tiếng còi trong sương đêm

Giờ mới biết tác giả của ca khúc này chính là nhạc sĩ Hoàng Việt, người trước khi đi kháng chiến, đã từng có một thời gian hoạt động âm nhạc tại Sài Gòn với bút danh Lê Trực (rút gọn từ tên thật của ông là Lê Chí Trực). Thêm một chút thông tin về ca khúc nổi tiếng nhất của ông, bài Tình ca (nghe ở đây qua giọng ca Quốc Hương), chính là lấy cảm hứng từ và đặt theo tên của tác phẩm Tình ca – Phạm Duy.

Bến nước gió rét đò thưa khách sang, lau xanh ven sông mờ run bóng trăng. Đêm nay không gian chìm trong giá băng, con đò sang ngang… Tiếng còi trong sương đêm theo gió đưa ôi buồn, nghe vi vu oán than, thôi toán quân đi rồi, thôi toán quân đi rồi…

the red army choir – 2

Distinctively characterized by fast tempos, lively rythms, beautiful melodies, and usually with very “major” moods, Russian folk songs are energetic, full – of – life, and thus very interesting. Taken the song “Farewell of Slavianka” for example, there’re various different verses made for one same tune: the Tsarist version, the Soviet versions, the “Putin era” versions… That speaks up one thing: while wordings could be changed across different periods of history, the tune stays the same, which helps forming up the “national identity” that’s passed down for many generations.

Nhạc Nga thường rất khác biệt: tốc độ nhanh, tiết tấu sôi động và giai điệu đẹp, thường đi kèm với cái mood – tâm trạng rất “trưởng”, do đó tạo nên một loại âm nhạc đầy năng lượng, đầy sức sống. Lấy bài “Từ biệt em gái Sla – vơ” làm ví dụ, có vô số lời hát khác nhau: phiên bản thời Sa – hoàng, các phiên bản thời Sô – viết, các phiên bản “thời Putin”… nhưng chỉ có một giai điệu. Nó nói lên một điều: dù từ ngữ có thể khác nhau qua những giai đoạn lịch sử khác nhau, nhưng âm nhạc thì vẫn thế, đó chính là cái “bản sắc dân tộc” truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Katyusha

Kalinka

Smuglianka

Those were the days

Moscow nights

The sacred war

Victory day

Russian anthem

the red army choir – 1

Russian music has a fair share in my “favourite collections”, both “Soviétique” and “non – Soviétique” types. At first glance, one may say: Oh, communism really knows how to motivate people! In a deeper look, one may see a continuous folklore tradition which traces back centuries into history, into the age – old Slavic and Asiatic origins, very long before Pyotr Ilyich Tchaikovsky was trying to figure out and build up the so – called: “Russian identity” in music.

Nhạc Nga chiếm một phần khá lớn trong số những nhạc phẩm yêu thích của tôi, dù là nhạc Sô – viết hay không. Mới nghe qua, người ta thường bảo: Oh, CS thật biết cách động viên quần chúng! Nhìn sâu xa hơn, có thể thấy một truyền thống dân ca có cội nguồn sâu xa nhiều thế kỷ, có gốc gác Sla – vơ và Á – châu cổ xưa, rất lâu từ trước khi Pyotr Ilyich Tchaikovsky từng trăn trở về việc tìm kiếm, xây dựng nên cái gọi là “bản sắc Nga” trong âm nhạc.

Let’s go!

Cossack rides over the Dunai

When we were at war

You tricked me

Farewell of Slavianka

Stand up for faith Russia!

