serene – 3, part 28

I took the kayak out for several more paddling around my area, 12 ~ 24 km, and also took a few video shots, mostly from second – person positions. I want to observe the whole boat under action, its motions and its wakes, etc… I also want to see how the rudder works, to check if the hull need some trimming, as well as to observe my own paddling movements. Actually, I’m very lazy for video capturing (and editing), they’re time consuming jobs, I’d better concentrate just on paddling.

I made a new seat from plywood, of a very simple design, composed of 3 pieces of ply bended into curved forms around a frame made from MDF. This batch of plywood is really good, no cracks, no breakages even though tortured to extreme shapes. The seat is bolted onto two “hip braces”, connecting the cockpit coaming and the floor, providing a comfortable seat, and together with the rudder pedals, offer a very tight fit for my lower body, required to control the boat in turbulences.

The overall evaluation for Serene – 3 is very satisfying, the boat behaves very well, and very predictable under different conditions. Its stabilities enable me to lean the boat to extreme angles without falling, and I really enjoy its agility, which reacts instantly to my different paddle strokes. The hatches are completely waterproof, the rudder has (more than) enough steering power, and the electric – bilge pump system works just fine. More trialling ahead on this Lunar new year holiday.

cossacks – 1

Giống như khi phái đoàn ngoại giao Grand Embassy của Sa Hoàng Peter the Great lần đầu tiên sang châu Âu, những ban nhạc cung đình châu Âu biểu diễn âm nhạc cổ điển sang trọng, lịch sự, từ tốn. Để đáp lại, dàn nhạc của Peter biểu diễn một thứ âm nhạc với huýt sáo và hò hét. “Cũng tương tự”, muốn nghe hò hét, huýt sáo trong không gian âm nhạc thính phòng, hãy xem Alexandrov Ensemble biểu diễn tại Anh năm 88, một trong những bài dân ca Slavơ nổi tiếng nhất…

Cossack không phải là một dân tộc riêng biệt, mà chỉ là một sub – culture trong không gian văn hoá Slavơ chung: Nga, Ucraina, Belarus… Từ thời xa xưa, họ sống trên các thảo nguyên, lối sống trồng trọt, chăn thả, giỏi về chiến đấu trên lưng ngựa. Trong tất cả các thời đại, từ thời các Sa hoàng đến thời Sô – viết, và hiện đang thấy rất rõ trong giai đoạn nước Nga Putin hiện đại, Cossack vẫn luôn luôn là “cơ bắp” của chế độ: giữ gìn, mở rộng biên cương, trấn áp nội gian, nội loạn.

the final count down

Ai cũng biết bài hát xưa như trái đất này, nhưng mấy người biết nó nói về cái gì!? “The final count down” – lệnh đếm ngược: 9, 8, 7… 3, 2, 1… Preliminary stage, Intermediate, Main, Lift – off… đọc lời bài hát sẽ rõ, ngồi trên hàng trăm tấn thuốc nổ, trong một tích tắc là đi vào lịch sử (hoặc trở về với cát bụi)!

We’re leaving together, but still it’s farewell. And maybe we’ll come back to earth, who can tell? I guess there is no one to blame. We’re leaving ground. Will things ever be the same again? It’s the final countdown! We’re heading for Venus and still we stand tall. Cause maybe they’ve seen us and welcome us all, yeah. With so many light years to go and things to be found. I’m sure that we’ll all miss her so. It’s the final countdown!

Peter the Great

Hàng năm, vào ngày 30 tháng 7, sinh nhật của Sa hoàng Peter I (vừa qua), chiếc thuyền buồm nhỏ 400 năm tuổi này lại dẫn đầu đoàn diễu hành kỷ niệm Ngày thành lập Hải quân Nga trên sông Neva. Sau 400 năm, con thuyền 7m đóng bằng gỗ sồi này cỡi trên boong một con tàu khác chứ không thể tự bơi như trước. Tất cả chiến hạm của Hải quân Nga đều phải nghiêm chào khi con thuyền này đi qua. Peter I tìm thấy chiếc thuyền buồm trong nhà kho của ông nội, và học cách điều khiển nó năm 14 tuổi. Vài năm sau, ông tự tay đóng những chiếc thuyền buồm khác, “from keel to mast” – từ đáy lên tới đỉnh, và sau đó giong thuyền hàng trăm cây số trong bão tố trên vịnh Baltic, mặc cho bà mẹ của ông sợ hãi can ngăn.

