bộ bộ kinh tâm

Bữa xem 1 trích đoạn “Bộ bộ kinh tâm” – thường ko thích ngôn tình, kiếm hiệp, những thi thoảng vẫn xem để “học chữ”. 2 chị em Nhược Lan, Nhược Hy nhận được thư nhà, ngồi chờ viên thái giám đến đọc thư giúp. Xem đến đây lấy làm lạ, vì phụ nữ quý tộc xưa, tuy ko “thông kim bác cổ” như các trang nam nhi “luận bàn chính sự”, nhưng học vấn cũng ko phải là tầm thường, đều có ít nhất mười mấy năm học chữ. Cổ văn, Đường thi, Tống từ… thảy đều thông thạo, làm sao có chuyện ko đọc được thư nhà!?

Mở thư ra mới biết chữ viết lối bán thảo, học 10 năm cũng chưa chắc đã đọc được (tôi cũng ko đọc được, vậy mà biết có người ở làng Đường Lâm, Hà Nội, mới học 3 năm đã đọc / viết thảo thư thông thạo). Như nhân vật chính Nhược Hy trong phim tự nói về bản thân: ta ở thời hiện đại dù sao cũng có 16 năm đèn sách, chữ nghĩa, thế mà “xuyên không” quay ngược về quá khứ, lại trở nên người nửa mù chữ! Cái sự học ngày xưa cực kỳ khó khăn, học 10, 15 năm vẫn chưa biết gì, từng câu, từng chữ, thảy đều có ý nghĩa thâm sâu.

Không như “quốc ngữ” ngày nay, ngu lắm chỉ 6 tháng là có thể đọc viết tương đối. Vì dể dàng như thế nên trên đường dài, hại nhiều hơn lợi! Đây là vấn đề rất lớn của tiếng Việt: ngôn từ cạn cợt, ngữ pháp lỏng lẻo, nội dung ít ỏi… sinh ra nhiều người với “lổ hổng tư duy”. Từ những năm 20 tuổi, bằng cách so sánh ngôn ngữ học (comparative linguistics), đem cách suy nghĩ, hành văn trong tiếng Anh, Pháp, Hoa… đối chiếu vào tiếng Việt, tôi có thể phát hiện nhiều “lổ hổng tư duy” trong nhiều người nói chuyện với mình.

Những lỗi tư duy đó khiến cho người Việt rất dể bị xúi dục, lừa gạt. Đáng tiếc lỗi có tính chất cố hữu nên phần lớn không tự nhận ra. Cũng là nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng XH Việt như ngày nay, không thể tự phản tỉnh để biết mình thiếu chỗ nào. Chưa kể đến vô vàn những thể loại “tỉnh để chi oa”, vì đã ngồi đáy giếng, không muốn xem trời bằng vung cũng không được! Sâu xa hơn, ngôn ngữ ko phải chỉ là cái vỏ của tư duy, nó hàm chứa trong đó nhân sinh quan và thế giới quan của một con người, một dân tộc…

điện ảnh

Căn bản, cách làm phim của Trung Hoa đại lục và Hồng Kông, Đài Loan rất khác nhau. Với Đài Loan, HK, diễn viên thường được chọn từ các cuộc thi sắc đẹp, dĩ nhiên là có ngoại hình. Còn ở Đại lục, đa số diễn viên, nhất là các thế hệ đầu, và đến tận bây giờ, thường chọn ở các đoàn ca kịch: Kinh kịch, Bình kịch, Xuyên kịch, Tương kịch… Các thể loại Kịch đại lục có bề dày lịch sử lâu đời, công phu đáng nể, diễn viên không chỉ học diễn xuất, mà còn học vũ đạo, võ thuật, nhiều trò tạp kỹ, và nhất là văn thơ cổ. Nên về ấn tượng ngoại hình, trang phục thì HK, Đài Loan có thể có chút ưu thế, nhưng về chiều sâu văn hoá, tâm lý, thì không thể qua mặt Đại lục.

Thế nên mới có chuyện “diễn vai nào là chết vai đó”, nhiều diễn viên cả đời chỉ đóng một vai: Hoàng hậu (độc ác), Hoàng thượng (lăng nhăng), Phi tần (hiền từ), Hoàng thái hậu (ba phải), Công chúa (nghịch ngợm), etc… Đó là mô thức truyền thống của Kịch nghệ, vốn đã chuyên sâu như thế, có giỏi đến đâu cũng khó lòng vượt qua. Làm phim hiện đại căn bản là nhiều chiêu trò nhảm nhí để lôi kéo khán giả. Nhưng đại lục làm phim, luôn luôn lồng ghép trong đó nhiều văn hoá cổ, phải là người dụng tâm tinh tế mới nhận ra và thưởng thức được, đôi khi là những chi tiết rất nhỏ, ví dụ như nghệ thuật cắt giấy trang trí cổ truyền TQ trong hình dưới đây.

ban chỉ

班指

Xem phim kiếm hiệp, cổ trang thường thấy một loại nhẫn khá lớn, đeo ở ngón tay cái, thoạt tiên nghĩ đó là một loại trang sức, nhưng thấy có điểm không ổn, vì ngón tay cái làm rất nhiều việc, đeo chiếc nhẫn lớn như thế rất vướng víu. Suy nghĩ và “google” một lúc thì biết đó không phải là chiếc nhẫn, tiếng Trung gọi là: ban chỉ – 扳指. Nguyên thuỷ là dụng cụ để kéo cung, bảo vệ ngón tay khi phải giương những chiếc cung to và nặng, nhất là khi phải bắn nhiều phát liên tục.

Dần dà, với những nhà quyền quý, công cụ này trở thành vật mang tính chất trang sức, biểu tượng, không còn tính thực dụng ban đầu, và được làm bằng những vật liệu quý như vàng, ngọc. Trích đoạn phim: Kỷ Hiểu Lam kiến nghị mắt đã khỏi bệnh, có thể phục chức làm quan, Càn Long chưa muốn KHL trở lại, làm bộ kiểm tra mắt, đưa bàn tay ra hỏi có bao nhiêu ngón (指-chỉ-ngón tay). Dĩ nhiên là câu đố mẹo này lừa được KHL vì CL đếm có 6 ngón (chỉ), kể cả cái “ban chỉ”!

thò lò

Công cụ hiện đại khiến cho ai cũng có thể trở thành “nhà ngôn ngữ học”, đôi khi cũng muốn tập làm một “cụ An Chi”, người phụ trách chuyên mục “Chuyện đông chuyện tây” trên bán nguyệt san “Kiến thức ngày nay” một thời đã khá xa xưa. “Thò lò” – 陀螺, âm Hán Việt đọc là “đà loa”, “đà” tức là quán tính, “loa” là con ốc.

Để rõ hơn, mở trang translate . google . com, nhập 陀螺 và bấm nút phát âm, nghe hầu như là giống âm Việt “thò lò”. Vậy đã rõ “thò lò” trong thành ngữ “quay tít thò lò” nghĩa làm sao (con quay, con vụ). Và cũng có thể đoán thêm, từ này du nhập VN mới sau này, nên âm đọc của nó gần với âm Bắc Kinh hiện đại hơn là âm Hán Việt cổ!

phí & giá

Dĩ nhiên không nên đổi “học phí” thành “học giá”. Về mặt từ nguyên mà nói: giá (): giá cả, hầu như là quy thành tiền, phí (): khoản hao tổn, không nhất thiết có thể quy thành tiền. Ngày xưa, đi học chữ với thầy, ít khi phải trả bằng tiền, thầy thời xưa thường được đền đáp bằng tiền, gạo và nhiều dạng lễ vật khác, vì nhiều lý do khác nhau. Một mặt, người ta không muốn biến nó thành một giao dịch thương mại thẳng thừng.