We are the army of the people

USSR anthem

the left ear

Yêu, nếu như đúng thì gọi là ái tình. Yêu, nếu như sai thì gọi là tuổi thanh xuân – When love lasts, it’s true love, when it doesn’t, it’s youth! 爱对了是爱情。爱错了是青春。。。

uổng ngưng mi

枉凝眉

Đàn cổ tranh và diễn xướng, bài Uổng ngưng mi, chính là bài nhạc giáo đầu phim Hồng lâu mộng phiên bản 1987. Càng nghe càng thấy “nể và sợ” gia tài văn hoá, thi ca, âm nhạc cổ điển Trung Hoa. Mặc dù với thời gian, chiến tranh, loạn lạc… nhạc phổ các thời Tống, Nguyên trở về trước hầu như đã tiêu tán, thất truyền hoàn toàn, nhưng nhạc phổ của các triều Minh, Thanh vẫn còn được bảo tồn khá nguyên vẹn cho đến ngày nay!

Một bên hoa nở vườn tiên,
Một bên ngọc đẹp không hoen ố màu.
Bảo rằng chẳng có duyên đâu,
Thì sao lại được gặp nhau kiếp này?
Bảo rằng đã sẵn duyên may,

Thì sao lại chóng đổi thay lời nguyền?
Một bên ngầm ngấm than phiền,

Một bên đeo đẳng hão huyền uổng công!

Một bên trăng rọi trên sông,

Một bên hoa nở bóng lồng trong gương.

Mắt này có mấy giọt sương,

Mà tuôn chảy suốt năm trường, được chăng?

sơn pha dương

山坡羊

Coi mãi không chán, đoạn này, Quách Tĩnh cõng Hoàng Dung lên núi cầu xin Nhất Đăng đại sư trị thương, gặp người Tiều phu, một trong bốn đệ tử của Nhất Đăng. Đoạn phim không có đánh đấm gì, đơn giản chỉ là “khoe” kho tàng văn hoá cổ Trung Quốc! Người tiều phu thoạt tiên hát một điệu Sơn pha dương, bài Hàm Dương hoài cổ, rồi lại tiếp tục hát theo điệu đó, một bài Đồng Quan hoài cổ.

Hoàng Dung bèn đáp lại cũng bằng một bài theo điệu Sơn pha dương – Đạo tình. Phải hiểu cổ văn thì mới cảm nhận hết được cái hay tuyệt diệu của trường đoạn phim này, hai người đối đáp với nhau chỉ toàn dùng thơ và nhạc, trích dẫn ba bài thơ đời Nguyên và một điệu nhạc “Sơn pha dương”. Đồng thời cũng thấy rõ dụng tâm, công phu dàn dựng đoạn phim, giới thiệu đồng thời cả cổ văn và cổ nhạc Trung Quốc!

ngũ bách niên tang điền thương hải

五百年桑田滄海

Lại nói về phim Tây Du Ký. Những năm 80, xã hội TQ bắt đầu có chút cởi mở, người làm phim mượn hình ảnh Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành suốt 500 năm để khéo léo phản đối nhà cầm quyền: Ròng rã năm trăm năm, Ruộng dâu hoá bể xanh, Đá mòn rêu xanh bám, Nhưng trái tim vẫn lành. Vẫn hướng về tự do, Ngại chi ngày lửa đỏ… May mắn đây đã là những năm của “Lão Đặng” với cái lý luận “mèo đen, mèo trắng”…

Năm trăm năm, vật đổi sao dời,
Đá vô tri cũng ngậm ngùi rêu xanh.
Năm trăm năm! năm trăm năm!
Ngũ Hành Sơn nặng, giam cầm thân ta.
Bao ngày tuyết nổi, sương sa,
Cuối trời hút bóng, mắt nhoà cánh chim.
Còn đây rạo rực trái tim,
Thương về chốn cũ, mãi tìm tiêu dao.
Anh hùng ngang dọc trời cao,
Sá chi lửa đốt, sợ nào giá băng.
Vẫn nguyên chí hướng tung hoành,
Lòng tin ở lẽ công bằng vẫn nguyên.
Tiếc thay năm tháng triền miên,
Trách ta, thành kẻ than phiền, vô công.
Vì sao, vì sao? Chí tang bồng,
Thành thân cá chậu, chim lồng hỡi ai!?

