nhạc lộc thư viện

Từ thời Hán cho đến qua thời Tống, Nguyên, Minh, suốt khoảng 1500 năm, nơi có nhiều đầu sách nhất thế giới chính là… Trung Quốc! Từ các thư viện hoàng gia cho đến các thư viện tư nhân như Nhạc Lộc, họ có khoảng 6 ngàn đầu sách (tựa sách), nhiều hơn bất kỳ nơi đâu, dù là Baghdad, Varanasi hay Rome, thì cũng không có nhiều sách bằng! Viết bằng thứ chữ giun dế siêu phức tạp như thế, bao quát đủ mọi lĩnh vực, từ Sơn hải kinh, Thủy kinh chú, Cửu chương toán thuật, Hải đảo toán kinh, Võ bị chí, etc.. bao quát đủ mọi mặt kiến thức, trên thiên văn, dưới địa lý, từ tư duy trừu tượng cho đến các vấn đề xã hội… công phu, trình độ quả thực đáng nể! Các đoàn sứ thần VN sang TQ, sau khi nộp cống phẩm xong đều được “lại quả”, loại “quả” thường được yêu cầu (và đáp ứng) nhiều nhất chính là… sách! Mà chẳng riêng gì VN, các nước đương thời như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng thế: chẳng phải mọi phát minh tốt đẹp đều đến từ Trung Quốc đó sao, người Nhật Bản đương thời nói như vậy!

Mọi chuyện bắt đầu thay đổi khi kỹ thuật in ấn bắt đầu được phổ biến sang châu Âu! Chính vì kỹ thuật in có thể tạo ra được số lượng ấn phẩm lớn, đưa kiến thức đến với nhiều người hơn, nên dần dà, nó tạo thành một kiểu hiệu ứng đô-mi-nô, bắt đầu từ đó, châu Âu càng ngày càng đẻ ra thêm nhiều tựa sách, và bắt đầu vượt qua Trung Quốc. Số lượng đầu sách (tính trên tựa, không phải tính trên bản in) không còn ở mức số ngàn nữa mà bắt đầu tăng, đương nhiên khởi đầu chậm nhưng sau đó cứ nhanh dần theo cấp số nhân, bắt đầu đạt con số chục ngàn, trăm ngàn, rồi đến mức triệu… Quá trình này mất đến vài thế kỷ, dần dần đưa nhân loại bước vào “kỷ nguyên Ánh sáng”… Sang đến thế kỷ 21, ở cái xứ mọi rợ phương Nam kia cũng bày đặt nói chuyện sách, toàn những thứ như Thám tử Sherlock Holmes, Trở lại Eden, Những năm ảo tưởng, Cánh buồm đỏ thắm, .v.v… haiza, sách vở gì chúng nó!?

từ điệu

Nhiều ngàn năm trước thời không thể nói rõ, nhưng độ một ngàn năm đổ lại (kể từ thời Tống) thì trình độ thưởng thức âm nhạc của dân chúng (chính xác hơn là của tầng lớp văn nhân, tri thức, có học) dừng ở mức “từ điệu”. Như thế nào là một “từ điệu”, đó là những khúc ca có nhạc điệu cố định, được truyền lại qua nhạc phổ hay được giảng dạy tại các nhạc phường! Những điệu nhạc này thường có tên, ví dụ như: Bốc toán tử, Giá cô thiên, Niệm nô kiều, Hoán khê sa, Điệp luyến hoa, Giang thành tử, Thu phố ca, Đạp sa hành, Thái tang tử, Lãng đào sa, Ngọc lâu xuân, Bồ tát man, Thiếu niên du, Vũ lâm linh, Định phong ba, v.v… Chỉ có các ca nương được đào tạo tại các nhạc phường mới rành rẽ về các ca điệu này. Còn giới văn nhân, trừ một vài ngoại lệ, do quá trình giáo dục, đa số cũng chỉ biết rõ phần “lời – chữ” chứ không tường tận phần “âm – nhạc”! Hình thức nó gần giống như ca trù vậy (thực chất đây có lẽ chính là thủy tổ của ca trù). Mỗi khi giới văn nhân tụ tập lại với nhau, họ thường làm “từ”.