Mặt khác, muốn biến nó thành một món nợ ân tình, mà tình nghĩa thì có cách hoàn trả khác biệt. Ngày nay, đi học chữ với thầy, không nhất thiết chỉ cần tiền. Còn phải nói ngon nói ngọt, dẫn thầy đi nhậu, vận động từ hành lang cho tới tận đâu, hao phí rất nhiều công sức! Nên nói “phí” nó nặng hơn “giá”, không thể quy thành tiền được. Dù là hiểu theo nghĩa nào, xưa hay nay, thì “phí” nó vẫn khác với “giá”, đâu cần phải đổi!?

quy khứ lai, 5

爱与恨的边际聚与散的别离
问你为何会在意 直到现在还惦记
归去你还在我依赖身分开心回来
记得这份爱我们明白 这就是爱

每当感觉自己受了伤
不辞而别逃去了远方
躲多久走多远算疗伤
不如回到相爱的地方

没有告别静默的离场
房间冰冷不再有暖阳
多想留住你我的时光
念念不忘等待爱回响





Phải mất rất lâu Thư Triệt mới chấp nhận được điều này, dù anh ta đã luôn phản đối phương cách hành động và làm ăn của cha mình từ rất sớm. Và cũng phải mất rất lâu nữa Thư Triệt mới vượt qua được ranh giới giữa yêu thương và thù hận để trở lại với Tiêu Thanh, cô gái mà anh thực sự yêu. Về phía gia đình Mậu Doanh, vốn chỉ đơn thuần kinh doanh, không có xu hướng chính trị, họ chấp nhận điều này dễ dàng hơn, và vì thế, tình bạn giữa Mậu Doanh và Tiêu Thanh nhanh chóng được nối lại. Sâu bên trong, tất cả đều hiểu rõ những nguy cơ tiềm ẩn trong cung cách làm ăn của xã hội Trung Quốc, và tất cả đều hướng đến những phương pháp minh bạch, thượng tôn pháp luật mà họ đã học được ở Mỹ.

念念不忘 - Niệm niệm bất vong 

Tình cảm giữa Ninh Minh và Mậu Doanh vốn dĩ là điều đến sau, không phải là cái mà người ta thường cho là “trời sinh hoàn hảo”. Mối quan hệ đó chứa đựng rất nhiều điểm khác biệt, rất nhiều điểm không thực sự “ăn ý”, căn bản xuất phát từ gốc gác, tầng lớp xã hội khác nhau của họ. Ninh Minh tôn thờ Mậu Doanh như một “công chúa”, nhưng anh ta không phải đã thực sự hiểu hết những điểm tế nhị trong tâm tư của cô gái này. Còn Mậu Doanh trời sinh đã là “quý tộc”, cô ấy có tầm nhìn và sự nhạy cảm của một người thuộc tầng lớp cao, cô ấy cảm động với sự kiên trì và tận hiến của Ninh Minh và do đó tiếp nhận tình cảm của anh ấy. Căn bản giữa hai người là tìm kiếm và chia xẻ với nhau những điều khác biệt.

Còn giữa Thư Triệt và Tiêu Thanh, mối quan hệ được phát triển theo một hướng khác, không phải tìm kiếm những điều khác biệt, mà ngược lại, chia xẻ những chí hướng, những giá trị chung. Căn bản Thư Triết quá cứng rắn với những nguyên tắc, giá trị sống của mình, khó lòng tìm được ai chấp nhận được sự cứng rắn quá độ đó. Chỉ có Tiêu Thanh cũng chia sẻ những giá trị đó, nên họ mới có thể cùng đi trên chặng đường đến với nhau. Những người xem phim sẽ nghĩ rằng cả hai câu chuyện tình yêu đó đều có một chút dáng dấp của câu chuyện Cô bé Lọ Lem – Cinderella, khi hai người thuộc hai tầng lớp xã hội rất xa nhau lại đến được với nhau, nhưng thực ra, kịch bản phim không hề nhấn mạnh về điều đó!

Cái tâm lý bất ổn thường trực thường thấy trong những xã hội Á Đông không phải là một yếu tố mang tính “tạm thời”, ngược lại, nó mang tính “di truyền”, con người ta phải chuẩn bị cho mình nhiều giá trị khác nhau, đề phòng những biến đổi khác nhau trong cuộc sống. Chính vì thế nên mới có chuyện trong một xã hội rất coi trọng hôn nhân “môn đăng hộ đối”, thì tình yêu thật sự chân thành lại phá vỡ, đi ngược lại hoàn toàn cái quy ước xã hội đó. Những con người từ các giai tầng xã hội rất khác nhau lại đến được với nhau, cơ bản cũng vì họ tìm thấy trong người kia những giá trị sống mà họ không có, điều đó được tính như một giải pháp dự phòng, khi những điều kiện chính trị, xã hội thay đổi hay đảo lộn!

Phim hay không phải chỉ vì nó phản ánh được khoảng cách lớn giữa các thế hệ già trẻ, sự khác biệt rất lớn giữa cung cách vận hành của các hệ thống xã hội, các hệ thống pháp lý, luân lý khác nhau. Phim còn rất hay ở chỗ miêu tả chi tiết những khó khăn của lớp người trẻ chật vật tìm lối đi riêng cho mình, những vấn đề rất hiện thực, sống động. Giới trẻ, đối diện tình yêu và vô vàn những mối quan hệ xã hội phức tạp khác, những trăn trở băn khoăn về giá trị của cá nhân và giá trị của cộng đồng, những suy tư, toan tính trong học hành và khởi nghiệp. Những so đo trong tình bạn, tình yêu, những mâu thuẫn, đấu tranh giữa nguyên tắc công bằng chung và lợi ích cá nhân riêng tư, tất cả đều được minh hoạ rất rõ.

Những bạn trẻ Trung Quốc, họ nhìn nhận thực tế và có rất nhiều suy nghĩ, băn khoăn với nó! Phim thừa nhận thẳng thắn rất nhiều vấn đề hiện hữu với hệ thống chính trị, pháp lý và kinh doanh của Trung Hoa lục địa. Và mặc dù văn hoá Mỹ bị “phê bình” khéo ở một số điểm, hệ thống luật pháp Mỹ được đề cao và thắng thế tuyệt đối! Phim đặt ra nhiều câu hỏi về giá trị của cá nhân trong cuộc sống, đâu là những “tố chất” mà chúng ta cần, đâu là những “phẩm hạnh” phải có để xây dựng tình yêu và lòng tin. Khác biệt nằm ở chỗ, các bạn trẻ Trung Quốc thẳng thắn đặt câu hỏi và tự tìm câu trả lời, chứ không chết chìm trong những vấn đề tủn mủn, lặt vặt, muôn thủa không thể tự giải quyết được như trong xã hội Việt!

quy khứ lai, 4

爱与恨的边际聚与散的别离
问你为何会在意 直到现在还惦记
归去你还在我依赖身分开心回来
记得这份爱我们明白 这就是爱

每当感觉自己受了伤
不辞而别逃去了远方
躲多久走多远算疗伤
不如回到相爱的地方

没有告别静默的离场
房间冰冷不再有暖阳
多想留住你我的时光
念念不忘等待爱回响





Nhiều khán giả xem phim sẽ nhận định, nhân vật như Ninh Minh căn bản là rất khó có thể có thực. Yêu đơn phương một người suốt 4 năm đại học, âm thầm dõi theo người ấy suốt nhiều năm sau đó, không hề có một lời bày tỏ, không trông mong hồi đáp. Vì với anh ta, tình yêu là một hành động “self – completion”, yêu để tự hoàn thiện mình, yêu tự nó đã là hạnh phúc, không cần phải có một kết cục rõ ràng nào. Nhưng tôi biết Ninh Minh là hoàn toàn có thật, trong số những người bạn của tôi, cũng đã có những mối tình câm lặng suốt 4 năm đại học, rồi lại tiếp tục đau khổ, trăn trở cả chục năm tiếp theo. Mậu Doanh, Ninh Minh làm tôi sống lại những năm tháng tuổi trẻ của mình, vì chính tôi cũng đã từng như thế!