Một cậu bé siêu tò mò và hiếu động, lập ra những “đại đội” đầu tiên từ các gia nhân, những người hầu cận của mình để chơi đánh trận giả. Hơn 3000 thiếu niên được huy động để lập nên hai trung đoàn: một đóng vai quân xanh, một đóng vai quân đỏ, và để xây dựng những pháo đài gỗ cho các trò chơi của cậu bé này. Ngày qua ngày, các chàng trai đó lớn dần lên, trò chơi trận giả ngày càng trở nên thật hơn. Đến một lúc, họ tập trận với gươm thật, súng thật, và từ đó trở thành 2 trung đoàn PreobrazhenskySemenovsky, đội ngự lâm quân của các Sa hoàng sau này. Những cậu bé chơi trận giả với Peter, về sau, đa số đều trở thành những sĩ quan thành danh trong các đơn vị quân đội khác nhau của vương quốc.

Không quan tâm nhiều đến sách vở, chỉ ham mê các trò chơi vận động. Nhưng ham thích thuyền buồm, nên đã học toán, học thiên văn để biết cách dùng kính lục phân (sextant), đã học nghề mộc, học cách tự may buồm, học cách rèn đúc đại bác, vũ khí, và tất cả những nghề nghiệp có liên quan khác. Năm 1697, lúc 25 tuổi, Peter du hành ẩn danh (incognito) qua nhiều quốc gia châu Âu, dừng chân 4 tháng ở Amsterdam để học nghề mộc đóng thuyền. Trong suốt thời gian 4 tháng này, ai gọi Peter là “bác cả” (thợ mộc) thì ông trả lời, còn ai gọi là “điện hạ”, “hoàng thượng” thì ông làm lơ không đáp. Peter đến Đức, Anh, Áo và nhiều quốc gia châu Âu khác, học hỏi mọi thứ có thể trên đường đi, nhất là những tiến bộ kỹ thuật!

Bản thân Peter thành thạo hơn 16 nghề, thành thạo thật sự chứ không phải chỉ làm cho có. Cuộc hành trình 2 năm ở châu Âu đã đem về Nga hàng chục ngàn đầu sách, đích thân Peter phỏng vấn và tuyển chọn gần 1000 chuyên gia nước ngoài để phục vụ cho việc đóng tàu, khai khoáng, luyện kim, chế tạo vũ khí, huấn luyện binh lính, etc… Họ được trả một mức lương hậu hĩnh để phục vụ trong quân đội, hải quân, trong chính quyền và các ngành nghề công nghiệp khác của Nga. Nên biết rằng lúc này châu Âu đã qua kỷ nguyên Ánh sáng và chuẩn bị bước vào kỷ nguyên Công nghiệp hoá, trong khi nước Nga vẫn còn là một quốc gia trung cổ cực kỳ lạc hậu, đơn thuần nông nghiệp dựa trên chế độ “nông nô” (serfdom).

Để mở mang bờ cõi, phía Nam, Peter xây dựng hạm đội biển Đen và gây chiến với Thổ Nhĩ Kỳ. Phía Bắc, ông lập nên hạm đội biển Baltic và tuyên chiến với Thuỵ Điển, quốc gia hùng mạnh nhất châu Âu lúc bấy giờ. Hai hạm đội này, lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga, mở được đường ra biển, giao thương với châu Âu và thế giới. Trước đó, người Nga hầu như chưa biết biển là gì! Peter khởi đầu với vị trí bombardier – pháo thủ, tự tay kéo pháo, tự tay nhồi đạn. Ông làm việc trên công trường đóng tàu như một người thợ mộc bình thường khác. Suốt mấy chục năm chinh chiến, ông được “thăng chức” bởi… chính các tướng lĩnh của ông, dần dần sau mỗi trận chiến, từ đại uý, đại tá và cuối cùng là đại tướng.

Mặc dù hiển nhiên, Sa hoàng mới thực sự là người chỉ huy cao nhất. Tất cả giống như là một vở kịch lớn, một trò chơi lớn, tiếp nối những trò chơi trận giả lúc nhỏ. Lúc đang xây dựng thành phố mới St. Peterburg, dự tính sẽ là thủ đô mới của nước Nga bên bờ vịnh Baltic, Peter sống trong một ngôi nhà gỗ 3 gian tạm bợ, với người vợ, sau này là nữ hoàng Catherine. Trong suốt nhiều năm, Catherine tự tay nấu ăn và giặt giũ, chăm sóc con cái, còn Peter tự tay làm vườn, họ sống như một cặp vợ chồng nông dân bình thường khác, trong căn nhà gỗ nhỏ thậm chí không có ống khói. Thư từ gởi đến và đi, đề tên là Peter Mikhailov, chứ không phải là Sa hoàng. Căn nhà này bây giờ trở thành một viện bảo tàng ở thành phố St. Peterburg.