Từ là một thể thơ đời Tống mà âm luật tự do hơn, để ráp vào các điệu ca cho dễ! Như thế, các văn nhân “phụ trách” phần lời, các ca nương “phụ trách” phần nhạc, và các bài từ được đặt tên theo tên điệu hát là như thế! Hình thức này có ảnh hưởng sâu đậm về sau, đến tận thời của “cải lương”, ví dụ như có vô số bài, nhạc điệu thì chỉ có một, nhưng có nhiều lời ca khác nhau được đặt ra để hát theo điệu đó. Mọi thứ nó là như thế, cho đến khi tiếp xúc với văn minh và âm nhạc phương Tây, người ta mới biết đến những loại âm nhạc phong phú và phức tạp hơn, còn trước đó, “nhạc” và “lời” được truyền tải qua những “format” cứng như vậy! Cũng vì trình độ của “đại chúng” đang ở mức đó, cứ phải lặp đi lặp lại những “định dạng” cố định! Xem ra “tân nhạc và thơ mới” đã trăm năm có dư rồi, mà trình thưởng thức âm nhạc của một bộ phận lớn thính giả Việt vẫn như ngàn năm trước, cứ phải vin vào những hình thức cố định và giản đơn thì mới hiểu nổi! Clip, từ điệu: Đãn nguyện nhân trường cữu – Vương Phi.

nam lai bắc vãng – 2

Chê trước để khen sau, đầu tiên là không khó nhặt ra vài hạt sạn, một số tình huống thắt nút hơi bị cường điệu, chưa hợp lý về logic, chưa thật sự thuyết phục! Nhưng xem đến hết 36 tập phim mới thấy đây là một phim cực hay! Mà cái hay trước tiên là xây dựng nhân vật nào ra nhân vật nấy, diễn xuất thuyết phục, từ ông già mù ăn xin, lang thang vật vạ trên tàu suốt hơn 30 năm đi tìm con gái bị bắt cóc, cho đến những nhân vật lưu manh móc túi, du côn trấn lột, lừa gạt buôn người, từ động tác cho đến tâm lý đều xây dựng công phu! Nhưng đạt nhất chính là nhân vật Giả Kim Long, một người xuất thân chỉ là buôn chuyến nhỏ lẻ trên tàu hỏa, 20 năm sau trở thành ông chủ lớn.

Người này làm quen với hai anh cảnh sát đường tàu, qua lại, ăn uống, chuyện trò, xem như người thân quen! Anh này từng có một số lần “lập công” giúp tìm người bị bắt cóc, thậm chí cưới một cô gái nhân viên hỏa xa làm vợ! Đến cuối mấy chục tập phim mới hiện nguyên hình là trùm ma túy, không cái vỏ bọc nào được xây dựng tốt hơn, kỳ công hơn thế! Làm phim công phu, cho thấy sự thay đổi của bối cảnh xã hội qua nhiều thập kỷ, từ xe đạp, radio, TV, tủ lạnh, máy nhắn tin, điện thoại… đều đúng với trình tự thời gian! Nghĩ lại thấy chán cho phim VN (thực ra chính là phản ánh đúng xã hội VN), lưu manh mà mới nhìn qua, mới nói có 2 câu đã biết tỏng là lưu manh rồi, chả thú vị gì!

lạm phát

Cách hay nhất để hại chết một dân tộc, đó là tạo ra lạm phát, đảo lộn các giá trị. Phải bày ra các trò chơi đùa, lảm nhảm vô hại nhưng không có nghĩa lý gì để dân đen giải trí, phải bịa ra các ngôn từ đao to búa lớn nhưng sáo rỗng: dân chủ, trí thức, những cái bánh vẽ để gây ra “đối lập”. Phải nhen nhóm các ảo tưởng hoang đường để con người ta quên đi thực tại, phải tạo ra môi trường xã hội ghen ghét vụn vặt, đấu đá kình chống nhau để phá vỡ các mối liên kết cộng đồng! Và tạo ra cái ấn tượng rằng mọi giá trị đều có thể đạt được dễ dàng, phải đặt ra nhiều “catch-phrases” để quần chúng nghĩ rằng chỉ cần “nói đằng mồm là được”!

Khi các con chiên đã ngoan ngoãn cúi đầu, chìm đắm trong những hoang tưởng và sợ hãi do chính họ tự tạo ra, thì những kẻ chăn dắt mới có thể phát huy được quyền lực! Cái thời dùng ma túy kiểu Chiến tranh nha phiến là đã xa xưa rồi, giờ “ma túy” là do cộng đồng nó tự tạo ra! Những cách này sẽ không mấy hiệu quả với những dân tộc mạnh bạo, sâu xa như Nga, hay khôn ngoan, thâm trầm như Trung Quốc, những dân tộc đó họ tự lao động, tự họ xây dựng nên những giá trị riêng biệt! Nhưng những phương cách mà bọn Tây lông hay xài này lâu nay vẫn gây ra vô số vấn đề ở những dân tộc bạc nhược, thiển cận khác!

nam lai bắc vãng

Thế là hết một cái Tết, toàn ở nhà làm việc nhà, kêu một chiếc xe tải 2 tấn chở đi vất những thứ đồ đạc không còn dùng đến, rồi lại tiếp tục làm mộc, hoàn thiện cái phòng tập GYM và làm thêm một số đồ gia dụng khác! Rồi lười biếng nằm dài xem phim… Phim này hay, chân thực và cảm động, điện ảnh phía Bắc Trung Quốc hiếm khi sa đà vào các kiểu trai xinh gái đẹp, khoe giàu khoe của nông cạn, nhảm nhí… nó dám nhìn lại một cách chân thực, thực đến mức trần trụi, cái quá khứ nghèo đói, lạc hậu, tệ nạn! Phim về đội cảnh sát đường sắt TQ những năm 197x…