tháng năm vội vã

匆匆那年

Tháng năm vội vã – Thông thông na niên – 匆匆那年, một phim hay cho độ tuổi trung niên (và cho cả những người đã lớn muốn soi lại quãng đời tuổi trẻ đã qua). Tuy không phải là một phim quá xuất sắc trong cảm nhận của tôi, nhưng phim có một bản nhạc cùng tên tuyệt vời, với giọng hát như mây bay, nước chảy, như gió thổi của Vương Phi, và cái tiết tấu vội vàng của nó, như những hình ảnh mau chóng lướt qua, những hồi ức đẹp đẽ về những tháng năm tuổi trẻ say mê và khờ dại. Trong con mắt khán giả phương Tây, những nhân vật chính trong phim hiện ra có chút nông nổi, thiếu kiềm chế và nhẫn nại trước những sóng gió trong cuộc đời, để rồi cuộc tình có nhiều hệ luỵ đau thương.

Nhưng đó chính là những gì diễn ra trong một xã hội đang trên đà thị trường hoá, những khủng hoảng “giá trị cá nhân”, ai cũng mãi chạy theo “một điều gì đó”. Cũng là những gì tuổi trẻ chưa thể có, chưa hiểu thấu chính mình, chưa lường hết những ngã rẽ cuộc đời. Ca từ viết rất hay, có thể gián tiếp nói lên những điều vốn rất khó thành từ ngữ: Đừng trách mối tình không có thời gian để tập luyện, chính là tháng năm đã khoan dung ban tặng thời gian để chúng ta quên đi lời hẹn ước. Đừng trách ai cũng không thể có một lần yêu trọn vẹn, chính là thời gian đã thiện ý lưu lại những vấn vương vụn vỡ. Bởi chúng ta đã không hiểu rằng những lời hứa mãi bên nhau cố chấp ấy chỉ là những lời báo trước chia tay.

once upon a time in odessa

Ngày xửa ngày xưa ở Odessa, một film Nga mới làm sau này, hình ảnh, ánh sáng cực đẹp, nhiều sound – track nhạc Nga & Ukraina siêu hay. Film về một tướng cướp, trùm giang hồ Odessa, về sau là một chỉ huy Hồng quân, tất cả đều là sự thật lịch sử. Việt Nam cũng có nhiều hình tượng giống y như thế: Trung tướng Nguyễn Bình, Thiếu tướng Dương Văn Dương, Đại tá Mai Văn Vĩnh, .v.v…

cổ nhạc

Trích đoạn “đẹp nhất, hay nhất” trong Hoàn Châu cách cách đám cưới của Hạ Tử Vy và Tiểu Yến Tứ, xem đi xem lại hàng trăm lần ko biết chán! Chính là từ phút 1:20 đến phút 2:20, một điệu múa và một điệu nhạc cổ, các cô nương áo hồng, vũ đạo trên nền nhạc kèn & trống.

Tuy chưa truy ra đc nguồn gốc của nhạc & vũ này, cảm thấy có đôi phần đã “cải biên, hiện đại hoá”, nhưng có thể nhận định phần lớn là “nguyên bản”! Film truyền hình dĩ nhiên không thể “chất lượng” như film điện ảnh, nhưng thi thoảng vẫn nhặt ra được vài “viên ngọc” từ kho tàng văn hoá cổ!

17 moments of spring – somewhere far away

Oh my pain, I beg you to leave me, at least just for a while. Oh my cloud, the bluish cloud, do you fly to my dear home? Oh my shore, my beautiful shore, please show yourself, from afar, just a blury outline, my lovely – tender shore. I would like to swim to you, at least some day.