念念不忘 - Niệm niệm bất vong 

Tiêu Thanh, người cùng học tại Đại học Stanford với các nhân vật nêu trên, có xuất thân gia đình cũng không mấy khá giả. Bố Tiêu Thanh là một công tố viên liêm chính, luôn nói không với những món tiền hối lộ, hoàn cảnh bắt buộc Tiêu Thanh phải làm rất nhiều việc để tự kiếm tiền trang trải cuộc sống. Đã có rất nhiều tai nạn cũng như hiểu lầm xảy ra, cũng như khoảng cách giàu nghèo làm cho tình bạn giữa Tiêu Thanh, Mậu Danh và Thư Triệt phát triển rất chậm chạp. Tuy vậy, qua nhiều ngã rẽ khó khăn của cuộc sống, họ dần nhận ra giá trị trong nhau và phát triển những tình bạn bền vững. Tiêu Thanh mơ mộng về một tình cảm với Thư Triệt những không dám thổ lộ, vì vẫn còn đó tình bạn với Mậu Doanh.

Một cá tính có phần nguyên tắc thường thấy ở những người học luật, Tiêu Thanh không muốn phải sứt mẻ tình cảm dành cho cả hai người, mãi cho đến khi những biến động của cuộc sống tách Mậu Doanh và Thư Triệt rời xa nhau và đưa Mậu Doanh lại gần Ninh Minh và đưa Tiêu Thanh lại gần tình yêu của mình. Thư Triệt nhận Tiêu Thanh vào làm cố vấn pháp lý cho công ty của mình, công việc giúp họ có cơ hội hiểu nhau hơn, hiểu những toan tính ngấm ngầm của 2 ông bố Thư Vọng và Thành Vĩ. Ninh Minh sống một cuộc sống trôi nổi vô định, cho đến khi số phận trớ trêu xui khiến anh quen biết Thành Nhiên, em trai của Mậu Doanh. Phải mất rất lâu, Thành Nhiên mới biết được vì sao Ninh Minh lang thang ở Mỹ.

Nhưng những oái ăm của cuộc sống chưa dừng lại ở đó. Tiêu Thanh lại nhận một công việc trong một công ty luật phụ trách điều tra tham nhũng cho chính phủ Mỹ, và qua đó, biết rất rõ từng chi tiết điều tra nhắm vào hai gia đình Mậu Doanh và Thư Triệt. Lại thêm rất nhiều mâu thuẫn, dằn xé giữa tình bạn, tình yêu và lương tâm, đạo đức nghề nghiệp, Tiêu Thanh không thể tiết lộ bất kỳ bí mật điều tra nào cho cả hai người, cô ấy cảm thấy mình phải sống một cuộc sống “hai mặt”. Qua nhiều chuyện sóng gió, cuối cùng Ninh Minh nhận được học bổng cho phép anh theo học cao học ở Mỹ, và do đó có thể tiếp tục ở bên cạnh tình yêu của đời mình là Mậu Doanh, người sau nhiều đau khổ, đã đón nhận anh!

Một cộng đồng bạn bè Trung Quốc sống chung một thành phố, luôn có rất nhiều mâu thuẫn chồng chéo trong tình bạn, tình yêu, nhưng bằng một cách nào đó, họ vẫn tìm cách ở bên nhau, giúp đỡ tương trợ lẫn nhau những khi cần thiết. Cha của Tiêu Thanh là công tố viên điều tra tham nhũng, phụ trách vụ án của Thư Vọng và Thành Vĩ. Ông phát hiện ra một điều, Lưu Thái Kỳ là “bồ nhí” của Thư Vọng, do mang thai với vị thị trưởng này, nên được thu xếp để sinh sống ở Mỹ nhằm dấu nhẹm sự việc. Nếu tin tức một quan chức có con ngoài giá thú lộ ra ngoài thì sự nghiệp chính trị của ông ta xem như chấm dứt. Sự việc lại tiếp tục phát triển khi Lưu Thái Kỳ muốn tố cáo mối quan hệ bất chính của Thư Vọng.

Ông chủ Thành Vĩ như thường lệ, lại nhận chỉ thị từ Thư Vọng, lại giở các thủ đoạn hắc ám để giết người diệt khẩu. Lưu Thái Kỳ chết, nhưng kịp để lại những bằng chứng tố cáo liên minh ma quỷ Thư Vọng – Thành Vĩ. Đỉnh điểm của sự đau khổ đến khi Tiêu Thanh, dưới áp lực của cha mình, phải ra toà làm chứng trong hai vụ án: một là vụ Thư Vọng nhận hối lộ từ Thành Vĩ, và một nữa là vụ Thành Vĩ nhận lệnh giết người diệt khẩu từ Thư Vọng. Điều mà Thư Triệt lo sợ cuối cùng cũng đã tới, khi áp – phe chính trị – kinh doanh Thư Vọng và Thành Vĩ cuối cùng cũng phải đã đối diện pháp luật, và cả hai người đều phải nhận bản án chung thân, một cái kết rất đắng cay cho cả hai gia đình Thư Vọng và Thành Vĩ.

quy khứ lai, 3

爱与恨的边际聚与散的别离
问你为何会在意 直到现在还惦记
归去你还在我依赖身分开心回来
记得这份爱我们明白 这就是爱

每当感觉自己受了伤
不辞而别逃去了远方
躲多久走多远算疗伤
不如回到相爱的地方

没有告别静默的离场
房间冰冷不再有暖阳
多想留住你我的时光
念念不忘等待爱回响





Quan hệ giữa hai nhà không chỉ là lợi ích mà còn là tình yêu của hai đứa trẻ. Một lúc nào đó, cả hai nhà đều chân thành mong muốn tác thành cho tình yêu đó, nhưng rồi nhận ra một đám cưới công khai có thể “tố cáo” mối quan hệ ngầm giữa hai bên, và ảnh hưởng đến con đường thăng tiến chính trị của Thư Vọng cũng như việc kinh doanh của Thành Vĩ. Họ tìm đến một giải pháp trì hoãn, không tổ chức đám cưới cho đến khi dự án xe điện ngầm thành công. Mậu Doanh và Thư Triệt ban đầu không thể hiểu được căn nguyên mọi việc, không thể hiểu tại sao cả hai nhà đều phản đối tổ chức đám cưới. Cả hai đều chưa hiểu hết những liên hệ ngầm giữa hai bên, giữa giới chính trị và kinh doanh Trung Quốc.