Đường sắt TQ lúc đó hãy còn là một cái ổ tệ nạn đúng nghĩa: móc túi, cướp giật, bài bạc, lừa đảo, trấn lột, bắt cóc, buôn người, ma tuý… không thiếu thứ gì! TQ có cục Cảnh sát riêng trực thuộc Bộ Hoả xa, còn VN thì mới thành lập lực lượng cảnh sát đường sắt năm 2017, mới cách đây 7 năm, trong khi người ta đã làm từ gần 70 năm trước. Haiza, mà đường sắt VN đến tận bây giờ cũng gần gần giống như thế, cái này ai đã có kinh nghiệm đi tàu 30, 40 năm trước sẽ hiểu rất rõ! Xem để thấy rằng, tiến bộ xã hội đạt được thật không dễ dàng tí nào…

tảo luyến

Có mấy chuyện thuộc về tâm lý lứa tuổi và ngôn ngữ. Trong các phim thanh xuân vườn trường TQ, hiện tượng này được gọi là “tảo luyến – 早恋“, chữ tảo nghĩa là sớm, như trong từ “tảo hôn”. Nhưng họ gọi “luyến” chứ không gọi là “ái”… là chính xác! Lứa tuổi đó nó như vậy, có thể đôi khi (khá hiếm hoi) tình cảm sẽ đi hết đời người, còn đa phần sẽ là… học kỳ sau quay sang “luyến” đứa khác! Nên gọi là “luyến”, còn “ái” nó mang nghĩa rộng lớn hơn nhiều. Ai cũng từng trãi qua chuyện như vậy, ấy thế mà trở ngược trở lại cấm cản con trẻ, ấy cái lạ! Thế nên mới bảo là người Việt không lớn, tâm thức, nhận thức không chịu lớn! Nếu “lớn” thì sẽ hiểu rằng mỗi lứa tuổi đều có những điều thuộc về lẽ tự nhiên, không thể bắt người khác phải sống giống như mình được!

Sâu xa là cái tâm thức “giống như tôi mới đúng”, bằng vào cái kinh nghiệm phiến diện, khô cứng của bản thân, cố đảo dòng chảy thời gian, ngược tiến trình sinh học! Vội cho rằng đó là “ái”, kỳ thực chưa từng biết “ái” nó như thế nào, và nó có thể sẽ như thế nào, cứ bắt người khác phải sống theo vọng tưởng (thực chất là sợ hãi) của bản thân! Nghĩ rộng ra, đã là người thì đều có những “hỉ nộ ái ố” như nhau, chúng ta chỉ khác nhau trong cách xử lý những vấn đề đó! Càng cấm đoán áp đặt, trẻ sẽ càng bám víu vào cái chấp niệm đó là đúng, duy nhất đúng! Điều nên làm là dạy, mở ra cho con trẻ thấy những khả năng, những sự phát triển khác của tâm hồn, của cuộc sống! Đương nhiên, người ta không thể dạy cái mà bản thân người ta cũng không có!

xuân tứ

Bữa hôm nọ, bỗng dưng nảy ra ý định viết một cuốn truyện, có thể là dạng truyện vừa, mà cũng có thể là dạng tiểu thuyết dài hơi. Và để bắt đầu, như nó thường phải bắt đầu từ đâu đấy, bỗng dưng nhớ đến mấy câu trong bài Xuân tứ của Lý Bạch: Yên thảo như bích ty, Tần tang đê lục chi… Vậy là đã có ý tưởng rồi… nữ chính của chúng ta sẽ đặt tên là Yên Thảo, vừa hay, Yên (Yến) là một cái họ, còn nam chính của chúng ta sẽ mang tên là Tần Tang (cũng vừa hay, Tần cũng là một cái họ)!

Mà nữ chính Yên Thảo chắc chắn phải có một con nha hoàn đi theo, đặt tên là Bích Ty, còn người hầu của nam chính Tần Tang đương nhiên sẽ là Lục Chi rồi. Mới dùng có 2 câu thơ cổ, tổng cộng 10 chữ, là đã đặt được tên cho 4 nhân vật rồi. Chỉ cần thêm vài chục bài Đường thi, độ một tá Tống từ, lại dặm ghém thêm đôi ba Nguyên khúc nữa, chắn chắn sẽ vẽ ra được một cái truyện kiếm hiệp hay ngôn tình “cẩu lương, cẩu huyết” ngay thôi! Viết văn là dễ, nào ta bắt đầu thôi…

