứng luôn trong đó! Họ không hiểu “cái vỏ ngôn từ” có hai mặt, phải thay đổi, nếu không sẽ trở thành tù nhân của cái vỏ do chính mình tạo ra! Dĩ nhiên, thay đổi có tính cấu trúc và kế thừa, còn những loại “ốc mượn hồn” thì không cần kể đến! Cứ như thế phát triển từng bước, đến cảnh giới dùng “Vô Ngôn Thông” (thông hiểu không cần… ngôn từ) để bước qua “Vô Môn Quan” (cửa không có… cổng) thì chắc lúc đó về với chư Phật rồi! Hoà thượng Thuỵ Nham Sư Ngạn mỗi ngày tự gọi: “Ông chủ!”, rồi tự trả lời: “Dạ”, lại tiếp: “Tỉnh táo nhé!” – “Dạ” – “Mai kia mốt nọ chớ để người gạt nhé!” – “Dạ, dạ!”

giãn cách, 11

Kaka, dù có nhí nhảnh, sinh động cách mấy, mà đầu óc không có tư tưởng, không có phương châm sống rõ ràng, không có định tuệ tự thân, thì lên đường vẫn là lên đường thôi! Giải trí chưa phải là nghệ thuật, mà nghệ thuật chưa phải là trường tại! Chẳng riêng gì ở Trung Quốc, ngay cả ở Việt Nam, văn chương của Kim Dung, Quỳnh Dao vẫn chưa được xem là hạng nhất… thì nói gì đến các thể loại ngôn tình, đam mỹ, tiên hiệp, etc…!? Lâu lâu phải gõ đầu một cái thật mạnh, cho nó tỉnh ra! Khi Tào Tháo làm thơ: Đối tửu đương ca, Nhân sinh kỷ hà….

Ông ta hẳn sẽ tức tối lắm, nếu biết nó được cóp lại trong một bộ phim giải trí tầm tầm như HCCC! Nghĩ mà giật mình, vậy các thể loại còn chưa bằng được như HCCC đầy rẫy ở VN phải làm sao? Văn hoá không phải là ba cái thứ rẻ tiền hú hét, chiêu trò, giả pede, giả gái, giả tiếng, chọc lét gây cười… riết rồi đám trẻ nghĩ rằng cuộc sống chỉ có bao nhiêu đó! Ở khoản này, TQ làm rất tốt, phim ảnh TQ có nhiều mảng có nội dung thâm hậu, có chiều sâu, thay thế được cho văn hoá giải trí rẻ tiền! Ở VN, nếu mà thanh lọc hết là sẽ bớt đi nhiều nhiều lắm!

đăng hoành sơn

Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi,
Bên non cỏ nội tiễn đưa người.
Ai tài kéo nước nghìn năm lại?
Trăm trận còn tên một lũy thôi.
英雄莫挽千年國
征戰空存一壘名

Hình chụp ở thành phố Đồng Hới, Quảng Bình. Thành cổ Đồng Hới không lớn nhưng cấu trúc thành, hào vuông vắn theo kiểu Vauban vẫn còn được bảo vệ tốt…

Bernoulli’s principle – 2

Trên không gian mạng, thấy có nhiều vị Tiến sư, Giáo sĩ, bằng cấp học hành ghê gớm, mà không thể hiểu được những công thức, nội dung toán/lý đơn giản! Em đang nói về nguyên lý Bernoulli, nguyên lý chi phối cánh buồm, cánh máy bay! Nói tới nói lui, 2, 3 năm thời gian suy nghĩ thì rút cuộc vẫn chưa thông, mà em e là trí năng như thế, chưa thể thông sớm được!

Con “tàu lượn dưới nước” Trung Quốc “海翼 – Hải Dực – cánh biển – SeaWing” này có thể đi xa hơn 10000 (mười ngàn) km, chỉ lượn lờ chậm rãi, không nhanh nhưng đi rất xa, rất thích hợp làm công cụ do thám! Mà kích thước chỉ bé như thế thôi, làm sao dự trữ lượng lớn năng lượng để làm những hành trình dài như thế!? Bác nào giải thích được thì mới gọi là hiểu nguyên lý Bernoulli!

đậu mùa

Trung Quốc là nước sớm nhất trên thế giới tìm ra những dạng vaccine sơ khai đầu tiên. Ngay từ những năm 16xx, theo lệnh của Khang Hy đế, đã tiến hành “chủng” đậu mùa trên gần như là toàn quốc, tiến đến xoá sổ căn bệnh này! Nhưng dĩ nhiên, họ không dạy cho Việt Nam cách “chủng”, nên đậu mùa vẫn hoành hành ở VN mãi… 300 năm sau, ít nhất là đến những năm 195x! Thuận Trị đế chết vì đậu mùa, Hiếu Trang hoàng thái hậu có nhiều lựa chọn kế vị, nhưng đã chọn Khang Hy vì ông ta là một đứa trẻ khoẻ mạnh, và quan trọng nhất là: đã từng nhiễm đậu mùa và đã qua khỏi! Lịch sử đã chứng minh đó là sự lựa chọn đúng đắn, hiếm có vị hoàng đế TQ nào giỏi giang, ham học hỏi như Khang Hy, cùng với cháu nội mình là Càn Long, đã tạo dựng nên một giai đoạn phồn thịnh rực rỡ gọi là “Khang – Càn thịnh thế”! Nói theo ngôn từ hiện đại thì vaccination và variolation là hai khái niệm tuy có liên quan nhưng khác nhau! Ghi chép văn bản đầu tiên về các phương pháp “chủng” ở TQ xuất hiện khoảng 1499!

Phương pháp đã được áp dụng từ thời Minh và phát triển rộng rãi thời Thanh, là phương pháp chủ động nhiễm bệnh nhẹ để sinh kháng thể! Phương pháp có tỉ lệ tử vong dưới 2%, dù vậy cũng đã là “cứu tinh” nếu so với tỷ lệ tàn khốc 20 ~ 30% nếu để dịch bệnh xảy ra! Nguyên nghĩa, chủng – là gieo, trồng, cấy. Nghĩa phái sinh trong y học cổ truyền tức là lấy một mẫu bệnh phẩm nhỏ của bệnh nhân, tán nhỏ, hít vào theo đường hô hấp, hoặc rạch da, cấy vào theo đường máu, nguồn gốc của những từ như “tiêm chủng”, “chủng ngừa” ngày nay! Như vậy có thể thấy, hơn 300 năm trước, bằng các quan sát, phương pháp thuần tuý thực nghiệm, chưa có các cơ sở khoa học hiện đại như ngày nay, TQ đã tiến hành “chủng ngừa” cho phần lớn dân số! So ra với thời hiện tại, ngay cả ở những nước văn minh phát triển, vẫn có đến khoảng 20% dân số mang tâm lý anti-vaccine… Dĩ nhiên, đánh vào những nỗi sợ hãi bản năng, tự nhiên của con người vẫn hiệu quả hơn là một sự tiếp cận lý tính!