neo – analog

It has been in my mind for quite a long time, the coined term of neo analog, just like neo classical, neo colonial, neo nazi… Starting from Kindle, I love the idea of an e – book reader with e – ink display which mimics traditional reading material (no more developing on Kindle, gave it to my sister already). Then came the interesting concept of Livescribe, the smart pen that records your hand writing & drawing, then this latest “toy”, a vinyl disc player.

Trường ca Hội Trùng Dương 
(Thái Thanh & hợp ca Thăng Long)

I’ve been making a small collection of Vietnamese oldies on vinyl discs, which are really hard to find at the moment. This is an entry – level turntable that can be connected to PC via USB cable. The sound can be captured into digital format as the analog device is being played. Images on the left: the turntable connected to PC, and recording with Audacity on my Ubuntu laptop. I’m digitalizing the lovely songs from the 2 discs brought back from my last trip to Dalat.

Every motivation that makes a man do something can be classified under: survival, social life and entertainment. Progress is defined as reaching a higher category: not doing a thing merely for survival, but for social reasons, and then, even better, just for fun. (Linus Torvalds’ law)

For the time being, I still can not refine the sound quality recorded via USB on this Ubuntu laptop, though the really aging discs still produce good sound with speakers. Would post the music samples once they are done, the very early recordings of outstanding Vietnamese masterpieces!

Updated Oct, 27th

Let listen to the beautiful music on the margin. What’s next on neo analog!? Something would be mentioned in one of my next blog post!


đà lạt – 2011

Vật vạ chập chờn ngủ trong lúc xe âm thầm leo dốc, mỗi lúc tai cảm thấy ù ù là biết đã lên thêm một cao độ đáng kể nữa… Mở mắt trông ra những con phố, những trảng rừng lẩn khuất trong sương, qua hết một quãng mù lại hiện ra bầu trời đêm trong veo với hàng ngàn đốm sao lung linh, cứ như thế lặp lại nhiều lần. Nhìn thời khí đoán biết những ngày đến, trời sẽ trong, mát và ít mưa… tiết trời lý tưởng cho một chuyến đi. Nhà xe mở một đĩa nhạc không lời, âm lượng nhỏ thật nhỏ, chập chờn trong giấc ngủ vẫn mỉm cười vì sự tình cờ thú vị, lại được nghe cái giai điệu thượng du miền ngược đầy mê hoặc của Nhạc sầu tương tư giữa chốn này.

Suy nghĩ bổng dưng không còn dùng tiếng Việt, nào là lý trí và logic trong nghệ thuật, nào là đức tin và lý tính thuần túy (Immanuel Kant), nào là duy danh và duy thực (norminalism & realism), nào là tiên nghiệm và hậu nghiệm (a priori & a posteriori)… Những vấn đề từ lâu chẳng còn mấy quan tâm, cũng đã bước qua những “khung cửa hẹp” ấy một đôi lần. Sao còn có người băn khoăn và gợi lên những câu hỏi đó nhỉ, lại thêm một cái mỉm cười trong giấc ngủ. Dù sao thì còn có người quan tâm những điều như thế cũng tốt, những người dám bắt đầu bước đi trên con đường của riêng mình. Tâm trí cứ phiêu du miền metaphysics cho đến khi trời ửng sáng.

Qua hết đèo Prenn là vào thành phố, bước xuống xe vẫn còn chưa thấm hơi giá lạnh, nhưng khi chiếc phone cần đến 2, 3 cái touch để bắt đầu hoạt động đúng thì biết ngay là thời khí đã thay đổi, vội khoác lên người thêm chiếc áo gió. Đây rồi cái không gian để sống cho riêng mình, tạm bỏ lại sau lưng một nơi mà người người sống vì những giá trị của kẻ khác, vì những hình bóng trong mắt người khác, chẳng mấy ai có ý thức và khả năng theo đuổi những giá trị cá nhân tự thân. Nơi ấy người ta vẫn tiếp tục tự huyễn hoặc mình và huyễn hoặc nhau bằng những chuyện giả dối tầm phào… Biết bao nhiêu lần một nụ cười khinh thị thoáng hiện trên môi.