lệ chi

Chuyện lịch sử nhiều người biết, vì Dương Quý phi thích ăn quả vải – lệ chi, mà Đường Huyền Tông cho thành lập hẳn một tuyến vận chuyển hoả tốc, phi ngựa suốt ngày đêm để kịp đem vải về kinh đô Trường An. Có lẽ không phải vận chuyển từ Quảng Đông, Lĩnh Nam, mà từ một nơi nào đó gần hơn như Tứ Xuyên, Phúc Kiến! Theo những ước tính bây giờ, thời gian vận chuyển ít nhất là 10 ngày, biết bao nhiêu người, ngựa gục chết trên đường, mà quả đem về chắc chắn không tươi ngon, phần nhiều là dập nát vì ngày đêm trên lưng ngựa! Từ Đường sang đến thời Tống, cách thức vận chuyển bảo quản đã có những tiến bộ khác! Quan địa phương ở Phúc Kiến sẽ chọn những cây nhiều quả, nhưng kích thước tương đối nhỏ…

Bứng nguyên gốc, bọc trong sọt đất, vận chuyển bằng đường biển về Biện Kinh (Khai Phong), đến nơi cây vẫn còn sống, cách này tuy đỡ tốn kém hơn chút, nhưng cũng không phải là dễ dàng gì! Sang thời Minh, cách thức lại có tiến bộ, người ta chặt ngang gốc cây chuối, cắm cành vải to vào đó, cách này giúp cành vải sống tiếp được một thời gian, kịp đưa đến những ông hoàng đế ở kinh thành! Như thế, chúng ta thấy công nghệ bảo quản, vận chuyển thực phẩm đã tiến bộ rất chậm trong suốt nhiều trăm năm, nhưng càng về sau, càng tiến bộ nhanh dần. Ngày xưa vận chuyển chỉ để chứng tỏ tình yêu (của Lý Long Cơ với Dương Ngọc Hoàn) mà thôi, còn ngày nay, nhu cầu ẩm thực của con người hàng triệu lần lớn hơn thế!

chữ

Đầu năm nói chuyện “chữ”… Trước em có biết một số vị làm việc liên quan đến cổ ngữ! Chữ các vị ấy đương nhiên nhiều rồi, em không bằng được! Nhưng làm bộ hỏi vài câu Đường thi thông dụng, các vị ấy đều lơ ngơ, ướm thử vài câu Tống từ phổ biến, các vị ấy đều lấp lửng! Nên em tạm rút ra nhận định: chữ của các bác ấy nhiều, nhưng lại không hàm thụ được vẻ đẹp của thi ca cổ, hay ít nhất là tâm trí các bác không quan tâm những điều ấy! Em băn khoăn tự hỏi tâm các bác ấy đặt ở chỗ nào!? Sau thì phát hiện ra, phần lớn thời gian các bác dùng “chữ” để khoe mẽ, đấu tố nhau, kích động ghen ghét cá nhân, phân biệt vùng miền, thường khi là lồng ghép trong đó những đấu đá chính trị, tôn giáo, một số trường hợp rõ ràng là “bồi bút” được các thế lực ngoài giật dây, dùng “chữ” kích động mâu thuẫn, đánh vào cái tôi “vừa ghen ghét, vừa tự ti vặt của người Việt”, đánh vào cái dân trí lè tè không tự luận ra được. Với những người ấy, tốt nhất là cứ… “kính nhi viễn chi”.

Vấn đề quay lại điểm khởi đầu, học để làm gì!? Lịch sử Trung Quốc lâu dài như vậy, văn minh Hoa Hạ rực rỡ như vậy, họ làm ra biết bao nhiêu chuyện kỳ vĩ, từ văn hoá, thi ca cho đến các công trình quốc kế, dân sinh, đào Vận hà, xây Trường thành, và biết bao nhiêu thành tựu to lớn khác! Em chỉ cần nhìn vào một thoáng là em biết, họ học chữ để đấu đá và kèn cựa nhau, chứ trong tâm không có cái mộng học được cái đẹp, cái hay của thiên hạ! Nói nghe có vẻ to lớn, nhưng học chưa chắc đã làm được như người ta, trở thành sĩ phu kẻ sĩ, kinh bang tế thế, chuyện đời đâu có dễ thế! Nhưng ít nhất và đầu tiên, học có thể thay đổi tính cách, tâm hồn con người! Bản thân còn không thay đổi được, làm sao thay đổi ngoại giới!? Muốn xem công phu của một người tới đâu, đầu tiên hãy xem cách anh ta nhìn nhận, đặt ra yêu cầu đối với… chính bản thân mình! Em lạy các bác, mở mắt ra xem người ta sống như thế nào, đừng bám vào mấy cái gốc tre làng mãi như thế nữa!