Somewhere far away, somewhere very far away, mushroom – shaped rain is falling through the sunshine. Somewhere far away, somewhere in my memory, it’s getting warm just like in my childhood, though my memory now is covered under thick layers of snow…

ký ức tuổi thơ

Ký ức tuổi thơ… cũng từng tập tành tham gia bện dây thừng cho ghe chài, giống y như trong video này, chẳng máy móc gì, toàn quay tay thủ công mà thôi! Đã từng có một thời ngăn sông cấm chợ, tự cung tự cấp, người ngư dân không thể mua gì, hoặc không có để mua, phải tự làm tất cả, làm thừng, may lưới, tự đóng, sửa thuyền…

Russian Victory Day Parade 2018

Như thông lệ, ngày này hàng năm, gấu Nga lại khoe cơ bắp! Năm nay đặc biệt khoe người ít, khoe vũ khí nhiều. Quảng trường Đỏ với 2 nhà thờ Kazan và Basil nằm ở 2 đầu dường như đã trở nên quá chật hẹp để khoe những dàn vũ khí, khí tài “khủng”, một số là những loại “sử dụng các nguyên tắc vật lý mới”, “độc nhất vô nhị trên toàn cầu”. Stalin từng ra lệnh phá dỡ cả 2 nhà thờ Kazan & Basil, lấy chỗ rộng rãi để duyệt binh. Các kiến trúc sư thời đó đã cố gắng hết sức nhưng chỉ cứu được 1 trong 2, bằng cách biến Basil thành viện bảo tàng…

Cách duy nhất có thể cứu một công trình tôn giáo khỏi bị phá huỹ trong cái thời khắc nghiệt đó. Kazan mới được xây dựng lại như cũ sau này. Phần lễ, nhạc đã được rút ngắn đáng kể so với thời Sô-viết. Nhưng cũng là cái giọng đọc “basso profondo” (giọng nam siêu trầm) đó, giống y như của Yuri Levitan, phát thanh viên radio nổi tiếng thời WW2, chất giọng đầy uy lực, dể dàng khiến người ta lạnh gáy: “Vnimanie, vnimanie, govorit Moskva…” – “Chú ý, chú ý, Mát-cơ-va đang nói…”

river sailboats

Sail boats in the 60s, cut from a Vietnamese documentary. Bamboo mast, sail of a simplistic design, diagonally mounted rectangular – shape canvas, possibly river – only transportation, sail and oar boats.

gold plated

Some where on the Cầu Hai lagoon, near Tư Hiền river mouth, Thừa Thiên Huế province, central of Việt Nam. Silhouette of a small bamboo – woven boat paddled by two man in a very scenic, gold – plated sunset.

serene – 3, part 28

I took the kayak out for several more paddling around my area, 12 ~ 24 km, and also took a few video shots, mostly from second – person positions. I want to observe the whole boat under action, its motions and its wakes, etc… I also want to see how the rudder works, to check if the hull need some trimming, as well as to observe my own paddling movements. Actually, I’m very lazy for video capturing (and editing), they’re time consuming jobs, I’d better concentrate just on paddling.

I made a new seat from plywood, of a very simple design, composed of 3 pieces of ply bended into curved forms around a frame made from MDF. This batch of plywood is really good, no cracks, no breakages even though tortured to extreme shapes. The seat is bolted onto two “hip braces”, connecting the cockpit coaming and the floor, providing a comfortable seat, and together with the rudder pedals, offer a very tight fit for my lower body, required to control the boat in turbulences.

The overall evaluation for Serene – 3 is very satisfying, the boat behaves very well, and very predictable under different conditions. Its stabilities enable me to lean the boat to extreme angles without falling, and I really enjoy its agility, which reacts instantly to my different paddle strokes. The hatches are completely waterproof, the rudder has (more than) enough steering power, and the electric – bilge pump system works just fine. More trialling ahead on this Lunar new year holiday.

cossacks – 1

Giống như khi phái đoàn ngoại giao Grand Embassy của Sa Hoàng Peter the Great lần đầu tiên sang châu Âu, những ban nhạc cung đình châu Âu biểu diễn âm nhạc cổ điển sang trọng, lịch sự, từ tốn. Để đáp lại, dàn nhạc của Peter biểu diễn một thứ âm nhạc với huýt sáo và hò hét. “Cũng tương tự”, muốn nghe hò hét, huýt sáo trong không gian âm nhạc thính phòng, hãy xem Alexandrov Ensemble biểu diễn tại Anh năm 88, một trong những bài dân ca Slavơ nổi tiếng nhất…