Những góc phố cũ kỹ đầy rêu và hoa, ly cafe bốc khói, những câu chuyện luôn dở dang với một vài người bạn cũ. Những bài nhạc Pháp dễ thương ở quán Tùng, ly da – ua đậm mùi “sữa”, một loại “sữa” còn sót lại từ thời bao cấp chỉ toàn có mùi đường và bột. Tối tối lại ghé qua Cung Tơ Chiều cùng hát với chị chủ quán 2, 3 bài. Giọng hát ấy trầm đục, không liêu trai mà luyến láy đầy cảm xúc. Chưa khi nào tôi hát Thuyền viễn xứ say sưa đến thế. Thật tội nghiệp, chỉ có hai người biết với nhau tại sao “Những đồi hoa sim” (Dũng Chinh) và “Áo anh sứt chỉ đường tà” (Phạm Duy) chẳng thể đi chung đường, tại sao vẫn phải nhìn thính giả bằng ánh mắt nửa buồn nửa vui lẫn lộn…

Nhưng “thu hoạch” lớn nhất của chuyến đi này là hai chiếc đĩa than ghi âm tiếng hát Thái Thanh và hợp ca Thăng Long (xem 4 bức hình chụp bên đây), trong đó có đủ 3 bản: Tiếng sông Hồng, Tiếng sông Hương và Tiếng sông Cửu Long của trường ca Hội Trùng Dương. Những thu âm rất lạ: hòa âm và hát bè không giống bất kỳ thu âm Hội Trùng Dương nào tôi đã từng nghe trước đây! Cầm trên tay hai chiếc đĩa microsillon mà không dấu được sự xúc động, đây là bản gốc của những nhạc phẩm: từng làm rung cảm cả một dân tộc, thấm sâu vào lòng đất nước và tạo thành danh, đây là âm thanh nguyên thủy của tiếng hát trên trời: Thái Thanh!




johnny guitar

Một bản nhạc để nghe trong lúc làm việc, vừa đủ hay để vỗ về cái lỗ tai, vừa đủ đơn giản để không phải phân tâm nhiều: Johnny Guitar… Bài nhạc một thời rất phổ biến với lời Việt:

Đàn trong đêm vắng – Tuấn Ngọc 

Đàn trong đêm vắng, dường như thầm nhắc, bóng ai xa rồi. Về đây người hỡi, hàn lại duyên cũ xa vời. Nhạc còn lắng, sao người vẫn theo mây gió ngàn, lúc đêm vắng, ta thầm nhớ bóng hình ai…

trường ca hòn vọng phu, 2



Tôi muốn được nghe một loại nhạc Việt như thế này!!!

Bản nhạc thuộc top những bài thường nghe trên iPod của tôi thời gian gần đây, là một bài rất cũ nhưng mang một trình bày rất mới, một bài mang âm điệu dân ca “bình dị, thân thuộc” nhưng là trường ca mang tính sử thi kỳ vĩ nhất của Tân nhạc. Cách đây đã khá nhiều năm, tôi từng mơ ước được nghe trường ca Hòn Vọng Phu trình diễn, phát triển, biến tấu… bởi một dàn nhạc lớn thật lớn, vì tầm vóc bản nhạc không phải ở mức một “khúc hát ru con” bình thường.

Nhạc trưởng Lê Văn Khoa đã soạn lại Trường ca Hòn Vọng Phu cho dàn nhạc và đồng ca dựa trên căn bản hòa âm ban đầu của tác giả Lê Thương, nhiều đoạn nghe rất thấm! Là một chiếc bình mới đẹp cho món rượu cũ, một loại rượu lâu năm, càng lúc càng hiếm và có giá. Nếu như âm nhạc đương đại có nhiều yếu tố mới, kỹ thuật hiện đại, hòa âm tốt, thu âm hoàn hảo bao nhiêu thì về tính tự tin trong sáng tác càng kém tiền nhân bấy nhiêu!

Hòn vọng phu 1: Đoàn người ra đi

Hòn vọng phu 2: Ai xuôi vạn lý

Hòn vọng phu 3: Người chinh phu về

nếu một mai em sẽ qua đời

Nếu một mai em đốt pháo vui, hát theo người,
hương cưới chia phôi, cười mặn tình đời…

Tiếp theo post trước (không mọi người lại bảo mình chỉ biết thần tượng cái cũ) hai bản nhạc Phạm Duy được ca sĩ Nguyên Thảo thể hiện rất đạt: Nếu một mai em sẽ qua đờiHoa rụng ven sông. Một chữ “đạt” thế mà không dễ, những người già, họ thường bảo những lớp Thái Thanh, Khánh Ly… ngày xưa đâu có bài bản trường lớp bao nhiêu đâu mà lại hát đạt đến vậy.