Catherine, một phụ nữ gốc gác nông dân, “xuất thân hèn kém”, cả đời không biết đọc và viết, nhưng theo chồng Nam chinh Bắc chiến, chia xẻ mọi khó khăn, cực khổ, hiểm nguy trên chiến trường, nhiều khi còn tự tay nấu ăn cho lính tráng. Bà cứu mạng chồng mình trong một lần thua trận, bị quân Thổ Nhĩ Kỳ bao vây, bằng sự thông minh khôn khéo và can đảm của mình. Còn những khi chiến thắng trở về, Sa hoàng Peter, trong quân phục một đại uý, diễu hành qua cổng Khải hoàn môn ở Mát-cơ-va, đi phía sau những tướng lĩnh chỉ huy của ông như một người lính bình thường nhất. Giới quý tộc truyền thống Nga nhìn vào Hoàng đế của họ với tất cả những sự ngỡ ngàng, khó hiểu, xen lẫn với tức tối và bất mãn.

Công cuộc lột xác của nước Nga từ một nước nông nghiệp trung cổ lạc hậu, bước sang công nghiệp hoá trải qua nhiều đau đớn. Bản thân giới quý tộc không muốn từ bỏ các đặc quyền đặc lợi. Bản thân Nhà thờ Chính thống giáo không muốn mất đi các đất đai sở hữu và những quyền lợi khác. Peter đã ra lệnh tháo tất cả chuông của tất cả Nhà thờ trên toàn thể lãnh thổ Nga xuống để lấy đồng đúc súng đại bác, một hành động mà sau đó ông bị xem là “anti – Christ”. Giới quý tộc được lệnh phải văn minh hoá, phải học theo kiểu cách Tây phương. Áo choàng dài bị cắt ngắn, những hàm râu quai nón rậm rạp đặc trưng của quý tộc Nga bị cạo sạch, ai còn muốn để râu phải đóng “thuế râu”, phải trả một khoản tiền lớn.

Con em các nhà quý tộc và thơ lại được gởi đi châu Âu, học ngoại ngữ, học toán, học luyện kim, đóng tàu, kiến trúc, xây dựng, etc… và tất cả những ngành nghề cần thiết khác. Thể chế dựa trên đặc quyền, đặc lợi xa xưa dần dần bị bãi bỏ, tất cả được xây dựng lại trong một hệ thống dựa trên tài năng và công trạng. Thăng tiến trong chính quyền hoàn toàn dựa trên những thành quả đạt được. Và những đổi thay đó rất đau đớn, ở đây thể hiện một mặt khác trong cá tính con người Peter, một sự tàn bạo đến khát máu, sẵn sàng ra lệnh treo cổ hàng ngàn người chỉ trong một ngày, tất cả những ai dám chống đối, dám cản đường ông, tất cả chỉ để thực hiện cho bằng được chính sách “Duy tân” của mình.

Lịch sử nước Nga từ đó bước sang một trang khác, một kỷ nguyên khác, nổi lên như một siêu cường ở châu Âu. Cả châu Âu run sợ trước một thế lực mới, vừa văn minh hiện đại, vừa dã man tàn bạo! Không một ai có được vai trò như của Peter đối với nước Nga, trên tất cả các phương diện: khoa học, kỹ thuật, quân sự, văn hoá, thể chế luật pháp, chính quyền, kiến trúc, xây dựng, etc… Và cũng chỉ duy nhất một mình Peter được sử sách Nga chính thức gọi bằng cái tên: Piotr Veliki – Peter the Great – Peter vĩ đại. Tất cả được kể lại một cách hết sức chi tiết và sống động trong cuốn sách đồ sộ Peter the Great của Alexei Tolstoy, bản dịch tiếng Việt: Pie đệ nhất, một trong những cuốn sách yêu thích nhất của tôi lúc nhỏ.

a sailor’s wedding

A unique event in the Vietnamese recreational boating community, a community that is so small that even a kayaker like me have chances to know other players of other water sports such as sailboat, SUP, motor canoes, free or Scuba diving… And that’s the wedding of my friend, who helps founding and running VTSA – Vũng Tàu sailing club. Assembled together for the parade is 4 big sailboats, 2 monohulls and 2 catamarans.

A small parade with those 4 sailboats, about 20 nautical miles, running from Vũng Tàu city to VietsoPetro resort, where the wedding celebration and party were held on the beach. The weather was so fine, though winds are a bit weak. Taking parts in the parade are the bride and groom, their sailor friends and some invited guesses. Such a special event, and such joyful moments among our friendly circle that we could never forget.

bắc hành – 2017, phần 21, kết

Càng vào Nam, thời tiết càng lúc càng nóng bức, mà dải bờ biển từ Cam Ranh vào đến Vũng Tàu đã biết tương đối kỹ. Thế nên quyết định “đổi gió” một chút cho hành trình, thay vì toàn là những cảnh quan vùng biển, cũng nên trải qua một chút không khí miền núi. Từ Cam Ranh, rẽ qua quốc lộ 27B đi Đà Lạt, thăm lại quãng đèo Ngoạn Mục mà đã từ lâu không đi lại. Đèo Ngoạn Mục cái tên được dịch từ tiếng Pháp là Bellevue (nice view) hay còn được gọi là đèo Sông Pha, lấy theo tên con sông “Krong Fa”.