thấu quang kính

Tiết mục khoa học thường thức, thấu quang kính – 透光镜 – Chinese magic mirror! Ít nhất là từ thế kỷ thứ 5 người ta đã biết một số gương đồng có xuất hiện hiện tượng này, và Thẩm Quát thời Tống đã tìm cách giải thích nó một cách gần đúng! Đầu tiên là gương thời cổ đại không phải làm bằng thuỷ tinh mạ bạc (thuỷ ngân) như ngày nay, mà chỉ là một miếng đồng được mài đến nhẵn bóng! Mặt sau của miếng đồng thường có một số motif trang trí lồi lõm, khi ánh sáng chiếu vào mặt trước của gương và dội ngược lên tường, kỳ lạ thay, ta sẽ thấy được hình ảnh của mặt sau, giống như ánh sáng xuyên qua từ sau ra trước vậy! Tại sao lại xảy ra hiện tượng kỳ lạ như vậy!?

Khi đúc gương, những đường nét trang trí lồi lõm làm bản đồng có độ dày khác nhau, quá trình nguội đi sau khi đúc không đồng nhất làm bề mặt kim loại có cơ tính khác nhau (phần mỏng hơn nguội nhanh hơn, và do đó cứng hơn). Đến khi mài, bằng mắt thường không thể thấy sự khác biệt, gương có vẻ như là một bề mặt hoàn toàn nhẵn bóng, nhưng thực ra vẫn có những chỗ kim loại mềm / cứng khác nhau, và do đó chênh nhau về độ dày khoảng 0.5 micron! Chỉ một khác biệt nhỏ như vậy, nhưng khi phản chiếu ánh sáng sẽ cho ra một hình ảnh! Đây cũng chính là cách để kiểm tra xem một miếng silicon wafer (công nghệ bán dẫn) có khiếm khuyết hay không!

từ của năm

Những ngày cuối năm tương đối nhàn nhã, suy nghĩ lung tung… Báo chí phương Tây thường có chuyện bầu chọn “từ” điển hình của năm. Ngôn ngữ mà, luôn thay đổi, luôn nghĩ ra từ mới để phản ánh thực tế biến động! Nếu có bầu chọn từ điển hình trong năm của VN, tôi nghĩ nó sẽ là từ “tượng”, với định nghĩa: 1 tượng = 1 ngàn tỷ! Đây theo tôi là một từ rất hay, rất đắt, vô cùng… Vietic! Như chữ Hán cổ thì sẽ là: 萬,億,兆,京,垓,秭,穰,溝,澗,正,載,極 – vạn, ức, triệu, kinh, cai, tỷ, nhương, câu, giản, chính, tái, cực. Nhưng tiếng Việt hiện đại không có từ nên đành phải đặt ra từ mới thôi!

Chứ suốt 4 ngàn năm lịch sử dân tộc, chưa bao giờ, chưa từng có khi nào có nhu cầu phải dùng con số lớn đến như vậy! Và dùng số lớn quá, trăm ngàn tỷ này nọ sẽ gây ra nhiều bất tiện khi ghi chép, lại rất khó hình dung về độ lớn! Nói vụ Vạn Thịnh Phát gây thiệt hại chỉ có hơn 300 tượng à, nghe có phải là nhỏ nhắn và nhẹ nhàng hơn nhiều không?! Tương tự, các con số đầu tư, đề án này nọ cũng như thế, những dự án 350 tượng, 500 tượng, nghe nó nhẹ hẫng như thinh không vậy! Năm cũ sắp qua đi, năm mới sắp đến, cùng với những sự hoang đường ngày càng khổng lồ hơn!

thiên hạ trường hà

Lâu lắm mới xem được một phim “chính kịch” TQ hay như thế, mà phim thế này thường sẽ không có phụ đề tiếng Việt, chả ai đi dịch cái phim mà biết chắc không có mấy khán giả xem! Không có khán giả vì không có trai xinh, gái đẹp cùng với những màn giật gân, đồng bóng khác! Nhưng đúng là khá lâu mới được xem lại những thủ pháp phim “chính kịch” TQ, nhiều năm không thấy gặp, nhiều đoạn rất thấm với cái nội dung thâm thuý của nó! Đây có lẽ là phim làm để chuẩn bị tiền đề dư luận cho dự án “Nam thuỷ Bắc điều” hiện đại của TQ. Phim lấy bối cảnh triều Thanh, Khang Hy gia, Hoàng Hà tràn bờ, nước lụt đe doạ nhiều tỉnh! Hoàng đế lệnh xuống cho các quan lại địa phương và các quan phụ trách đê điều (Hà đạo): Nhân tại đê tại, Đê vong nhân vong – 人在堤在,堤亡人亡 – Người còn thì đê còn, Đê mất thì người mất! Hà đạo tham quan, Vương Quang Dụ biết chạy không thoát tội nên đã tự sát!