Âm nhạc Việt (cũng như tất cả những “yếu tố Việt” khác) đều mang đậm tính tự phát, ngẫu hứng, có nhiều cái “không biết phải nói làm sao”, có nhiều điều “nhìn vậy mà không phải vậy”. Nên trường lớp là yếu tố cần nhưng chưa đủ. Không kể những thảm họa nhạc Việt, những loại nhạc thị trường, những loại easy listening… ngay trong những ca sĩ trường lớp & thành danh hiện tại, tôi cũng hơi sợ những người chưa cảm được âm nhạc của tác giả mà đã cố gắng đưa “cái tôi” rất chi ~!@#$%^&*() của mình vào trong tác phẩm!

chỉ chừng đó thôi

Khi xưa em gầy gò, đi ngang qua nhà thờ.
Trông như con mèo khờ, chờ bàn tay nâng đỡ.
Ta yêu em tình cờ, như cơn mưa đầu mùa…

Người hát nhạc Phạm Duy tốt nhất hiện tại có lẽ là ca sĩ Nguyên Thảo. Như nhận xét của một người chuyên môn trong cuộc cách đây đã nhiều năm: Nguyên Thảo rất hợp hát nhạc PD, tiếc rằng cô không có đam mê ấy… đến nay thì nhận xét ấy có lẽ chỉ còn đúng được nữa đầu. Không bài bản, trường lớp như các diva Hồng Nhung, Mỹ Linh… cũng không hẳn đã có một chất giọng, một phong cách riêng, nhưng Nguyên Thảo có một lối hát tự nhiên đầy cảm xúc thể hiện được cảm nhận của ca sĩ về bản nhạc.

Chỉ chừng đó thôi – Nguyên Thảo 

Ví như những tác phẩm Phạm Duy mang rõ nét phong cách Tây phương: Nghìn trùng xa cách, Tình ca… được ca sĩ Mỹ Linh thể hiện rất đạt, thì với những bản mang âm hưởng dân ca, Mỹ Linh ít thành công hơn nhiều, và hình như đó là mẫu số chung của đa số các ca sĩ hiện tại: Quang Dũng, Đức Tuấn, Ánh Tuyết, Quang Linh… Trái lại Nguyên Thảo lại rất có duyên với những cảm xúc tinh tế, phức tạp trong những cung bậc ngũ cung Phạm Duy.

đôi mắt người sơn tây, 2

Tác giả của: Tây Tiến, Đôi bờ, Đôi mắt người Sơn Tây, Mây đầu ô, Quán bên đường

Bản nhạc không ngưng trở đi trở lại gây nên trong tôi những cảm xúc khó tả… Từ lần nghe đầu qua giọng ca chính tác giả Phạm Đình Chương – Hoài Bắc, đến những trình bày khác sau này, vẫn bàng bạc cái tâm trạng: thoáng hiện em về trong đáy cốc, nói cười như chuyện một đêm mơ. Có lẻ trong tâm tưởng mỗi con người, mỗi nghệ sĩ đều phảng phất đâu đó một không gian tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm, một cõi xa vời đầy chất tưởng tượng huyễn hoặc, đã từng (hay chưa từng?) tồn tại, un paradis perdu – một thiên đường đã mất.

Đôi mắt người Sơn Tây - Hoài Bắc 
Đôi mắt người Sơn Tây - Thái Thanh 
Đôi mắt người Sơn Tây - Bích Liên 

Có nhiều người đã thể hiện ca khúc này, từ chính tác giả Phạm Đình Chương, bác sĩ Bích Liên, đến ca sĩ Quỳnh Giao. Nhưng hay nhất có lẽ vẫn là NGƯỜI ĐÀN BÀ HÁT – Thái Thanh, đây là bản thu âm lúc bà còn trẻ, khi chất giọng hãy còn căng đầy những luyến láy, những thăng giáng tinh tế. Hãy nghe lại giọng ca của bà, một loại tiếng Việt đã “tuyệt chủng”, hãy nghe để thấy tiếng Việt ngày nay đã trở nên nhanh hơn, phẳng hơn, truyền tải nhiều thông tin hơn, và ít nội dung hơn, phần nhiều là những loại ôm rách nát không tâm linh, ôm tiếng hát không hơi rung nghèo nàn.

ngọc lan

Ngọc lan, bản nhạc hoàn hảo trên mọi góc độ, từ giai điệu, ca từ cho đến trình bày, hòa âm… Khi xưa nhà có một băng nhạc (loại Maxell màu nhũ vàng) mà ai đó đã khéo léo sắp bài này chung với: Nguyệt cầm, Tiếng dương cầm, Hương xưa, Hoài cảm, Đêm ngắn tình dài… tạo nên một không khí rất chi thanh tân, cổ điển cho suốt 90 phút nghe. Giờ thì biết là cũng chỉ loanh quanh trong những tác giả như: Vũ Thành, Văn Phụng, Cung Tiến, Dương Thiệu Tước…

Ngọc lan - Thái Thanh 
Ngọc lan - Quỳnh Giao 

Ai đã trót mê Thái Thanh thì khó có thể thấy ai hát hay hơn bà (dù Quỳnh Giao, Mai Hương, Kim Tước đôi khi có những trình diễn thật sự rất riêng biệt). Nhưng những năm gần đây, chẳng mấy khi nghe bài này mà thấy hay… một dấu hiệu xuống cấp của cái tai nhạc.