念念不忘 - Niệm niệm bất vong 

Mậu Doanh là một cô gái rất thông minh, nhận định vấn đề nhanh nhạy và chính xác, cô ấy nhanh chóng nhận ra một điều: trực tiếp là bố mình – Thành Vĩ, và gián tiếp là “bố chồng” – Thư Vọng chỉ đạo, dàn xếp mọi việc. Tuy thông minh, nhưng cô ấy không phải là một mẫu người theo đuổi giá trị cá nhân, nên dễ dàng chấp nhận cái cách mà hệ thống kinh doanh, chính trị Trung Quốc đã và đang vận hành. Tình yêu của cô ấy là một tình cảm không cần quá nhiều lý trí, có thể thoả hiệp để cho mọi việc được yên ổn. Ngược lại, Thư Triệt lại là một người cực kỳ tôn trọng các giá trị cá nhân, các nguyên tắc lý trí cũng như pháp luật, một lúc nào đó, phim cũng thể hiện anh ta có cái tôi lớn giống như bố của mình.

Đây là một điểm quan trọng mà người xem phim như tôi sẽ rất chú ý quan sát! Việc xây dựng các nguyên tắc và giá trị cá nhân của Thư Triệt, dĩ nhiên phản ánh “cái tôi” của anh ấy, nhưng phải vượt lên được chính “cái tôi” ấy thì anh ta mới có thể trở nên khác biệt với người cha của mình, và mới thực sự biến các giá trị ấy thành lý tưởng sống phổ quát. Bằng không thì cũng giống như cha mình, đó chỉ là một cách nguỵ biện vụng về cho cái ích kỷ cá nhân mà thôi. Dần dà, Thư Triệt, đúng như mong đợi, quay lưng lại với các lề thói xấu rất “Trung Quốc”, anh ta trả lại tiền mà người “bố vợ tương lai” đầu tư, hay nói chính xác hơn là “hối lộ” một cách khéo léo, anh ta muốn kinh doanh bằng thực lực của mình.

Tình cảm giữa Mậu Doanh và Thư Triệt, trong suy nghĩ của nhiều người xem phim, là vẫn còn có thể dàn xếp. Nhưng một hệ thống cộng sinh chính trị – kinh doanh đã vận hành hàng chục năm ở Trung Quốc không thể thay đổi một sớm một chiều, lề thói, cách suy nghĩ của những con người ấy không thể thay đổi. Hai đứa trẻ bị kẹp giữa hai thái cực, hai phương châm sống khác nhau. Mậu Doanh có thể thoả hiệp một chút, nhưng Thư Triệt kiên quyết đi theo con đường kinh doanh minh bạch theo đúng pháp luật, theo đúng tinh thần “pháp trị” mà anh ta đang theo học tại khoa Luật, Đại học Stanford. Anh ta ly khai, cắt quan hệ với người cha của mình, tự mình sống không cần sự hỗ trợ và giám sát của gia đình.

Nếu Thư Triệt chỉ bị kẹp giữa một gọng kìm là hai phương châm sống khác nhau, Mỹ & Trung Quốc, thì Mậu Doanh, đau khổ hơn, còn bị kẹp thêm bởi một gọng kìm nữa, đó là hai người đàn ông: bố mình và người yêu. Thành Vĩ yêu thương con gái, nhưng ông không muốn làm điều gì có hại cho việc kinh doanh của tập đoàn mà con gái ông là người thừa kế, ông cũng không thể làm gì khác nếu các “sếp” trong bóng tối như Thư Vọng đã có “ý kiến chỉ đạo”. Còn Thư Triệt, mối mâu thuẫn rất sâu sắc với cha mình đã biến thành một cuộc chiến “ý thức hệ”, vì trong suy nghĩ của anh ta (thực sự anh ta nghĩ đúng), những con người như thế, những nguyên tắc đạo đức như thế (hai người bố) sẽ có một kết cục tất định.

Ngày tổ chức đám cưới, chưa phải là đám cưới chính thức, chỉ đăng ký ở Toà thị chính, cô dâu Mậu Doanh, vì những áp lực ngấm ngầm, bí mật của hai gia đình, đã bỏ đi phút cuối cùng. Mậu Doanh bỏ đi lang thang trong đau khổ và tuyệt vọng. Nhưng vì là một “công chúa”, chuyện cổ tích luôn xảy đến, cô ấy luôn có một “quý nhân” đi theo phù trợ, không ai khác chính là Ninh Minh, mối tình không thổ lộ từ thời ở Đại học Thanh Hoa. Được tin Mậu Doanh làm đám cưới, Ninh Minh bí mật đến Mỹ, như lời anh ta, là để chứng kiến đám cưới ấy bằng chính mắt mình, “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”, anh ta chỉ muốn chính thức đóng chiếc đinh cuối cùng lên chiếc quan tài là mối tình đơn phương của chính mình!

quy khứ lai, 2

爱与恨的边际聚与散的别离
问你为何会在意 直到现在还惦记
归去你还在我依赖身分开心回来
记得这份爱我们明白 这就是爱

每当感觉自己受了伤
不辞而别逃去了远方
躲多久走多远算疗伤
不如回到相爱的地方

没有告别静默的离场
房间冰冷不再有暖阳
多想留住你我的时光
念念不忘等待爱回响





Nhưng cũng phải nói là phim có một kịch bản rất tốt, phản ánh được sự khác biệt của văn hoá, xã hội Á Đông và phương Tây, những tình tiết câu chuyện xảy ra trong phim cũng phản ánh khá trung thực bản chất, thực tế xã hội Trung Quốc. Dĩ nhiên cách thể hiện tình cảm yêu đương giữa các nhân vật cũng phải “sướt mướt”, “lãng mạn đến mức lãng xẹt” một tí, cốt để thu hút đông đảo khán giả xem phim. Nhưng căn bản, phim tôn trọng thế giới hiện thực của các thành phần tham gia: những du học sinh đến từ mọi miền của Trung Quốc, thuộc đủ các tầng lớp, xuất thân, có những người sinh ra đã là “hoàng tử, công chúa”, cũng có những người phải chật vật làm thêm để tự chu cấp cho việc học hành của mình.

念念不忘 - Niệm niệm bất vong 

Thư Triệt, con trai của Thư Vọng, một phó thị trưởng, một quan chức đang trên đà thăng tiến và nắm giữ quyền lực chính trị lớn. Anh được gởi đi Mỹ học đại học, rồi tiếp tục cao học. Mậu Doanh, như đã nói, là con gái của Thành Vĩ, ông chủ của một tập đoàn kinh doanh đang tham gia đấu thầu xây dựng hệ thống xe điện ngầm, và dĩ nhiên có mối liên hệ bí mật và mật thiết với quan chức chính trị chống lưng cho mình là Thư Vọng. Tình yêu của hai người, Thư Triệt và Mậu Doanh có thể xem là “thanh mai trúc mã”, họ quen biết và yêu nhau từ sớm, những năm nàng lớp 7, chàng lớp 9, hai gia đình cũng có thể xem là môn đăng hộ đối, và tưởng chừng như chẳng có gì có thể ngăn cản, phá vỡ tình yêu đó.

Thoạt tiên, cả hai gia đình đều ủng hộ cuộc hôn nhân giữa hai đứa trẻ này. Thành Vĩ là một ông bố rất yêu thương con gái, nhưng ông có phần không hiểu được những người con của mình. Ông là một mẫu điển hình cho các ông chủ kinh doanh Đại lục, thành công và giàu có, rất khôn ngoan, lão luyện trên thương trường, rất nhẫn nại, kiên trì để đạt được mục đích, sẵn sàng sử dụng các biện pháp hắc ám khi cần thiết! Thành Vĩ thừa hiểu các giá trị Mỹ và cách mà hệ thống pháp luật ở đây vận hành, nhưng ông cũng thường xuyên dùng đến các thủ đoạn rất chi Trung Quốc: vận động ngầm, mua chuộc, hối lộ, đe doạ, và khi không còn cách nào khác, cũng sẵn sàng sử dụng đến các biện pháp xã hội đen.