Cossack không phải là một dân tộc riêng biệt, mà chỉ là một sub – culture trong không gian văn hoá Slavơ chung: Nga, Ucraina, Belarus… Từ thời xa xưa, họ sống trên các thảo nguyên, lối sống trồng trọt, chăn thả, giỏi về chiến đấu trên lưng ngựa. Trong tất cả các thời đại, từ thời các Sa hoàng đến thời Sô – viết, và hiện đang thấy rất rõ trong giai đoạn nước Nga Putin hiện đại, Cossack vẫn luôn luôn là “cơ bắp” của chế độ: giữ gìn, mở rộng biên cương, trấn áp nội gian, nội loạn.

the final count down

Ai cũng biết bài hát xưa như trái đất này, nhưng mấy người biết nó nói về cái gì!? “The final count down” – lệnh đếm ngược: 9, 8, 7… 3, 2, 1… Preliminary stage, Intermediate, Main, Lift – off… đọc lời bài hát sẽ rõ, ngồi trên hàng trăm tấn thuốc nổ, trong một tích tắc là đi vào lịch sử (hoặc trở về với cát bụi)!

We’re leaving together, but still it’s farewell. And maybe we’ll come back to earth, who can tell? I guess there is no one to blame. We’re leaving ground. Will things ever be the same again? It’s the final countdown! We’re heading for Venus and still we stand tall. Cause maybe they’ve seen us and welcome us all, yeah. With so many light years to go and things to be found. I’m sure that we’ll all miss her so. It’s the final countdown!

Peter the Great

Hàng năm, vào ngày 30 tháng 7, sinh nhật của Sa hoàng Peter I (vừa qua), chiếc thuyền buồm nhỏ 400 năm tuổi này lại dẫn đầu đoàn diễu hành kỷ niệm Ngày thành lập Hải quân Nga trên sông Neva. Sau 400 năm, con thuyền 7m đóng bằng gỗ sồi này cỡi trên boong một con tàu khác chứ không thể tự bơi như trước. Tất cả chiến hạm của Hải quân Nga đều phải nghiêm chào khi con thuyền này đi qua. Peter I tìm thấy chiếc thuyền buồm trong nhà kho của ông nội, và học cách điều khiển nó năm 14 tuổi. Vài năm sau, ông tự tay đóng những chiếc thuyền buồm khác, “from keel to mast” – từ đáy lên tới đỉnh, và sau đó giong thuyền hàng trăm cây số trong bão tố trên vịnh Baltic, mặc cho bà mẹ của ông sợ hãi can ngăn.

Một cậu bé siêu tò mò và hiếu động, lập ra những “đại đội” đầu tiên từ các gia nhân, những người hầu cận của mình để chơi đánh trận giả. Hơn 3000 thiếu niên được huy động để lập nên hai trung đoàn: một đóng vai quân xanh, một đóng vai quân đỏ, và để xây dựng những pháo đài gỗ cho các trò chơi của cậu bé này. Ngày qua ngày, các chàng trai đó lớn dần lên, trò chơi trận giả ngày càng trở nên thật hơn. Đến một lúc, họ tập trận với gươm thật, súng thật, và từ đó trở thành 2 trung đoàn PreobrazhenskySemenovsky, đội ngự lâm quân của các Sa hoàng sau này. Những cậu bé chơi trận giả với Peter, về sau, đa số đều trở thành những sĩ quan thành danh trong các đơn vị quân đội khác nhau của vương quốc.