cô gánh gạo

Yêu thích bài Cô gánh gạo này từ lâu nhưng gần đây mới biết đó chỉ là lời khác của ca khúc Người lính bên tê, một bài “tuyên truyền địch vận” sáng tác mãi từ năm 1947: Bên tê là phía sầu u, có người dân Việt, gục đầu trên đất tù, bên ni là phía tự do, đã nhờ Cha già, mà toàn dân ấm no… Anh ơi quay súng lại ngay, máu người dân Việt còn cần cho luống cày. Tôi mong từng phút từng giây, sống chẳng oán thù để chờ anh tới đây!

Cô gánh gạo – Thái Thanh 
Người lính bên tê – Thái Hiền 

Sau khi “dinh tê về thành”, nhạc sĩ Phạm Duy đã đặt lời mới cho rất nhiều ca khúc đã sáng tác trước đó, không phải chỉ riêng một bài này. Cũng bài này, NS Phạm Duy còn có một lời ca “cưa gái” như sau: bên tê là phía thùy dương, có một cô nàng chải đầu bên suối vàng, ta mong dòng nước tràn dâng, bắc một cây đàn để chờ em bước sang…

Bao thể chế đổi thay, nhưng dân tộc thì vẫn còn, cũng như bao lời ca đổi thay, nhưng giai điệu thì vẫn thế! Một nền âm nhạc với đa số là ca khúc thì dĩ nhiên ca từ hay cũng quan trọng. Nhưng ai đó cứ vin vào ca từ mà không có được sự thẩm âm cần thiết thì thật là chưa hiểu âm nhạc vậy!

hợp ca thăng long

Hợp ca Thăng Long, cũng có thể gọi là ban nhạc của gia đình họ Phạm với linh hồn là nhạc sĩ Phạm Đình Chương (Hoài Bắc), Phạm Đình Viêm (Hoài Trung), Phạm Thị Băng Thanh (Thái Thanh), Phạm Thị Quang Thái (Thái Hằng), Khánh Ngọc, ngoài ra còn có sự góp mặt của nhạc sĩ Phạm Duy và nhiều người khác… (NS Phạm Duy cũng đã định lấy nghệ danh là… “Hoài Nghi” để được cùng một tông với Hoài Trung, Hoài Bắc…)

Xóm đêm - Hợp ca Thăng Long 
Những bước chân âm thầm - Hợp ca Thăng Long 

Thành lập năm 1951 tại Sài Gòn, ban nhạc của phòng trà Đêm Màu Hồng này quy tụ những nghệ sĩ tài danh bậc nhất đương thời, và lưu lại cho chúng ta đến ngày hôm nay nhiều tác phẩm đánh dấu các giai đoạn khác nhau của lịch sử và âm nhạc Việt.

Điều tôi rất thích khi nghe hợp ca Thăng Long không phải chỉ là các sáng tác, những giọng ca hàng đầu, mà còn là phần hòa âm phối khí tương đối công phu (so với đương thời), điều dể nhận ra khi nghe lại Sơn ca 10, cũng là điều hiếm thấy ở các ban nhạc cùng thời khác. Tất cả gộp lại thành vị trí duy nhất của hợp ca Thăng Long trong lịch sử Tân nhạc!

chiều về trên sông

Chiều buông trên dòng sông cuốn mau,
Thương đời thương lẫn nhau trong chiều.
Về đây bọt bèo muôn khắp nơi,
Vui buồn cho có đôi không nhiều…

Dù từ nhỏ đã không xa lạ gì với nhạc Phạm Duy nhưng đôi khi, nhiều ca khúc của ông vẫn gây cho tôi cảm giác sửng sờ đến kinh ngạc. Nhạc Phạm Duy và giọng ca Thái Thanh, một composer, một performer mà trăm năm trước, nhiều trăm năm sau nhạc Việt sẽ không thể nào có lại được!

Chiều về trên sông không hẳn là tác phẩm hay nhất của nhạc sĩ Phạm Duy, nhưng là một giai điệu rất dể đồng cảm: nửa Tây phương, nửa Đông phương, gây nên cảm giác u buồn nhưng thanh thản, lửng lơ, yểu điệu (đúng như ca từ bài hát).