Tuần phủ An Huy – Cận Tử Viên mấy chục ngày ở tại công trường đốc thúc hộ đê, nhưng cuối cùng đê vẫn vỡ! Tử Viên bị dòng nước cuốn đi, nhưng may mắn được cứu sống, bị áp giải về kinh để điều tra! Quần thần nghị luận: giết hay không giết!? Ai ai cũng muốn giết, làm con dê tế thần, giết là bịt luôn đầu mối không truy ra được những quan nào đã ăn bớt việc sửa đê! Chỉ có một người khuyên can Khang Hy không giết, giết rồi dư luận sẽ bảo rằng hoàng đế: Sát nhân hữu phương, Trị hà vô lực – 杀人有方,治河无力 – Có cách để giết người, nhưng vô phương trị thuỷ! Từ đó bắt đầu một đại công trình kéo dài hơn mấy chục năm, Trị lý Hoàng hà! Xem để thấy rằng với những công trình quốc kế dân sinh to lớn, người TQ làm với trách nhiệm và quyết tâm lớn lao! Khác với thời cổ đại, đơn giản chỉ là đắp đê cho cao và khơi thông dòng chảy cho rộng, việc trị thuỷ hiện đại có nhiều chuyện phức tạp hơn thế…

chân hoàn truyện

Hiếm khi xem phim cung đấu nào “say mê” như Chân Hoàn truyện! Mọi người là biết em “xem thường” tất cả những thể loại cung đấu, gia đấu, cổ trang, ngôn tình, tiên hiệp, kiếm hiệp, xuyên không, etc… và tất cả những thể loại “kỳ quái” mà điện ảnh phổ thông TQ sản sinh ra! Ấy thế mà xem phim này kỹ lưỡng, cứ vài phút lại bấm dừng để đọc phụ đề tiếng Hoa xem nó viết cái gì! Những tình tiết gay cấn, giật gân em chả quan tâm, dung nhan, trang phục đẹp đẽ em cũng chả quan tâm, nói như một câu thoại rất nổi tiếng trong phim: 你如今几岁了? – Nhĩ như kim kỷ tuế liễu!? Anh đến nay đã bao tuổi rồi ấy nhỉ!? (là câu cảm thán, không phải hỏi tuổi thật). Quan tâm ở đây là các lời thoại, ngôn từ diễn tả những tình huống phức tạp trong cuộc sống, thành ngữ, cổ văn, thơ ca, điển cố… được sử dụng trong kịch bản phim! Người TQ họ có một thế giới siêu phong phú, phức tạp những cách diễn đạt để mô tả những mối quan hệ xã hội chồng chéo, phức tạp, tế nhị…

Những tình huống có tính chất kinh điển của lịch sử, của cuộc sống! Chính cái nguồn khổng lồ những cách diễn đạt ấy làm cho đời sống tâm hồn họ phong phú! Chính cái kho ngữ vựng – corpus to lớn ấy nói lên được sự nhận thức có chiều sâu về thế giới xung quanh! Từ cái phim Chân Hoàn truyện này, giới trẻ TQ “lượm” ra được vô số câu thoại “đắt giá” đề xài trong những tình huống cuộc sống hàng ngày, trở thành một kiểu “thành ngữ mới”! Phần lớn những lời thoại “đắt” trong phim đều viện dẫn văn thơ cổ và gần như không thể dịch, hầu như là mất khi chuyển sang tiếng Việt. Cái kho corpus này VN tuy cũng có học, nhưng chỉ được phần nhỏ! Đơn cử một ví dụ: Cẩm thượng tú hoa vô nhân ký, Tuyết trung tống thán tình ý thâm – 锦上绣花无人记,雪中送炭情意深。。。 – Thêu hoa trên gấm không ai nhớ (gấm là loại vải dệt nhiều hoa văn, thêu hoa trên gấm ám chỉ việc làm hoa mĩ nhưng thừa thải, sáo rỗng), Ngày tuyết lạnh gởi than củi đến mới thực là chân tình!

xe lửa

Anh chàng người Anh, chắc đã sống ở Trung Quốc khá lâu và khá rành văn hoá TQ, và cái kiểu khôi hài, châm biếm ngấm ngầm: các bạn hãy nhìn mà xem, các thể loại tàu và xe ở TQ, và nhìn lại xe lửa ở nước Anh mà xem, ôi, cái nước Anh khốn khổ của tôi, ấy vậy mà nó lại là nơi phát minh ra tàu hoả đấy, ôi, ôi cái nước Anh thảm hại của tôi! Rất nhiều người, thậm chí nhiều người châu Âu, đi TQ về đều thấy như thế: thành phố sạch sẽ, ngăn nắp, được tổ chức tốt, an ninh và an toàn tuyệt đối, camera giám sát khắp mọi nơi, mua một cái SIM điện thoại xài tạm một tuần cũng phải xác minh nhân thân, người dân thân thiện, hiếu khách, tuy chưa so được, nhưng một số mặt, nhất là an ninh công cộng và thanh toán không tiền mặt là đã vượt qua châu Âu!