Thư Vọng là một chính trị gia cứng nhắc, với một tính cách cực kỳ gia trưởng. Ông tìm cách áp đặt mọi thứ lên người con trai Thư Triệt của mình, tin rằng tất cả những điều mình làm là để nâng đỡ, bảo vệ con. Dĩ nhiên cha mẹ nào cũng mong muốn nâng đỡ con cái, cho nó một xuất phát điểm tốt hơn trong xã hội. Nhưng phim cũng không ngần ngại thể hiện rõ ràng một điều rằng, tất cả những gì ông ta làm cũng chỉ thể hiện cái tôi quá lớn của ông ấy, muốn bao trùm, kiểm soát tất cả, muốn thể hiện uy quyền của mình. Thư Triệt du học ở Mỹ từ rất sớm, anh ta “thẩm thấu” các giá trị Mỹ, anh ta mâu thuẫn sâu sắc với cha mình, ban đầu chỉ là vì cảm giác khó chịu khi bị kiểm tra, áp đặt dưới nhiều hình thức.

Nhưng dần dà mâu thuẫn đó trở nên lớn hơn thế, trở thành sự khác biệt giá trị sống, khác biệt suy nghĩ và hành động. Thư Vọng và Thành Vĩ đại diện cho một hệ thống xã hội như nó đã và đang vận hành ở Trung Quốc, một hệ thống dựa rất nhiều vào quan hệ cá nhân, các phương pháp không minh bạch, và nhiều thủ đoạn hắc ám khác! Thư Triệt lại hoàn toàn trái ngược, anh ta thấu hiểu và áp dụng các giá trị Mỹ, những nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Đến một lúc, người xem phim chợt nhận ra ông bố Thư Vọng là một cá tính hoàn toàn không thể thay đổi, một kiểu bệnh mãn tính, bất di bất dịch, một cái tôi quá lớn, lớn đến mức mù quáng, dĩ nhiên là luôn nhân danh “tình yêu” và những điều “tốt đẹp” khác.

Là những thành phần cộng sinh trong cùng một hệ thống, Thành Vĩ cũng chia sẻ những lề lối giống như chính trị gia Thư Vọng. Nhưng là một doanh nhân, ông ta mềm mỏng, khéo léo hơn. Để nhận được quyền xây dựng hệ thống xe điện ngầm, Thành Vĩ khéo léo hối lộ người cha Thư Vọng bằng cách “đầu tư” những món tiền hậu hĩ vào công ty riêng của người con Thư Triệt tại Mỹ. Thư Triệt ban đầu rất ngạc nhiên vì công ty của mình lại nhận được những hợp đồng béo bở một cách quá dễ dàng, nhưng nhanh chóng nhận ra, đó là những “món quà” của “ông bố vợ tương lai”, người nhận chỉ thị từ Thư Vọng, ông trùm đứng trong bóng tối chỉ đạo mọi việc, kể cả việc thông qua Thành Vĩ để giám sát con mình.

quy khứ lai, 1

爱与恨的边际聚与散的别离
问你为何会在意 直到现在还惦记
归去你还在我依赖身分开心回来
记得这份爱我们明白 这就是爱

每当感觉自己受了伤
不辞而别逃去了远方
躲多久走多远算疗伤
不如回到相爱的地方

没有告别静默的离场
房间冰冷不再有暖阳
多想留住你我的时光
念念不忘等待爱回响





Mới nghe tựa đề (tiếng Trung) của phim là đã biết được mượn trong bài “Quy khứ lai từ” của Đào Tiềm đời Đông Tấn: 歸去來兮,田園將蕪,胡不歸! 既自以心為形役,奚惆悵而獨悲? – Quy khứ lai hề, điền viên tương vu, hồ bất quy! Ký tự dĩ tâm vi hình dịch, hề trù trướng nhi độc bi? – Về đi nào, về đi nào! Ruộng vườn bỏ rậm làm sao không về? Tâm để thân dễ bề sai khiến, Sao lại còn quyến luyến thương đau? Phải nói rằng tôi rất ít khi xem phim truyền hình, cảm thấy đa phần đều quá dài dòng và nhàm chán, lại càng không thích các thể loại có xu hướng “ngôn tình” và “đam mỹ”, viển vông không thực. Nhưng Quy khứ lai này là ngoại lệ, nó đề cập đến cuộc sống đầy thực tế, và đồng thời cũng rất thơ mộng!

念念不忘 - Niệm niệm bất vong 

Cái tựa đề tiếng Anh của phim “The way we were” có vẻ như lại phản ánh tốt hơn nội dung phim, trong cái nhìn của các du học sinh, về những khác biệt văn hoá của người Trung Quốc và người Mỹ, giữa Đông và Tây, cách mọi người hành xử, cách các hệ thống tổ chức, xã hội khác nhau vận hành, tất cả đều được biểu hiện rất rõ qua các tập phim. Dĩ nhiên phải xem qua vài tập đầu trong số 50 tập mới bắt đầu hiểu rõ, câu chuyện chủ yếu xoay quanh một nhóm các thanh niên trẻ tuổi du học ở Mỹ, và cái tâm sự “quy khứ lai – về hay ở lại” sẽ theo họ suốt một thời gian dài, từ những năm đi học đến khi ra trường, đi làm, cho tới khi bắt đầu định cư, lập nghiệp, cái câu hỏi “về hay ở lại” sẽ vẫn còn trở đi trở lại.

Nhưng đó vẫn là những điều chưa tới, đầu phim lấy bối cảnh tại Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, hai nhân vật Ninh Minh và Mậu Doanh học chung một lớp, những giây phút của tình yêu tuổi trẻ, lãng mạn đầy nhiệt huyết. Một tình yêu đơn phương của chàng trai nhà nghèo Ninh Minh với cô gái cực kỳ xinh đẹp Mậu Doanh, một tiểu thư con nhà “đại tư sản”, người thừa kế của một tập đoàn kinh doanh lớn. Với cô ấy, hiển nhiên cuộc sống phía trước dường như đã được trải sẵn thảm đỏ, với tất cả những điều tốt đẹp nhất đang chờ đợi. Cô gái đã có bạn trai, một “người yêu lý tưởng”, Thư Triệt, đang theo học ở Mỹ, mặc cho một hàng dài những người theo đuổi cuồng nhiệt trong thời gian tại Thanh Hoa.

Còn chàng trai, có vẻ như chỉ là một người rất bình thường, con một nhà lao động nghèo, tiền đồ hãy còn rất mờ mịt. Sự tự ti về điều kiện xuất thân, về địa vị xã hội của Ninh Minh sẽ còn đi theo anh ta suốt nhiều năm dài, khiến cho anh ta thường xuyên cảm thấy mình không xứng đáng, mình không đủ khả năng đem lại hạnh phúc cho cô gái, và do đó chưa bao giờ dám thổ lộ tình cảm của mình. Một tình yêu câm lặng kéo dài suốt 4 năm Đại học sẽ có thể thừa đủ để làm nội dung cho một phim khác, nhưng với phim này, đó chỉ mới là màn khởi đầu. Một khởi đầu ngắn ngủi, một ký ức rất đẹp nhưng cũng chỉ thoáng qua, cũng như chặng đường cuộc sống đầy chông gai, sóng gió hãy còn rất dài ở phía trước!