Dọc tuyến đường này, còn thấy nhiều vết tích của tuyến đường xe lửa răng cưa mà người Pháp xây dựng từ Tháp Chàm đi Đà Lạt (nay đã hoang phế). Đoạn đường này nổi tiếng nguy hiểm với các loại xe khách, mặc dù núi đồi không phải là quá hiểm trở, độ dốc cũng không phải là quá lớn, các khúc cua cũng không phải là quá khúc khuỷu so với các con đèo khác. Nhưng đơn giản là vì các con dốc quá dài, hơn 150 km toàn lên (xuống) dốc liên tục, dể cháy thắng xe nếu tài xế không lưu ý!

Từ trên đỉnh đèo Ngoạn Mục nhìn xuống, cảnh quan thật đúng là… ngoạn mục. Đứng ở đây có được một cảm giác, hình dung rất rõ về cao nguyên Lâm Viên nổi bật lên hẳn trên nền cảnh quan xung quanh như thế nào. Hành trình tiếp tục đi về Đà Lạt, thành phố ngày càng hiện đại và đông đúc, từ đây đã là chốn quen thuộc vì Đà Lạt mà, đã đến đây dễ phải cả mấy chục lần. Ở lại thành phố cao nguyên này ít ngày, để gột bỏ bớt đi mùi của muối suốt mấy chục ngày hành trình ven biển!

Từ Đà Lạt, đổ đèo Prenn, đèo Bảo Lộc, đèo Chuối, theo quốc lộ 20 qua Phương Lâm, Tân Phú, Định Quán, La Ngà, Thống Nhất, Dầu Giây, Trảng Bom, Biên Hoà… về lại Sài Gòn, kết thúc hành trình! 44 ngày đi dọc theo bờ biển Việt Nam, với quá nhiều những trải nghiệm, những phát hiện thú vị. Cung đường ven biển mới hoàn thành Nam Trung bộ mở ra những cảnh quan trước đây tôi chưa từng được thấy! Hay đoạn đường chạy dọc theo vịnh Bái Tử Long cũng là có đoạn cảnh quan rất ngoạn mục!

Rất nhiều điều mới lạ nhìn thấy, chứng kiến dọc đường đi, như thuyền máy có xiếm ở Quất Lâm, Nam Định, ghe buồm “ba vách” cổ truyền ở Quảng Yên, Quảng Ninh, hay những chiếc ghe composite nhỏ trên đảo Cát Bà. Từ những cảnh quan thoáng đạt của vùng biển khu bảo tồn Núi Chúa, Phan Thiết, hay hoàng hôn cửa biển Cẩm Trung, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, hay bình minh rực sáng trên cửa Hội sông Lam, đến không gian đầy kỷ niệm của bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, hay chèo kayak trên vịnh Hạ Long…

serene – 2, part 42

Made some more longer paddlings (20 ~ 25 km) to get to really know her, my newly – built Serene – 2. It’s not until now that I could get myself familiarized with the boat’s primary stability, which could be really “frightening” to most novice paddlers. In reality, Serene – 2 is “more stable” compared to Serene – 1, but with a much higher free board, the secondary stability comes a bit later, to assure that everything is alright!

Actually, I’m a bit concerned about the boat’s primary stability, cause it has lots of V – bottom the under side. I would need to trail the kayak in its full capacity, to really make sure that the boat reaches its expected stability when fully – loaded with gears for a multiple – days paddling trip. The “fearful, uneasy feeling” caused by the low primary stability should not be taken for granted at all, even when I know that it’s safe.

Cause you would virtually going nowhere when all the time, you’re just worrying about it, worrying that something (a potential capsize) would happen. I’m pretty sure that the boat would be fine at its designed displacement, but only trialling would tell precisely. Looking back at all my boat building, boat playing times, lots of fearful moments, lots of self – doubting, self – disappointments, self – blaming, etc…

But that’s the nature of boating things, of “adventures” on the water. It requires lots of practicing and improving, to make sure that everything is right, that everything just works. My paddling performance is really really bad lately, with very little training ever since my last 9 days paddling trip in June. Obviously, something need to be improved here, and that would be among my resolutions in the coming new year!

serene – 2, part 39

Made several short paddlings (10, 12 km) to trial my newly – built Serene – 2 kayak. The overall feeling is very pleasing, the boat is much easier to control compared to my previous one Serene – 1, and it’s faster, taking up momentum in just a few light strokes! But the velocity measures would be postponed until I could finish all equippings, all adjustments, and begin longer paddling to know precisely.

Yesterday, I had a capsize in my kayak, reason is that the seat raises the center of gravity (CG) by approximately 5 cm, just a very short distance but severely affect the boat stability. This is something I’d already knew in the designing phase, but still try to do the silly thing of installing the inappropriate seat. The solution is quite simple: remove the seat, just sit barely on the bottom, and build just a back – rest instead.