Quay lại cái xứ Vịt trời đánh, đĩ điếm và lưu manh vẫn lộng hành nơi nơi, truyền thông bẩn và giang hồ mạng vẫn tìm cách gieo rắc FUD: Fear, Uncertainty, and Doubt! Cái này dịch như nhạc sĩ Phạm Duy là rất hay, rất đắt, chúng ta đang sống trong một thời đại: Sợ hãi, Hoài nghi, và Khinh thị, chính thực là như thế! Mà những thành phần bất hảo của xã hội, chúng nó vẫn y một chiến thuật cũ rích, cứ lảm nhảm suốt những thứ tào lao thiên địa, không bằng không cứ, đánh vào đám đông với dân trí thấp lè tè ngọn cỏ! Muốn xử đám này thì buộc phải mạnh tay như TQ: chứng cứ đâu, xác minh nhân thân mày là ai!? Nói nghe có vẻ khắt khe, nhưng không có quyết tâm dẹp bỏ những thứ xàm xí, lưu manh thì làm sao đạt được tiến bộ xã hội!?

row planting

Người Trung Quốc bắt đầu trồng một số loại cây, rau, hoa màu, ngũ cốc theo luống từ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Trồng theo luống tuy mất nhiều công sức lao động, nhưng đem lại nhiều lợi ích! Thứ nhất là kiểm soát được mật độ gieo hạt, không phung phí hạt giống! Thứ nhì là bảo đảm cho mỗi cây một không gian phát triển vừa đủ, không thừa, không thiếu! Thứ ba là tiếp cận để tưới nước, bón phân, chăm sóc, thu hoạch dễ hơn! Và thứ tư là chống chọi với gió bão tốt hơn!

Kết quả là năng suất lương thực tăng lên rõ rệt! Chuyện đơn giản như vậy, mà mãi đến khoảng thế kỷ 17, 18, người châu Âu sang TQ mới thấy và học làm theo, những… 2200 năm sau, trước đó họ vẫn canh tác sao cho lợi về sức lao động mà thôi! Nên không cần phải “triết học” rồi “tư tưởng” cao xa, chính những điều đơn giản nhưng làm thay đổi Quốc kế – Dân sinh, đó mới chính là những điều quan trọng! Mà những chuyện lặt vặt, nhỏ nhặt, không ai thèm để ý đó, thì người TQ… rất giỏi!

đường & biểu

Đại từ xưng hô là vô cùng phong phú trong tiếng Hoa, thể hiện nhu cầu giao tiếp xã hội phức tạp! Về quan hệ họ hàng thì tiếng Việt mượn tiếng Hoa hầu hết, nhưng vẫn có từ không mượn, hoặc mượn nhưng ngữ nghĩa khác biệt đôi chút! Chú (thúc – ), bác (bá – ), xưa hay nói: anh em thúc bá, tức là anh em họ con chú, bác! Tiếng Trung hiện đại ít dùng chú – thúc, đều dùng bá, không phân biệt tuổi! Cô (cô – ): chị em của bố, không phân biệt tuổi, nhưng cũng có nơi ở VN, chị của bố gọi là bác thay vì cô, cách gọi này theo tôi không hợp lý lắm vì thúc, bá nguyên là vai nam! Vợ của chú thì gọi là thím (thẩm – ), vợ của bác gọi là mỗ – (tiếng Việt không mượn từ này). Nhưng cả 2 từ này đều ít dùng trong tiếng Trung hiện đại!

Dì (di – ) chị em gái của mẹ, cậu (cữu – ) anh em trai của mẹ, đều không phân biệt tuổi! Vợ của cậu thì gọi bằng mợ (ma – ), chồng của cô gọi bằng dượng (trượng – ), nhưng ở VN thì tuỳ, có nơi gọi là bác, không hợp lý lắm, chồng của dì thì cũng gọi bằng dượng, nhưng có nơi không có danh xưng! Anh em họ ở VN không có danh xưng, TQ thì dùng biểu – và đường ! Nhưng ngay người TQ cũng đôi khi nhầm lẫn giữa đường và biểu! Chỉ dòng nam chính (con chú, bác) thì mới được gọi là đường: đường huynh, đường muội, còn lại đều là biểu: biểu ca, biểu tỷ! Tất cả thể hiện những mối quan hệ phức tạp, mà phức tạp, đáng sợ nhất của xã hội Á Đông lại chính là từ trong gia đình đi ra, còn quan hệ xã hội phổ thông đôi khi lại dễ dàng!