Chiều về trên sông - Thái Thanh 
Chiều về trên sông - Quỳnh Giao 

Cũng như thế, tiếng hát Thái Thanh không hẳn là một giọng ca gần gũi dễ nghe (“tiếng hát trên trời”), nên Quỳnh Giao sẽ dể đi vào lòng thính giả hơn với ca khúc này.

dạ lai hương

Đêm thơm không phải từ hoa,
Mà bởi vì ta thiết tha tình yêu thái hòa…

Một bài hát nói thay cho tâm trạng… trong dòng đời mải mê, quay cuồng chảy, cần nhiều những quãng lặng như thế này để tự nghiệm lại chính mình, để vẫn thấy một cõi lòng không cũ kỹ và cằn cỗi: …đời ngon như men say, tình lên phơi phới, đẹp duyên người sống cho người, đời vui như ong bay, ngọt lên cây trái, góp chung mạch sống lâu dài…

Dạ lai hương - Thái Thanh 
Dạ lai hương - Quỳnh Giao 

Những giai điệu tuyệt vời như Kỷ niệmDạ lai hương… những cảm xúc tạm gọi bằng cái tên Tĩnh dạ tư. Về loài hoa Dạ lai hương, không phải là Dạ Lan Hương như vẫn thường được gọi, loài hoa hằng đêm vẫn tỏa hương trước hiên nhà.

bài thơ đầu tiên

Bài thơ đầu tiên tôi thuộc, một cái học thuộc lòng “cưỡng bức”, trước khi biết đọc, biết viết. Ngay cả trước khi biết nói cho rành mạch, rõ ràng thì tôi đã nằm lòng hơn trăm câu của Chế Lan Viên này. Đơn giản là từ lúc nằm nôi thì tôi đã được (bị) ru bằng bài thơ này mỗi ngày, đến nỗi thuộc như cháo lúc nào không hay, ví dụ như: Ôi Trường Sơn vĩ đại của ta ơi, Ta tựa vào ngươi kéo pháo lên đồi… hoặc là: Ôi thương thay những thế kỷ thiếu anh hùng, Những đất nước thiếu người cầm thanh gươm nghìn cân ra trận…

Bản dưới đây là chép lại theo trí nhớ của tôi nên có đôi chỗ khác biệt với bản hiện đang phổ biến lưu hành. Đó là chuyện của một thời (một thế hệ) đầy lý tưởng (ảo tưởng!?), còn đây là chuyện của thời bây giờ, đề thi Văn năm nay nên ra như thế này:

Hãy điền chữ còn thiếu vào đoạn thơ sau
(liệu hồn mà điền cho đúng):

Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm,
Tổ quốc có bao giờ …… thế này chăng?

Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng – Chế Lan Viên

Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?
Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất,
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành Văn.
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng.

Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả,
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn.
Trái cây rơi vào áo người hứng quả,
Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn,
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ,
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn.

Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời,
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa.
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời,
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ,
Văn Chiêu Hồn từng thấm giọt mưa rơi!

Có phải cha ông đến sớm chăng và cháu con thì lại chậm?
Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được sống phút giây này.
Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng,
Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ.
Thịt xương ta, giặc phơi ngoài bãi bắn.
Lại tái sinh từ Pắc Bó, Ba Tơ.

Không ai có thể ngủ yên trong đời chật,
Buổi thủy triều vẫy gọi những vầng trăng.
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt,
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm.
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt,
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng.

Ôi Trường Sơn vĩ đại của ta ơi!
Ta tựa vào ngươi, kéo pháo lên đồi.
Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát,
Dưới chân ta, đến đầu hàng Đờ-cát.
Rồng năm móng vua quan thành bụi đất,
Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười!
Đều lộng hương thơm những cánh đồng hợp tác
Chim cu gù, chim cu gáy xa xa.
Ruộng đoàn tụ nên người thôi chia cách,
Đêm no ấm, giọng chèo khuya khoan nhặt,
Lúa hên mùa xin lúa chín về quê ta.

Rồi với đôi bàn tay trắng từ Đinh, Lý, Trần, Lê…
Đảng làm nên công nghiệp.
Điện trời ta là sóng nước sông Hồng.
An Dương Vương hãy dậy cùng ta xây sắt thép,
Loa thành này có đẹp mắt Người chăng?
Ong bay nhà khu tỉnh ủy Hưng Yên,
Mật đồng bằng mùa nhãn ngọt môi em,
Cây xanh ngắt đất bạc mầu Vĩnh Phúc.

Ôi cái thuở lòng ta yêu Tổ quốc,
Hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên?
Ôi cái buổi sinh thành và tái tạo,
Khi thiếu súng, khi thì thiếu gạo,
Nhưng phù sa này đẻ ra những Cà Mau,
Thịnh vượng mai sau.

Dẫu là Chúa cũng sinh từ ruột máu,
Ta đẻ ra đời, sao khỏi những cơn đau?
Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!
Ôi thương thay những thế kỷ thiếu anh hùng,
Những đất nước thiếu người cầm thanh gươm nghìn cân ra trận,
Nhà thơ sinh đồng thời với mưa phùn và những buổi hoàng hôn.
Cả đất nước trắng một màu mây trắng,
Ai biết mây trên trời buồn hơn hay thơ mặt đất buồn hơn?