Apart from that, everything works well enough: the bilge pump, the rudder and rudder pedals, other electrical devices, etc… The shorter hull reacts more sensitively to load balancing, the kayak needs to be trimmed a little bit further aft to reach its most stable point. I’m especially happy with the rudder, to give a decisive conclusion on the Rudder vs. Skeg debate: the Skeg is simply left too far behind to argue!

Only long paddling would tell, if there’re some significant improves in “economical speed”, the important point of a kayak designed for cruising: the minimum effort required to propel the boat on large distance and in prolonged period of time. It takes some more efforts and times to really complete harnessing my Andalusian horse and make it ready for sea paddling trips in this Northern monsoon wind season!

vũng tàu sailing, 4

Serene – 2 is almost done, but the trialling would be continued on for quite some times. Now having some free time – slots to turn to sailing, joining my “sailing comrades” again in Vũng Tàu. North winds are turning much stronger, and though we’re sailing in a somewhat protected bay, the wind gusts reach 25+ knot, and waves above 1m.

The Baba (Vietnamese word for a specie of turtle) trimaran has been overhauled for repair and being refitted, there’re some works required still on the boat. It was such a wonderful experiences, and a very wet ride, when waves wash all over the boards. Looking at the stern wake in the clip below, we were going easily at 12+ knot!

serene – 2, part 34

The bilge pump is a critical component of this Serene – 2 kayak. Empty out a flooded boat, or simply make your seat less wet, it gives you lots of confidence and convenience on long paddling trips. Today, I installed the bilge pump with its water hose (through a hole drilled on the port side). Electrical wires are connected and carefully sealed inside plastic tubes with silicone glue to make them really waterproof.

I wouldn’t want the whole system to collapse just because of one leaked electrical wire (anyhow, there’s still the fuse in case of a power surge, e.g: short circuit somewhere). Watch the short video below to see how the bilge pump works, it’s just so great! I would just move a wooden knob (the reed switch), and the water jumps out! The small “buzz, buzz” vibrating sound of the bilge pump is so fascinating!

One problem, however, due to the very deep V – bottom of the kayak, some small amount of water remains still at the bottom which could not be sucked out by the pump. That’s not a big problem anyhow, cause I would install a seat that raises me a few centimeters higher on the floor, and wouldn’t make my pant soaking wet. In the video, the water flow doesn’t look very strong, since the battery is already running low.

I would make more thorough testings to see how the whole system works in combination: battery, solar panel, lights, and bilge pump! But I would wait until the 12V battery “fuel gauge” shipped from Amazon, so that I can have exact measures on the battery usage, how many times it could pump out a boatful of water. It’s important to understand how your system works, so that you could make good uses of them on longer journeys!

serene – 2, part 32

The hull is painted with 2 layers of transparent PU paint. In this tropical weather, paint dries so fast, after about 3 or 4 hours, I can start the various deck fittings: mounting the forward hatch with compass on top (and compass light). The electric wires (housing inside a plastic tube) supplying power to the compass light also serves as a holding line, just in the rare case that the hatch could fall out.

The signal light is done the same way, connect the electric wires, seal them inside tube with silicone glue, test if the reed switch work. Until now, all 3 reed switches works well, I shouldn’t worry much about them, as reed switches, though tiny in size (less than 3 mm in diameter), are in fact very durable (rated at 100 000 times of turning on / off). In the silent night, I can hear the click, click sound of them turning on / off.

Fitting the bungee cords is quite straight forward. The anchor points (made from wood) work well enough, I just pull a thread through easily, don’t have to “prime” with a small steel wire like before. The forward bungee cords also run through 2 wooden blocks (see the third image), each house a magnet inside. I use the NdFeB (rare earth) magnets, which are really strong, they could turn on the reed switch 2 or 3 cm away.

Next, I would fit the rudder pedals, run the rudder control lines and see how all things works. Then comes the bilge pump, with the water hose, then the solar panel. The ugly thing is that you just don’t know how much power left in your battery, or if the solar panel is doing its job. So I ordered a “12V battery fuel gauge” from Amazon to read out the current capacity of my SLA battery. Below: a short video to show how the reed switches work!

Hành trình kayak qua 9 cửa sông Mekong, June, 2016, epilogue

Trần gian chưa thỏa ý người,
Sớm mai xoã tóc rong chơi với thuyền.