đạo diệc hữu đạo

Công nhận phim Trung Quốc làm càng lúc càng có nội dung, lời thoại cực thông minh, hình cắt từ trong phim ra, nhưng chữ thì ghép lại từ 3 màn hình riêng biệt cho trọn câu dễ đọc, chính là lấy từ cái câu: Đạo diệc hữu đạo – 盜亦有道, không biết là đang khen hay là đang mỉa mai nữa?! Dạo này bận nhiều việc, nhức đầu nên cuối tuần chỉ muốn nằm dài xem phim, chả buồn làm gì, haiza…

Nhiều người bảo, về kinh tế, VN có quy mô cỡ bằng một tỉnh của TQ, câu này… rất không đúng! Sợ là so với một huyện, một thành phố của họ còn khó. Ví dụ như huyện Tô Châu, tỉnh Giang Tô đã có GDP 330 tỷ đô, gần xấp xỉ VN (360 tỷ), còn thành phố Thượng Hải thì có GDP cỡ 630 tỷ, gần gấp đôi VN! Tính bình quân đầu người, năng suất lao động của người TQ cao hơn người VN đến 3, 4 lần!

phong sát

Cứ y như rằng khi có một nhân vật “nghệ sĩ” nào đó bị “phong sát”, “cấm sóng” ở Trung Quốc là đám báo chí rẻ tiền Việt Nam lại lên tiếng “than vãn, cạnh khoé, phẫn nộ, bất bình thay”… em đẹp như thế, em có nhiều tiền như thế, em là nghệ sĩ thành công như thế, sao lại bị đối xử bất công như thế, vâng vâng và vâng vâng!

Họ không hiểu quan điểm của nhà cầm quyền, thể hiện qua mấy câu: Quân tử ố kỳ văn chi trứ君子恶其文之着 – Người quân tử ghét cái vẻ loè loẹt bề ngoài (nhưng rỗng tuếch bên trong), và: Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền圣人不得已用权 – Thánh nhân bất đắc dĩ mới phải dùng đến quyền lực (để uốn nắn, trấn áp)!

lững lờ, lửng lơ

Bữa trước tự dưng để ý một chút về chính tả: từ “lững lờ” phải viết bằng dấu ngã (vì “lững” đi kèm với từ có âm trầm – lờ – huyền, ngã, nặng), còn “lửng lơ” thì lại phải viết dấu hỏi (vì “lửng” đi kèm với từ có âm phù – lơ – ngang, sắc, hỏi). Mà “lững lơ” và “lửng lờ” tuy không chính xác là cùng nghĩa, nhưng rất gần nghĩa với nhau! Đây cũng chính là “mẹo” để viết cho đúng chính tả tiếng Việt, chú ý thanh của từ đi kèm. Trước đã có viết một bài về 8 thanh (không phải 6) trong tiếng Việt, trong đó Khứ – và Nhập – nhân với hai bậc Phù – Trầm tạo thành 4 thanh cả thảy, nhưng lại chỉ được ghi bằng 2 ký hiệu là “sắc” và “nặng”.

Về thanh Thượng – , thượng phù tức là hỏi, thượng trầm tức là ngã, với tiếng Việt hiện đại ngày nay, hỏi hay ngã hầu như không phân biệt! Nhưng dấu vết trong từ điển thì vẫn còn đó, ví dụ: hải – biển – và hãi – sợ – ! Câu hỏi đau đầu được đặt ra là: tại sao những người làm ra hệ thống ký âm Quốc ngữ, rõ ràng là không phân biệt được “Khứ – Nhập – Phù – Trầm”, nhưng lại bảo lưu “hỏi – ngã”, điều đã chết từ lâu tại thời điểm đó!? Đây chính là “hoá thạch” của một đặc trưng ngôn ngữ đã “tuyệt chủng” chỉ còn bảo lưu trong sách vở! Không nên cực đoan đến mức phải bỏ “hỏi & ngã”, bởi ngôn ngữ vốn dĩ là “võ đoán” như thế!

từ nguyên: khai căn, luỹ thừa, giai thừa

Một chút về các thuật ngữ toán học cơ bản. Ví dụ: “khai căn – 开根“, khai là mở, căn là gốc, 2×2=4, 2 được xem là gốc của 4, 4×4=16, 4 được xem là gốc của 16. Trong tiếng Anh, từ “square root” cũng chính là mang ý này, “root” lấy nguồn từ tiếng Latin “radix”, bản thân từ này là chuyển ngữ của “jadhr” trong tiếng Ả-rập, và có lý do để nghĩ rằng tất cả đều quay về từ “gốc – căn – 根” trong Hán ngữ cổ!

Rất có thể là những người Ả-rập đã học từ nguồn Trung Quốc hay Ấn Độ cổ đại! Một ví dụ tiếp nữa là từ: “luỹ thừa – 累乘“, luỹ là nối tiếp nhau, thừa là phép nhân, nên “luỹ thừa” là phép nhân một số với chính nó, nhân lên nhiều lần. Cũng tương tự như vậy, “giai thừa – 阶乘“, giai ở đây là bậc thềm, nên giai thừa chính là nhân một số với những số nhỏ hơn nó, giảm dần về 1 như hình giảm từng bậc của một bậc thang!