Xem tập đầu phim, tôi như thấy lại những tháng năm tuổi trẻ của mình, thấy lại những người bạn của chính mình trong đó! Tuổi trẻ của tôi có đầy đủ tất cả những điều đó, những mối tình thầm lặng kéo dài suốt 4 năm đại học, những theo đuổi điên cuồng sẽ còn tiếp tục suốt mười năm tiếp theo, cho đến những năm khoảng trước sau 30 tuổi. Những tình cảm không tên, không thổ lộ, cũng dự đoán là không có một kết cục tốt đẹp rõ ràng nào, những điều mà trong tâm hồn của những thanh niên, thanh nữ chưa đầy 20 tuổi đó, chỉ là những điều tự nó sinh ra, tự nó tồn tại, một tình yêu không cần sự hồi đáp, những trăn trở, khát vọng chúng ta có chỉ để khiến chúng ta trở nên trưởng thành hơn, hoàn thiện hơn.

Nhưng trước hết, cần phải “phê bình” phim một tí. Đầu tiên là tôi không thích những phim truyền hình quá dài, và cách làm phim cũng khá “công nghiệp”. Có vẻ như các tập phim được phân chia cho nhiều đạo diễn khác nhau, mỗi người làm một đoạn, khiến cho việc xây dựng hình tượng, cá tính nhân vật đôi khi có phần thiếu nhất quán. Thứ đến nữa là những kiểu tuyên truyền chính trị, văn hoá “đại Trung Hoa” cũng có, dù không nhiều lắm. Đáng chán nhất vẫn là phim kéo dài lê thê, rất nhiều đoạn chi li quá mức cần thiết, rất dể gây nhàm ra chán. Cách xây dựng cá tính nhân vật, lời thoại trong phim đôi khi có phần “công thức”, nhưng đôi khi cũng rất thông minh, sâu sắc, gây bất ngờ cho người xem!

xa – thư

讀萬卷書
行萬里路

Hoàng thành Huế, điện Thái Hoà, ngay bên dưới chiếc biển đề ba chữ “Thái Hoà điện” có khắc một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt: Văn hiến thiên niên quốc, Xa thư vạn lý đồ. Hồng Bàng khai tịch hậu, Nam phục nhất Đường Ngu. Tạm dịch: Đất nước ngàn năm văn hiến, Cơ đồ “xe và sách” vạn dặm, Từ sau họ Hồng Bàng dựng nước, Trời Nam lại thịnh trị như thời Đường, Ngu. Khái niệm “xa & thư” được sử dụng rất phổ biến trong văn thư chính trị cổ. Nhưng như thế nào là “xa & thư” – “xe và sách”!?

Xe (xa): dĩ nhiên ngày xưa là chiếc xe ngựa, dùng để chờ người, đồ vật, đồng thời cũng là chiếc chiến xa (chariot). Xem phim về thời cổ đại ở cả Đông lẫn Tây, cả ở La Mã lẫn Trung Quốc đều thấy một điểm chung là chiến xa phổ biến hơn chiến mã. Tại sao lại đi dùng một thứ phức tạp là xe ngựa, mà không đơn giản trực tiếp cỡi ngựa!? Có người lý luận một cách hoàn toàn sai lầm rằng văn minh nhân loại đã đi thụt lùi, từ việc sử dụng chiến xa thời cổ đại, sang dùng chiến mã thời trung đại.

Trong việc cỡi ngựa, phát minh quan trọng nhất là cái bàn đạp, đây được xem là một phát minh tuy đơn giản, nhưng làm thay đổi lịch sử nhân loại! Bộ yên cương, có thêm cái bàn đạp mới khiến kỵ sĩ có thể ngồi vững vàng trên lưng ngựa, điều khiển được ngựa một cách khéo léo, và quan trọng nhất là nhờ có cái bàn đạp mới có điểm tựa để sử dụng vũ khí: gươm, đao, thương… và nhất là có thể bắn cung một cách chính xác. Từ khi phát minh ra cái bàn đạp, nhân loại mới bỏ chiến xa mà dùng chiến mã.

Nhưng quay trở lại thời cổ đại, thì chiến xa vẫn phổ biến hơn là chiến mã, đơn giản là vì không có bàn đạp, kỵ sĩ chưa thể ngồi vững trên lưng ngựa. Thời cổ đại ở Trung Quốc, vua một nước nhỏ có thể có một ngàn cỗ xe, vua một nước lớn có thể có đến vạn cỗ xe. Chiến xa là thứ thể hiện sức mạnh và quyền lực của một vương triều. Người ta đánh giá sức mạnh của một vương quốc thông qua số chiến xa mà nước đó sở hữu, cũng giống như bây giờ chúng ta dùng các đại lượng GDP, GNP, etc… vậy.

Lại nó thêm về xe ở Trung Quốc, thời cổ đại, có hàng trăm vương quốc lớn, nhỏ, mỗi nước dùng một loại xe riêng, đóng theo những quy cách riêng: kích thước bánh xe, độ rộng trục bánh xe. Ở các cổng thành, người ta xây các trụ đá nhỏ làm vật cản, khiến cho xe của một nước có thể đi lọt qua cổng thành nước đó, mà qua nước khác lại không thể đi lọt. Việc mỗi quốc gia sử dụng “quy chuẩn” xe khác nhau thực ra là một cách phòng thủ, không cho xe đối phương đi vào nước mình quá dễ dàng.

Sách (thư): nếu như xe có hàng trăm quy chuẩn khác nhau, thì sách vở, chữ viết cũng vậy. Tuy đều là chữ tượng hình, nhưng mỗi nước lại có cách viết khác nhau, ví dụ cùng một chữ “kiếm” nhưng có đến hàng chục cách viết, tuỳ theo quốc gia, vùng miền. Đến khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc mới thống nhất tất cả các quy chuẩn: xe đóng theo cùng một kích cỡ, chữ viết theo cùng một lề thói, tất cả các đơn vị đo lường, các hình thức nghi lễ, áo mũ, âm nhạc cũng được thống nhất.

Nên có thể xem: Thư là kiến thức, Xa là kinh nghiệm, Thư là lý thuyết, Xa là thực hành, Thư là trừu tượng, Xa là hiện thực, Thư là tâm hồn, Xa là thể xác, Thư là tinh thần, Xa là vật chất, Thư là sức mạnh mềm, Xa là sức mạnh cứng… “Xa dữ thư – xe và sách” là hai mặt của một đồng xu, hai yếu tố chính yếu nhất để đại diện cho một nền văn minh. Chẳng phải xưa có câu: Độc vạn quyển thư, Hành vạn lý lộ – 讀萬卷書行萬里路 – Sách: đọc ngàn chương, Đường: đi vạn dặm đó sao!?

lồng tiếng

Từ nhỏ đã “lập thệ”: cả đời không coi phim Hong Kong, Đài Loan, không coi “phim chưởng”. Nhưng cái “Anh hùng xạ điêu – 2003” này là do CCTV Bắc Kinh làm, không phải Hong Kong. Lời thoại kỹ càng, sâu sắc, tính cách nhân vật xây dựng công phu, đặc sắc, nhất là các vai Hoàng Dung và Hồng Thất Công, không có bừa bãi, hời hợt như kiểu phim Hong Kong.