Thế rồi cứ miệt mài chèo đi trong 9 ngày như thế, ngày đi đêm nghỉ, đói ăn khát uống, vừa đi vừa hát rằng: Anh nằm xuống, sau một lần, đã đến đây, đã vui chơi trong cuộc đời này, đã bay cao trong vòm trời đầy… Bạn bè còn đó, anh biết không anh? Người tình còn đây, anh nhớ không anh? Vườn cỏ còn xanh, mặt trời còn lên, khi bóng anh như cánh chim chìm xuống! Vùng trời nào đó, anh đã bay qua, chỉ còn lại đây những sáng bao la… Anh nằm xuống, như một lần vào viễn du, đứa con xưa đã tìm về nhà, đất ôm anh khép lại hẹn hò, rồi từ đó, trong trời rộng đã vắng anh…

rowing machine – 3

Having some more time this week to finish this very small piece of work: a pulley system for lifting the weights up and down. Then ensemble everything together: the sliding seat, the rotating foot rest (note the pair of sandals tied on it). Initial testing gave satisfactory results, though some adjustments are still needed here and there!

Rowing the machine is quite like riding a bicycle on long distance, it seems light and easy at first, but it gets more and more demanding the longer you row. That’s a perfect machine for exercising many of your body’s muscles. I made a quick video capture with my phone to show how the machine works below (sorry for the poor lighting condition).

vũng tàu sailing, 2

This weekend, we lower the trimaran’s mast to add a new tang, riveted down near the mast head for the spinnaker (replacing the weak pad – eye that has been blown away by strong wind last week), make some other minor fixes before raising the mast again. We also installed a new spinnaker retrieval line and chute. The work continues pass noon.

Then after a small lunch, we head out to the sea. There’re only some very light winds today, the sea is quite calm, but that’s also a chance to fly and test all sails. The whole thing works perfectly, hoisting and retrieving the spinnaker are quite smooth, together with main sail and jib, enabled the trimaran to carry 6 men out for a pleasureful gentle promenade!

vũng tàu sailing, 1

Even greater sailing experiences the last weekend, when we had a chance to sail a slightly larger and heavier trimaran on Vũng Tàu sea. It takes sometimes to rig a new spinnaker, but with just only a mainsail hoisted (the jib is still furled), the boat is already like a restrained horse, ready to show off her real power once the mooring line is released.

With two daggerboards, the trimaran points quite closed to wind, though some few times, it lacks a bit of momentum for a quick, decisive tack, or maybe our handling (of an entry – level sailor) has not been smooth enough. Nevertheless, there were quite a lot of wind and waves that afternoon, and there were plenty of fun riding them obviously!

Lê Quý Đôn sailboat, HQ – 286

Thái Bình Dương gió thổi,
Thuyền em trôi nổi tựa cánh bèo.
Sao không ra giúp chống đỡ chèo!?
Anh hùng sao lại nằm queo trong thuyền!?

Yeah, she is officially put into Vietnamese Navy service today in her home port Nha Trang. This is to follow my previous 3 posts on the training vessel: post 1, post 2, post 3. Contrary to the initial announcements (which I’d doubt to be wrong intentionally, as common to all military news), the boat didn’t take the Cape of Good Hope and Indian ocean route, but passed the Atlantic to West Indies, then the Panama canal, then crossed the Pacific to reach Vietnam, apparently going the Trade wind route.

The boat had 33,800 km passed under her keel in the 120 – days delivering trip from Poland to Vietnam. It is a shame that, it’s also the longest voyage ever made by any Vietnamese Navy ship!

The training vessel Lê Quý Đôn, in addition to it’s modern life boats and life rafts, carries 4 small canoes, each is equipped with oars, and has two masts for sailing training. Actually, I’m feeling envy with those who are trained on such a wonderful platform! Watch a video of the ship in action below.

Cuối cùng thì con tàu buồm Lê Quý Đôn cũng đã chính thức đi vào biên chế Hải quân Việt Nam hôm nay tại Nha Trang. Không giống như đã đưa tin trong 3 bài trước: bài 1, bài 2, bài 3 (mà tôi đã ngờ là: thường thì tất cả các tin quân sự đều thất thiệt một cách cố ý), con tàu không vòng qua mũi Hảo Vọng và Ấn Độ Dương, mà qua Đại Tây Dương, vùng biển Caribê, qua kênh đào Panama, rồi băng qua Thái Bình Dương về Việt Nam, hiển nhiên là tận dụng con đường có gió Mậu Dịch.

Hải hành từ Ba Lan về Việt Nam mất 120 ngày, trãi qua 33.800 cây số. Đáng xấu hổ thay, đó là hành trình dài nhất từng được hoàn tất bởi Hải quân Việt Nam, chưa một con tàu nào khác đi xa hơn thế!

Bên cạnh xuồng, bè cứu sinh hiện đại, tàu Lê Quý Đôn còn có 4 chiếc ca nô nhỏ, mỗi chiếc được trang bị mái chèo, và 2 cột buồm để huấn luyện cách dùng buồm. Thực sự, tôi đang cảm thấy ghen tị với những ai được huấn luyện trên một con tàu như thế! Xem thêm video về con tàu dưới đây!

paddle on, paddle still

張旭
清溪泛舟

旅人倚征棹
薄暮起勞歌
笑攬清溪月
清輝不厭多

Tiếp tục công cuộc thuyền bè và chèo chống… Nhớ lại cách đây mới khoảng 3 năm, chèo thuyền ngang qua con sông rộng chừng 300 m là đã có cảm giác: như con chim non nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ, đến nay thì 30 km (100 lần nhiều hơn thế) băng qua cửa biển rộng mênh mông, làm một phát không phải nháy mắt!