Không quan tâm nhiều đến sách vở, chỉ ham mê các trò chơi vận động. Nhưng ham thích thuyền buồm, nên đã học toán, học thiên văn để biết cách dùng kính lục phân (sextant), đã học nghề mộc, học cách tự may buồm, học cách rèn đúc đại bác, vũ khí, và tất cả những nghề nghiệp có liên quan khác. Năm 1697, lúc 25 tuổi, Peter du hành ẩn danh (incognito) qua nhiều quốc gia châu Âu, dừng chân 4 tháng ở Amsterdam để học nghề mộc đóng thuyền. Trong suốt thời gian 4 tháng này, ai gọi Peter là “bác cả” (thợ mộc) thì ông trả lời, còn ai gọi là “điện hạ”, “hoàng thượng” thì ông làm lơ không đáp. Peter đến Đức, Anh, Áo và nhiều quốc gia châu Âu khác, học hỏi mọi thứ có thể trên đường đi, nhất là những tiến bộ kỹ thuật!

Bản thân Peter thành thạo hơn 16 nghề, thành thạo thật sự chứ không phải chỉ làm cho có. Cuộc hành trình 2 năm ở châu Âu đã đem về Nga hàng chục ngàn đầu sách, đích thân Peter phỏng vấn và tuyển chọn gần 1000 chuyên gia nước ngoài để phục vụ cho việc đóng tàu, khai khoáng, luyện kim, chế tạo vũ khí, huấn luyện binh lính, etc… Họ được trả một mức lương hậu hĩnh để phục vụ trong quân đội, hải quân, trong chính quyền và các ngành nghề công nghiệp khác của Nga. Nên biết rằng lúc này châu Âu đã qua kỷ nguyên Ánh sáng và chuẩn bị bước vào kỷ nguyên Công nghiệp hoá, trong khi nước Nga vẫn còn là một quốc gia trung cổ cực kỳ lạc hậu, đơn thuần nông nghiệp dựa trên chế độ “nông nô” (serfdom).

Để mở mang bờ cõi, phía Nam, Peter xây dựng hạm đội biển Đen và gây chiến với Thổ Nhĩ Kỳ. Phía Bắc, ông lập nên hạm đội biển Baltic và tuyên chiến với Thuỵ Điển, quốc gia hùng mạnh nhất châu Âu lúc bấy giờ. Hai hạm đội này, lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga, mở được đường ra biển, giao thương với châu Âu và thế giới. Trước đó, người Nga hầu như chưa biết biển là gì! Peter khởi đầu với vị trí bombardier – pháo thủ, tự tay kéo pháo, tự tay nhồi đạn. Ông làm việc trên công trường đóng tàu như một người thợ mộc bình thường khác. Suốt mấy chục năm chinh chiến, ông được “thăng chức” bởi… chính các tướng lĩnh của ông, dần dần sau mỗi trận chiến, từ đại uý, đại tá và cuối cùng là đại tướng.

Mặc dù hiển nhiên, Sa hoàng mới thực sự là người chỉ huy cao nhất. Tất cả giống như là một vở kịch lớn, một trò chơi lớn, tiếp nối những trò chơi trận giả lúc nhỏ. Lúc đang xây dựng thành phố mới St. Peterburg, dự tính sẽ là thủ đô mới của nước Nga bên bờ vịnh Baltic, Peter sống trong một ngôi nhà gỗ 3 gian tạm bợ, với người vợ, sau này là nữ hoàng Catherine. Trong suốt nhiều năm, Catherine tự tay nấu ăn và giặt giũ, chăm sóc con cái, còn Peter tự tay làm vườn, họ sống như một cặp vợ chồng nông dân bình thường khác, trong căn nhà gỗ nhỏ thậm chí không có ống khói. Thư từ gởi đến và đi, đề tên là Peter Mikhailov, chứ không phải là Sa hoàng. Căn nhà này bây giờ trở thành một viện bảo tàng ở thành phố St. Peterburg.