Không nên xem phim lồng tiếng, nên xem phụ đề, vốn dĩ đám người Việt gốc Hoa thường lồng tiếng cho “phim chưởng” đó thực ra chẳng hiểu mấy về văn hoá Trung Quốc, “cổ văn” đọc ko thông, dịch 10 sai đến 8, 9 phần, lao nhao như 1 đám “chợ búa”, mất cả hứng thú, chẳng ích lợi gì! Xét về ngôn ngữ, văn hoá, phương Bắc vẫn luôn cao hơn phương Nam 1 bậc vậy!

vong quốc chi ca

亡國之歌

Đạo đức, thịnh, suy, khôn, dại, hay dở đều hiện ra nơi âm nhạc, không giấu được ai. Bởi vậy cứ lấy âm nhạc mà nghiệm được một nước ra thế nào. (Tuân Tử – Nhạc ký)

Về Bolero VN, nói chung âm nhạc là một quá trình giáo dục và cảm nhận, nó gồm nhiều năm trãi nghiệm nên thường ai nghe gì đó là việc của họ, tôi không có ý kiến. Và biết rằng nói ra sẽ mất lòng một số người… Nhưng nhận xét về Bolero Việt Nam nói chung, tôi nghĩ thứ nhạc đó xứng đáng được gọi bằng cái tên: Vong quốc chi ca亡國之歌, loại âm nhạc mất nước! Những dân tộc ưa chuộng vận động và tiến bộ phải có thể loại nhạc sáng tạo và sinh động, không phải như Bolero VN ngồi nhai đi nhai lại mãi một mớ nhảm nhí, chẳng đại diện cho ai cả, ngoài cái tâm trạng xấu xí của họ.

Chính xác theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, Bolero VN là loại vong quốc chi ca, một loại âm nhạc mất nước! Vì quyết không sai, đây chính là âm nhạc của một quốc gia đã mất, và mất vì cứ mãi lải nhải từ năm này sang tháng khác một thứ nhạc kém đến như thế! Kém không phải vì loại nhạc đó sầu não uỷ mị, mà vì nó không có sự sáng tạo, cứ sử dụng mãi những giai điệu na ná từa tựa nhau, nghe 100 bài như 1, đến tác giả còn lười biếng, không chịu tìm tòi cái mới, làm theo kiểu mỳ ăn liền…

Nghe câu đầu là đã đoán được câu sau, làm gì có tí giá trị âm nhạc mới mẻ nào!? Và những người cứ mãi lải nhải loại nhạc ấy cũng không có hy vọng gì có thể mở mang đầu óc mà tiếp thu cái mới! Tuân Tử nói, đến một đất nước nào, chỉ cần nghe qua âm nhạc của nước đó cũng sẽ biết ngay là “Hưng” hay là “Phế”! Và rất nhiều người không phân biệt được đâu là dân ca, và đâu là Bolero. Thực ra, từ ngay chính cái tên Bolero cũng đã chẳng có nội hàm, ý nghĩa gì, và cũng như cái tên tự nó gọi đó, Bolero chẳng có dính dáng gì đến dân ca cả, mặc dù cũng đã cố gắng vay mượn, đánh tráo khái niệm.

Đó cũng là tiểu xảo và mục đích của cộng đồng Bolero, đánh đồng tất cả tốt xấu, hay dở, đánh lên một vũng nước đục, gạt bỏ tất cả những thành tựu khác để tự xem mình là một cái gì đó. Bolero VN thực ra chỉ là một quái thai của thời đại nó: âm nhạc thì copy dân ca một cách thô thiển, ca từ thì chả đâu vào đâu, chủ đề thì nhảm nhí… tất cả nói thẳng ra là một công cụ “phá hôi” để phục vụ cho các mục đích xã hội và chính trị, khởi đầu chẳng có gì rồi kết thúc cũng chẳng có gì!

杜牧 – 泊秦淮

煙籠寒水月籠沙
夜泊秦淮近酒家
商女不知亡國恨
隔江猶唱後庭花

tây cống nhật báo

Hồi đó mới vô SG có quen chú người Hoa Chợ Lớn, một thư pháp gia chữ Hán loại siêu, nói tiếng Quảng Đông, tiếng Việt chưa sỏi lắm, sáng sáng cafe đọc Tây Cống nhật báo (tức báo Sài Gòn giải phóng bản tiếng Hoa), và đặc biệt là rất mê nhạc Dương Thụ. Haizza, nói là “hoà nhi bất đồng”, thế mà có nhiều người Việt ghét nhau vì cái giọng nói khác có chút xíu…

paddle on, paddle still

張旭
清溪泛舟

旅人倚征棹
薄暮起勞歌
笑攬清溪月
清輝不厭多

Tiếp tục công cuộc thuyền bè và chèo chống… Nhớ lại cách đây mới khoảng 3 năm, chèo thuyền ngang qua con sông rộng chừng 300 m là đã có cảm giác: như con chim non nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ, đến nay thì 30 km (100 lần nhiều hơn thế) băng qua cửa biển rộng mênh mông, làm một phát không phải nháy mắt!

Nhưng từ đây lên đến 3000 km vẫn còn… 100 lần nhiều hơn thế nữa. Con đường còn xa, xa ngái, Xuyên à! Thôi thì cứ giả vờ như cái “sự nghiệp rong chơi” này nó nhàn nhã, tiêu dao lắm, mà ngâm câu thơ rằng: Lữ khách nhàn trên thuyền gác mái, Trong chiều tàn khởi hát dân ca. Mỉm cười vốc ánh trăng ngà, Ngắm hoài không chán bao la suối rừng.

Khởi động trở lại chế độ mỗi tuần 3 buổi tập, mỗi buổi 20 ~ 25 km như trước. 50 ngày đi xuyên Việt xe máy thì có tí vất vả, nhưng chẳng rèn luyện được sức bền như chèo thuyền chút nào. Thực ra ít có môn chơi nào đã gian khổ lại nguy hiểm như… chèo thuyền! Cố gắng lấy lại phong độ nhanh chóng, bao nhiêu “phiêu lưu” dự tính đang đợi chờ tôi ở phía trước!

Mùa này ở Sài Gòn, người ta bắt đầu chơi thả diều, tức là đã có gió, rất nhiều gió, nhất là ở trên sông, mãi cho đến tận tháng 4, tháng 5. Cũng là thêm một điều hay khi đi chèo thuyền. Dù nước ngược hay gió ngược, dù sóng to hay phẳng lặng, dù thế nào thì con thuyền vẫn luôn phải “tinh tấn” tiến lên phía trước! Không có gì “ẩn dụ” cho cuộc sống hay hơn thế!

xuân nghệ sĩ hành khúc

Tới sau, ngày tươi vui ấy đã qua,
Thật không khác với giấc mơ, ngồi nghĩ đến lúc ngây thơ,
Lòng bâng khuâng ta sẽ tiếc thương cho bao nhiêu ngày vui đẹp,
Chúng ta nhủ thầm: ngày vui xưa nay đã mất qua bao lần!

Thời gian cuối năm vẫn còn dài, mà sao thấy cứ nôn nao muốn bước sang năm mới… Kỳ thực đời người ta sống, quang âm như bóng câu qua cửa sổ, nói Nôm na thì: “chả lo gì” mà “chỉ lo già”… hoặc phỏng như Lý Bạch: người xưa đốt đuốc chơi đêm, thiệt là có lýcổ nhân bỉnh chúc dạ du, lương hữu dĩ dã古人秉烛夜游良有以也.