Nhưng từ đây lên đến 3000 km vẫn còn… 100 lần nhiều hơn thế nữa. Con đường còn xa, xa ngái, Xuyên à! Thôi thì cứ giả vờ như cái “sự nghiệp rong chơi” này nó nhàn nhã, tiêu dao lắm, mà ngâm câu thơ rằng: Lữ khách nhàn trên thuyền gác mái, Trong chiều tàn khởi hát dân ca. Mỉm cười vốc ánh trăng ngà, Ngắm hoài không chán bao la suối rừng.

Khởi động trở lại chế độ mỗi tuần 3 buổi tập, mỗi buổi 20 ~ 25 km như trước. 50 ngày đi xuyên Việt xe máy thì có tí vất vả, nhưng chẳng rèn luyện được sức bền như chèo thuyền chút nào. Thực ra ít có môn chơi nào đã gian khổ lại nguy hiểm như… chèo thuyền! Cố gắng lấy lại phong độ nhanh chóng, bao nhiêu “phiêu lưu” dự tính đang đợi chờ tôi ở phía trước!

Mùa này ở Sài Gòn, người ta bắt đầu chơi thả diều, tức là đã có gió, rất nhiều gió, nhất là ở trên sông, mãi cho đến tận tháng 4, tháng 5. Cũng là thêm một điều hay khi đi chèo thuyền. Dù nước ngược hay gió ngược, dù sóng to hay phẳng lặng, dù thế nào thì con thuyền vẫn luôn phải “tinh tấn” tiến lên phía trước! Không có gì “ẩn dụ” cho cuộc sống hay hơn thế!

tiếng đàn tôi

Mênh mông lả ơi, người về xoã tóc không lời.
Khoan khoan hò ơi, nhịp sầu xa vắng mà thôi.
Mênh mông lả ơi, đường về xa tắp không lời.
Khoan khoan hò ơi, lạnh lùng em đã rời tôi.

Ghi ra đây một chuyện thú vị trong chuyến xuyên Việt vừa qua. Thoáng nghe một bà lão (chừng trên 70 tuổi) vừa rửa chén bát, vừa hát bài này ở thành phố Điện Biên Phủ. Dừng xe lại, đúng vào cái khúc: mênh mông lả ơi ấy, và giả vờ hỏi: cụ ơi, cụ đang hát bài gì thế ạ!?, thì nhận được câu trả lời: tôi cũng không nhớ đâu, chỉ hát chơi thế thôi!

Tiếng đàn tôi - Quỳnh Giao 
Tiếng đàn tôi - Thái Hiền 

Cái thú vị là ở chỗ, nghe được một điệu dân ca rất xa xưa, lồng trong một ca khúc cũng đã khá xa xưa, được hát bởi một người cũng đã vào tuổi “xưa nay hiếm”. Và người trình diễn cũng chỉ nhớ và hát nó hoàn toàn tình cờ, thậm chí không còn biết đến tựa đề hay tác giả. Cái sự đi vào lòng người, thấm vào trong tiềm thức, thành công của âm nhạc chính là ở chỗ đó.

Tôi cũng không biết là bài này được phát triển từ điệu dân ca nào, nhưng NS Phạm Duy hẳn là sẽ mỉm cười khi biết chuyện thế này! Nghe thêm cụ Phạm Ngọc Lân đàn và hát bài này dưới đây, và hát đầy đủ cả 2 lời của ca khúc. Còn có thêm một lời ca nữa: Xuân Hương nàng ơi, thuyền về tới bến mê rồi, nhưng lời đó thì chỉ có NS Phạm Duy mới biết mà thôi!

Tiện nói luôn, lặp lại một số điệu phổ biến, kiểu: tình tang nọn tàng tinh, tính tang nọn tang tình (Lý ngựa ô Huế) mà gọi là hiểu dân ca thì… nực cười lắm, cái đó mới gọi là học vẹt thôi. Hiểu thực sự là nắm được những thể phát triển từ dân ca, lần theo được những biến hoá tinh vi của nó. Đó cũng là lý do tại sao các nhạc sĩ hiện đại không sáng tác được dân ca (học vẹt).

Tiếng đàn tôi – Phạm Duy

Đời lạnh lùng trôi theo giòng nước mắt, với bao tiếng tơ xót thương người. Vì cuộc tình đã chết một đêm nao, lúc trăng hãy còn thơ ấu.

Dù đời tàn trên cánh nhạc chơi vơi, vẫn còn mong nhớ khúc yêu đời. Lúc bao nhiêu tiếng cười, rộn ràng chảy về xuôi.