Chọn thời mà sống chăng? Ta phải chọn vào năm nào đây nhỉ?
Cho tôi sinh ra vào giữa buổi Đảng dựng xây đời,
Mắt được thấy dòng sông ra gặp bể,
Ta với mẻ thép gang đầu làm đứa trẻ sinh đôi,
Nguyễn Văn Trỗi ra đi còn dạy chúng ta cười.
Cho tôi sinh ra giữa những ngày diệt Mỹ,
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy,
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.

tình ca, 2

…Tiếng nước tôi,
bốn ngàn năm ròng rã buồn vui,
khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!

Lâu lâu nghe lại những bản nhạc kinh điển một chút. Cách đây vài năm trên Wikipedia tiếng Việt còn tranh cãi Tình ca nào phải của NS Phạm Duy, mà là của NS Hoàng Việt. Nếu Tình ca Hoàng Việt là một tình khúc “đỏ” rất hay thì Tình ca Phạm Duy, ở một mức độ phổ quát hơn, là bản tuyên ngôn tuyệt vời nhất cho cái gọi là bản sắc Việt! Trình bày của Thái Thanh dưới đây có tempo khá chậm, những ai muốn một thể hiện hiện đại hơn có thể nghe Mỹ Linh bên đây.

Tình ca - Thái Thanh - 1969 
Tình ca - Thái Thanh 
Tình ca - Mỹ Linh 
Tình ca - Nguyễn Đình Nghĩa 

Hàng chục năm trở về trước, khi tôi giới thiệu bài này với bạn bè mình, họ đã không hiểu được phần nhạc và cả phần lời của bài này, nhìn nó với con mắt lạ lẫm, nghi hoặc. Sau khi nhạc sĩ Phạm Duy trở về nước, sau khi nhiều đài, báo đã cho âm nhạc Phạm Duy một sự “bảo đảm” nhất định, thì họ có vẻ “hiểu” bài này hơn. Nên dĩ nhiên đến tận bây giờ tôi vẫn không cho là như thế!

Tình ca – Phạm Duy

Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời, người ơi. Mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi, tiếng ru muôn đời. Tiếng nước tôi, bốn ngàn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi. Tiếng nước tôi, tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi, thoắt ngàn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi. Tôi yêu tiếng ngang trời, những câu hò giận hờn không nguôi. Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi, vững tin vào mộng đẹp ngày mai.

Một yêu câu hát truyện Kiều lẳng lơ, như tiếng sáo diều (diều) làng ta. Và yêu cô gái bên nhà miệng xinh, ăn nói mặn mà (mà) có duyên.

Tôi yêu đất nước tôi, nằm phơi phới bên bờ biển xanh. Ruộng đồng vun sóng ra Thái Bình, nhìn trùng dương hát câu no lành. Đất nước tôi, dãy Trường Sơn ẩn bóng hoàng hôn. Đất miền Tây chờ sức người vươn, đất ơi. Đất nước tôi, núi rừng cao miền Bắc lửa thiêng. Lúa miền Nam chờ gió mùa lên, lúa ơi.

Tôi yêu những sông trường. Biết ái tình ở dòng sông Hương. Sống no đầy là nhờ Cửu Long. Máu sông Hồng đỏ vì chờ mong.

Người yêu thế giới mịt mùng cùng tôi ôm ấp ruộng đồng (ừ đồng) Việt Nam. Làm sao chắp cánh chim ngàn, nhìn Trung Nam Bắc kết hàng (là hàng) mến nhau.

Tôi yêu bác nông phu, đội sương nắng bên bờ ruộng sâu. Vài ngàn năm đứng trên đất nghèo. Mình đồng da sắt không phai mầu. Tấm áo nâu, những mẹ quê chỉ biết cần lao, những trẻ quê bạn với đàn trâu, áo ơi. Tấm áo nâu, rướn mình đi từ cõi rừng cao, dắt dìu nhau vào đến Cà Mâu, áo ơi.

Tôi yêu biết bao người, Lý, Lê, Trần… và còn ai nữa, những anh hùng của thời xa xưa, những anh hùng của một ngày mai.