Xuân nghệ sĩ hành khúc - Thái Thanh 

Về các anh em nhà Phạm Xuân (nhạc sĩ Xuân Lôi, Xuân Tiên…) đó thật sự là những con người đặc biệt của làng nhạc Việt. Tuy không hâm mộ âm nhạc của họ cho lắm, nhưng lại rất thích những cuộc đời năng động, đầy sức sống, đa tài, đa nghệ, muôn màu muôn vẻ như họ. Một chút âm nhạc sinh động trong không gian gió mùa xuân đương tới.

viễn mộng

李白 – 夜泊牛渚懷古

牛渚西江夜
青天無片雲
。。。。。
明朝挂帆席
楓葉落紛紛

Sách vở thường phân tích phương Đông (không giống như phương Tây): sống nội tâm, mẫn cảm, chan hoà và gần gũi với thiên nhiên. Theo như thực tế hiện nay mà thấy, hình như điều ngược lại mới là đúng! Lại dùng cổ máy thời gian, mời tác gia Lý Bạch ngược đến tương lai, trích bốn câu trong bài Dạ bạc Ngưu chử hoài cổ để bình luận cho bức hình bên dưới!

Ngưu chử Tây giang dạ,
Thanh thiên vô phiến vân…
Minh triêu quải phàm tịch,
Phong diệp lạc phân phân.
Cảnh đêm Ngưu chử Tây giang,
Trời thu trong vắt không hàng mây trôi…
Sáng dong buồm chiếu đi rồi,
Lá phong đã rụng tơi bời bến sông!

trào lỗ nho

李白 – 嘲鲁儒

魯叟談五經
白髮死章句
問以經濟策
茫如墜煙霧
足著遠遊履
首戴方山巾
緩步從直道
未行先起塵
。。。。。

Cách đây gần 1300 năm mà người ta đã viết như thế này đây! Dịch nghĩa: Ông già nước Lỗ bàn chuyện Ngũ kinh, tóc bạc vùi trong những từ chương đã chết, hỏi ông cách giúp nước giúp đời, ông ngơ ngác như từ trên mây rơi xuống, chân đi giày “viễn du”, đầu chít khăn “phương sơn”, khệnh khạng ông bước trên đường thẳng, chưa đi đã thấy bụi bay mù…

Kinh tế (经济) là rút gọn của kinh bang tế thế (经邦济世), không phải nghĩa hẹp như chúng ta đang dùng bây giờ. Vị hành tiên khởi trần: phàm người ta đi đường thì làm bụi bay, như thế là chuyện bình thường, còn tác giả mô tả ông này chưa bước đi đâu cả mà bụi đã bay mù, ám chỉ loại người vô tích sự, không được việc gì! Chữ dùng đến là khéo!

Trào Lỗ nho – Lý Bạch
Lỗ tẩu đàm ngũ kinh,
Bạch phát tử chương cú.
Vấn dĩ kinh tế sách,
Mang nhiên truỵ yên vụ.
Túc trước viễn du lý,
Thủ đới phương sơn cân.
Hoãn bộ tòng trực đạo,
Vị hành tiên khởi trần…
Giễu ông đồ nước Lỗ
Ông đồ nước Lỗ học Ngũ kinh
Bạc đầu nhai chết từng chương cú
Hỏi ông giúp đời thế nào đây?
Mờ mịt như người mây khói phủ!
Chân đi đôi giày “viễn du lý”,
Đầu đội chiếc khăn “phương sơn cân”.
Khệnh khạng ông bước theo đường thẳng,
Chưa đi bụi đã như mây vần…

sách cũ

老鼠看書
咬文嚼字

Khi nhỏ, trong nhà đã có vài chục ngàn đầu sách. Lớn lên chút, mỗi khi không biết đi đâu, thì cứ đạp xe thẳng ra khu sách cũ, đường Trần Huy Liệu và một số điểm quanh chợ Bà Chiểu. Sách cũ thì hên xui, chủ các tiệm đa phần không hiểu biết lắm về sách, nhưng họ biết cuốn nào người ta cần, cuốn nào nhiều người đọc, cứ như thế mà định giá tiền!

Thực ra mà nói, lúc còn tuổi teen, tôi đọc nhiều, nếu không muốn nói là rất nhiều. Nhưng cũng chính vì đọc nhiều như thế nên tôi… “ghét đọc sách”. Người Việt có thói xấu là cái gì cũng muốn tỏ ra ta đây “hiểu biết”, nên cứ thế mà lôi một mớ kiến thức chết ra để “tụng niệm”, xem việc “biết nhiều” là hơn người. Như thế thì cũng chẳng khác gì con mọt sách!

Tôi nói con mọt sách là theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen của nó! Đọc, học với động cơ biết thêm một chút để loè người khác, không hấp thụ được tinh thần gốc của sách vở, thì chẳng khác nào con mọt, cả đời chỉ đăm đăm đục khoét, huỹ hoại bằng hết những tinh thần mà sách muốn truyền tải. Biết nhiều thì đã làm sao, mà không biết thì đã làm sao!?

Cái việc đọc sách, với bản tính tiểu nông thủ cựu, thì chỉ mang tật vào thân. Sách vở nó ám vào người, không học hỏi được điều gì hay ho, chỉ lảm nhảm lải nhải những thứ kiến thức chết chả đâu vào đâu. Nói ngắn gọn thì, tôi không tin những người, ví dụ như: nói thích các sách phiêu lưu mạo hiểm, mà thực sự là… không biết bơi, đơn giản như thế!

Trên nhiều mặt, cách làm của người Việt ngược với thế giới. Người trẻ phải được dạy cách hành động trước, gieo nên tinh thần rộng rãi, khai phá và thực tế, để đến khi có tuổi một chút, đọc thêm một số sách vở để cô đọng, tóm tắt lại những giá trị, thành quả đã xây dựng được! Cũng giống như Âu Dương Phong luyện Cửu âm chân kinh ngược mà thôi!

môn hệ điếu ngư thuyền

杜牧 – 旅宿

旅館無良伴
凝情自悄然
寒燈思舊事
斷雁警愁眠
遠夢歸侵曉
家書到隔年
滄江好煙月
門系釣魚船

Cái tật khó bỏ, thấy gì cũng trích một câu Đường thi làm tựa đề và bình luận… Hôm nay là hai câu cuối trong một bài của Đỗ Mục, dẫn thêm bản dịch tiếng Việt cho nhiều người dễ hiểu, chứ thường rất ít khi đọc bằng tiếng Việt, Đường thi phải đọc trong nguyên bản chữ Hán mới cảm được cái hay về âm hưởng, cái cô đọng, súc tích về ngữ nghĩa của nó!

Lữ túc – Đỗ Mục
Lữ quán vô lương bạn,
Ngưng tình tự tiễu nhiên.
Hàn đăng tư cựu sự,
Đoạn nhạn cảnh sầu miên.
Viễn mộng quy xâm hiểu,
Gia thư đáo cách niên.
Thương giang hảo yên nguyệt,
Môn hệ điếu ngư thuyền.
Trọ đêm không có bạn hiền,
Tình như lắng đọng, tự nhiên thấy buồn.
Đèn mờ, chuyện cũ nhớ thương,
Nhạn kêu chẳng biết, mãi vương giấc sầu.
Mộng xa, trời sáng đã lâu,
Thư nhà mới nhận cách hầu một năm.
Sông xanh khói quyện ánh trăng,
Thuyền câu trước cửa đương nằm đợi ai?

Hình lấy từ guillemot-kayaks.

Về việc hiển thị chữ Hán trên website này: vì tập chữ phồn thể rất lớn, trong khi bộ chữ giản thể ít hơn nhiều, nên “ánh xạ” phồn thể – giản thể không phải là “song ánh”. Trong một số ít trường hợp, việc hiển thị phồn thể vẫn còn có chỗ sai sót, do phần mềm vẽ chưa thể tự tra đúng mặt chữ, mong các bạn “Hán(g) rộng, Nho thâm” thông cảm.