1. Mênh mông lả ơi, thuyền về tới bến mê rồi, khoan khoan hò ơi, dặt dìu trong tiếng đàn tôi. Mênh mông lả ơi, thuyền về bát ngát hương trời, khoan khoan hò ơi, nhịp sầu xa vắng mà thôi!

Buồm về dội nắng trên khơi, bao nhiêu hoàng hôn đến cho êm vui người ơi! Có tiếng hát theo đàn tôi, như ru như thương linh hồn đắm đuối. Mênh mông lả ơi, thuyền chờ mong gió lên trời, mang theo đàn tôi chảy về đậu bến ngày mai.

2. Mênh mông lả ơi, đường về dương thế xa vời. Khoan khoan hò ơi, lệ sầu rụng xuống đàn tôi. Mênh mông lả ơi, người về xoã tóc không lời. Khoan khoan hò ơi, nhịp sầu xa vắng mà thôi.

Buồm về dội nắng trên khơi, bao nhiêu màu hoa ngát trên đôi môi, người ơi! Có tiếng hát theo đàn tôi, như ru như thương linh hồn đắm đuối. Mênh mông lả ơi, đường về xa tắp không lời. Khoan khoan hò ơi, lạnh lùng em đã rời tôi.

serene – 1, part 27

Final entry of the Serene – 1 series. There wouldn’t be any major updates, add – ons for the kayak since most everything is completed, and I need to shift my times and efforts into some higher – priority tasks. In a sense, an important milestone has been reached, the designing, building and equipping of my newest beloved kayak. A fascinating process at the beginning of which, I didn’t even think I could make it, and I didn’t know where it would lead to, a nice useful watercraft, or… a disaster!

Serene – 1 is the best kayak of mine until now, outperforms all others in term of performance, lightweight and agile, pretty much fast, with some sacrifice in primary stability. Yet, it is not without some weak points that could be further improved, and that would be the concerns of my next boat project (still have no plan for that at the moment). I’d tried to get out with the best design, the best building as I could, learning lots of new things about a hull’s hydrostatics and hydrodynamics along the way.

But let me make a clear point about this, even the best cruising hull, the best equipments won’t improve your mileage by 15 ~ 20 percent, for a whole – day paddling. After all, it’s you, your horse – power output, your determination and physical endurance, which are the factors that could make a key difference. To be honest, sometimes, I have a strange self – satirising feeling that I’m quite like Popeye, the Sailor man cartoon character, especially before embarking on some longer journey!

Serene – 1 p1
Serene – 1 p2
Serene – 1 p3
Serene – 1 p4

Where to go from here, now!? I have so many ideas on boat and boat – building, so much that I fear that I wouldn’t have enough time to carry them out all. But sometimes, I should be pleased with what I’m having, me, a nice little boat, and the immense water space to indulge myself in!

Time on water is the time well spent, constant hard struggles, always keep a cautious eye on wave, wind and weather, be prepared for bad things, and reserve the other eye to enjoy the many different shades, different faces of the water. That’s truly serene for my mind then!

serene – 1, part 21

It’s good to see every parts of the boat work as intended. The hatches are completely watertight. When I left the hull out under afternoon sunlight for an hour for it to dry, the air inside warms up and expands, when I open the hatches, I can hear the sound of escaping air. That confirms not only the hatches, but the whole hull is airtight, and so they are obviously watertight. Then carrying gears inside could be housed with minimum protection against water (e.g: some normal plastic bags).

For the last two weeks, I only tested the boat on flat water, small river branches which are calm most of the time. Next would be some longer and rougher paddling. Been too busy lately and couldn’t keep up the planned pace of at least 40 km per week, and so my endurance has been falling drastically! Also, I’m quite lazy at video shooting and editing, after all, you can’t make it as good as a professional cameraman, and upto one point, you don’t see a necessity for much showing off any more.

Sometimes, I wish I could just put everything aside, pick up the paddle and go, go light and go now! Nothing comparable to the paddling experiences, you and only you in the wild, and you don’t have to depend much on those delicate electronics to have a joyful journey, they’re just some more burdens. So maybe I my next trip, I would just leave the GoPro at home, a single small still – camera is stilled needed though. 4th image below: can only be happy when in open air and on bobbing water!

Serene – 1 p1
Serene – 1 p2
Serene – 1 p3
Serene – 1 p4

With that “go light” determination in mind, all next fittings, equipments for the kayak would be kept to the minimum and simplest possible. The boat is now lightweight enough, I don’t need to carry the kayak cart along my trips anymore. If required, I would just port the boat on my back.

There’ll be no seat, just a small block of foam used as the back rest. Also no signal pole, just some head – mounted lights I guess. No marine compass fit on deck as originally planned, I would just use the Garmin instead (plus a tiny hand – held magnetic compass as backup).