Vì yêu, yêu nước, yêu nòi, ngày xuân tôi hát nên bài (ư bài) tình ca. Ruộng xanh tươi tốt quê nhà, lòng tôi đã nở như là (là) đóa hoa.

cq – 88

Bức tranh này do cậu bé TKXuyên vẽ năm 1988, màu nước trên giấy, hiện vẫn treo trong phòng làm việc của mình (mọi người đừng cười một người chưa bao giờ có khiếu vẽ vời gì dù chỉ là một chút xíu). Dĩ nhiên là tôi còn nhớ rất rõ là vẽ vì những lý do gì, trong bối cảnh như thế nào. Mọi người hẳn chưa thể nào quên sự kiện CQ – 88 mà ngay cả một cậu bé 9 tuổi là tôi lúc bấy giờ cũng từng ngày dõi theo. Nghĩ mà buồn, đến nay hơn 20 năm rồi mà mọi chuyện vẫn thế. Dòng chữ đề trong bức tranh: Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ, Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong, cụ Nguyễn Công Trứ có sống lại mà nhìn bối cảnh bây giờ…

thôi

Ôi cuộc đời, đầy phong ba giữa lòng người…
Ly rượu này, đầy thương đau tấm hình hài…

Khi xưa thích bài này, nhưng có lẽ là do giọng ca Thái Thanh mà thôi…

Báo Thanh Niên gần đây có loạt bài là lạ: Những bóng hồng trong thơ nhạc, đầu tiên là về ca khúc Ngày xưa Hoàng thị, về những bài thơ của Phạm Thiên Thư đã được NS Phạm Duy phổ nhạc, tiếp theo đó là bài viết về ca sĩ Thanh Thúy, một trường hợp rất đặc biệt trong làng nhạc cũ. Chờ xem bài tiếp theo trong serie là về ai! Cá nhân tôi thì không ấn tượng đặc biệt lắm với giọng ca cũng như thể loại nhạc của ca sĩ Thanh Thúy (dù rất cảm cái chân thành, tự nhiên, “mộc” đến mức… “liêu trai” của bà).

Thôi – Thái Thanh 

Ca sĩ Thanh Thúy được gọi là “tình yêu của nguyên cả một thế hệ”, “người trong mộng” của không biết bao nhiêu là nhân vật trong giới văn nghệ sĩ đương thời: Trúc Phương, Trịnh Công Sơn, Tôn Thất Lập, Nguyễn Long… danh sách những người chết mê chết mệt, thần tượng, tôn thờ, hay đơn giản là thầm yêu trộm nhớ bà còn dài, dài lắm. Quanh Thanh Thúy, có không biết bao nhiêu là tác phẩm thơ văn, âm nhạc, hội họa, kịch nghệ, phim ảnh… được thành hình, mà ca khúc phổ biến bên đây chỉ là một ví dụ.

hq – 011





Ảnh 1: HQ – 011 trong lễ thượng kỳ, Ảnh 2: sea – trial ở biển Baltic, Ảnh 3: cạnh 2 chiếc Molnya tại Cam Ranh, Ảnh 4: HQ – 012 chuẩn bị về VN, Ảnh 5: 1 chiếc Molnya và 1 Svetlyak ở Trường Sa.

Cái này thì mọi người đều biết cả rồi, Gepard – class light frigate đầu tiên về tới cảng Cam Ranh tháng 3 vừa rồi, chính thức thuộc biên chế HQND VN với số hiệu HQ – 011 và tên Đinh Tiên Hoàng, chiếc Gepard thứ hai HQ – 012, Lý Thái Tổ sẽ về tới VN trong hơn một tháng nữa. Đây là hai chiến hạm “lớn” đầu tiên, thuộc loại được mang tên chứ không phải chỉ có số hiệu như các Molnya covrette. Trước sức ép của tình hình thực tế, các bác ấy đã bay sang Nga và ký biên bản nghiệm thu tàu trước một tháng so với lộ trình! Và cũng chưa bao giờ khẩn trương như thế khi nhà máy Ba Son cùng một lúc đóng mới 10 chiếc Molnya đã mua bản quyền từ Nga.

Việc nghiên cứu, đầu tư và làm chủ công nghệ không phải là điều dễ dàng, nhưng với cách làm mất (lưỡi) bò mới lo làm chuồng thế này thì chúng ta sẽ đi được tới đâu? Ai cũng hiểu là tàu thì cũng đã bắt đầu có rồi, nhưng cũng chỉ để “trưng” cho vui chứ chưa dùng được. Hệ thống huấn luyện điện tử giả lập (cho phép hơn 50 sĩ quan cùng một lúc thực hành trong điều kiện giống như chiến trận thật) mới về VN tháng 5 vừa qua, dĩ nhiên là không như chơi game, phải tập luyện 3 ~ 5 năm nữa thì số tàu kia mới bắt đầu có đôi chút giá trị, trọng lượng thực tế (riêng huấn luyện tàu ngầm thậm chí còn lâu hơn). Con bài chủ yếu để “mua thời gian” lúc này chính là không quân!

Nhưng vài chục chiếc máy bay hiện đại ở sân bay Thành Sơn và Đà Nẵng chưa phải là tất cả vấn đề, máy bay bây giờ hầu như đâu có ném bom nữa! Về vũ khí, VN có cái gì thì dĩ nhiên TQ cũng có cái đó: Switchblade (Ural – E), Termit (P – 20), Sunburn (Moskit)… nên cũng đành bỏ ra 300 M nữa để sở hữu công nghệ chế tạo Yakhont (Onyx), loại tên lửa Nga không bán cho TQ, chỉ bán cho Ấn Độ và VN. Chủ động được vũ khí riêng, vẫn còn một bước cuối: dàn phóng và điều khiển bắn cho Yakhont từ tàu chiến, máy bay hay tàu ngầm, cái này vẫn chưa làm được. Thế nên ngay lúc này chỉ có cách đặt hỏa tiễn trên bờ (Bastion – P) đợi “tàu lạ” vào gần chút thì may ra bắn trúng mà thôi!

Vấn đề không nằm ở công nghệ hay chiến lược, chiến thuật, và cũng không hẳn là chuyện tiền nong. Nếu mỗi chiếc Đinh Tiên Hoàng như thế này có giá khoảng 125 ~ 150 M thì riêng một vụ Vinashin đã ăn hết 25 ~ 30 đời vua Đinh rồi, chưa kể hàng loạt những vụ khác. Nghe giống như chuyện Từ Hi thái hậu dùng ngân sách tu bổ, nâng cấp Bắc Dương hạm đội để xây Di Hòa viên, dẫn đến việc hạm đội này trở nên lạc hậu và thất bại thảm hại trước hải quân Nhật Bản 10 năm sau đó. Nếu từng chuyện nhỏ đã không đúng thì chuyện lớn chẳng thể nào đúng được, mà thực tế văn hóa, xã hội VN như hiện tại là đang ở trong tình trạng: không có gì đúng cả, từ chuyện nhỏ đến việc lớn!

môi tím

Tình mình là tình đẹp nhất đó anh. Tình tuổi học trò mực tím áo xanh…

Post lại một bài đã đăng ở FB… một bản nhạc Nhật lời Việt từng rất phổ biến mà không cách nào tìm lại được bài gốc (trời ạ, lấy của ai, nguồn nào thì làm ơn ghi chú rõ giùm cái, chơi cái trò tam sao thất bổn này phiền quá…), chỉ biết là do Đặng Lệ Quân cover lại một ca khúc Nhật Bản (?), rồi ta tiếp tục cover lại bản F1 của Đặng Lệ Quân. Ngay cả khi viết trong một cái điệu rất Tây phương (pasodoble, really love all the pasodobles!) và qua mấy lần cover như thế này thì cái mùi Nhật vẫn chưa nhạt đi được…

Môi tím – Ngọc Lan 

thuyền viễn xứ – 2

Một bản nhạc càng hay thì người ta càng tìm cách diễn dịch nó theo nhiều cách khác nhau, một cảm hứng, gợi ý ban đầu cho nhiều trình diễn, chuyển soạn, phát triển… Như bản Thuyền viễn xứ, có không biết bao nhiêu là người trình diễn, tôi đã nghe nhiều, vocal cũng như instrumental, nhưng tiếng đàn bầu dường như vẫn là, một cách tự nhiên nhất, thanh âm phù hợp để truyền tải cái hồn của Thuyền viễn xứ.

Thuyền viễn xứ - Thái Thanh 
Thuyền viễn xứ - Quỳnh Giao 
Thuyền viễn xứ - Văn Vượng (guitar) 
Thuyền viễn xứ - Phạm Đức Thành (đàn bầu) 
Thuyền viễn xứ - Vũ Trụ, Hồ Đăng Long (piano & violin) 

mưa

That’s when the monsoon reverses… Dù cho ai đó cứ viết thơ, làm nhạc: đầu mùa xuân, mùa hạ qua, rồi mùa thu, vào mùa đông… thì quê hương em hai mùa mưa nắng và cũng chỉ có một thực tế đó mà thôi. Bài hát rất dễ thương của nhạc sĩ Văn Phụng như muốn bắt lấy khoảnh khắc giao mùa, điệu valse trẻ trung hợp với lúc mùa nước trở lại, cây cỏ vạn vật lại sinh sôi…

Mưa – Văn Phụng - Lưu Bích 

Mưa đem tươi vui về cho thắm áo nâu,
Mưa cho nương dâu và khoai sắn lên mau,
Mưa như trút sầu, mưa tô lúa đầu,
Mưa rơi qua Bến Hải, Cà Mau

Một giọng hát rất chi self – assured, self – absorbed như của Lưu Bích, người em gái của ca sĩ Tuấn Ngọc này, rất là quyến rũ, nhưng thực cũng chóng chán…