Catherine, một phụ nữ gốc gác nông dân, “xuất thân hèn kém”, cả đời không biết đọc và viết, nhưng theo chồng Nam chinh Bắc chiến, chia xẻ mọi khó khăn, cực khổ, hiểm nguy trên chiến trường, nhiều khi còn tự tay nấu ăn cho lính tráng. Bà cứu mạng chồng mình trong một lần thua trận, bị quân Thổ Nhĩ Kỳ bao vây, bằng sự thông minh khôn khéo và can đảm của mình. Còn những khi chiến thắng trở về, Sa hoàng Peter, trong quân phục một đại uý, diễu hành qua cổng Khải hoàn môn ở Mát-cơ-va, đi phía sau những tướng lĩnh chỉ huy của ông như một người lính bình thường nhất. Giới quý tộc truyền thống Nga nhìn vào Hoàng đế của họ với tất cả những sự ngỡ ngàng, khó hiểu, xen lẫn với tức tối và bất mãn.

Công cuộc lột xác của nước Nga từ một nước nông nghiệp trung cổ lạc hậu, bước sang công nghiệp hoá trải qua nhiều đau đớn. Bản thân giới quý tộc không muốn từ bỏ các đặc quyền đặc lợi. Bản thân Nhà thờ Chính thống giáo không muốn mất đi các đất đai sở hữu và những quyền lợi khác. Peter đã ra lệnh tháo tất cả chuông của tất cả Nhà thờ trên toàn thể lãnh thổ Nga xuống để lấy đồng đúc súng đại bác, một hành động mà sau đó ông bị xem là “anti – Christ”. Giới quý tộc được lệnh phải văn minh hoá, phải học theo kiểu cách Tây phương. Áo choàng dài bị cắt ngắn, những hàm râu quai nón rậm rạp đặc trưng của quý tộc Nga bị cạo sạch, ai còn muốn để râu phải đóng “thuế râu”, phải trả một khoản tiền lớn.

Con em các nhà quý tộc và thơ lại được gởi đi châu Âu, học ngoại ngữ, học toán, học luyện kim, đóng tàu, kiến trúc, xây dựng, etc… và tất cả những ngành nghề cần thiết khác. Thể chế dựa trên đặc quyền, đặc lợi xa xưa dần dần bị bãi bỏ, tất cả được xây dựng lại trong một hệ thống dựa trên tài năng và công trạng. Thăng tiến trong chính quyền hoàn toàn dựa trên những thành quả đạt được. Và những đổi thay đó rất đau đớn, ở đây thể hiện một mặt khác trong cá tính con người Peter, một sự tàn bạo đến khát máu, sẵn sàng ra lệnh treo cổ hàng ngàn người chỉ trong một ngày, tất cả những ai dám chống đối, dám cản đường ông, tất cả chỉ để thực hiện cho bằng được chính sách “Duy tân” của mình.

Lịch sử nước Nga từ đó bước sang một trang khác, một kỷ nguyên khác, nổi lên như một siêu cường ở châu Âu. Cả châu Âu run sợ trước một thế lực mới, vừa văn minh hiện đại, vừa dã man tàn bạo! Không một ai có được vai trò như của Peter đối với nước Nga, trên tất cả các phương diện: khoa học, kỹ thuật, quân sự, văn hoá, thể chế luật pháp, chính quyền, kiến trúc, xây dựng, etc… Và cũng chỉ duy nhất một mình Peter được sử sách Nga chính thức gọi bằng cái tên: Piotr Veliki – Peter the Great – Peter vĩ đại. Tất cả được kể lại một cách hết sức chi tiết và sống động trong cuốn sách đồ sộ Peter the Great của Alexei Tolstoy, bản dịch tiếng Việt: Pie đệ nhất, một trong những cuốn sách yêu thích nhất của tôi lúc nhỏ.

a sailor’s wedding

A unique event in the Vietnamese recreational boating community, a community that is so small that even a kayaker like me have chances to know other players of other water sports such as sailboat, SUP, motor canoes, free or Scuba diving… And that’s the wedding of my friend, who helps founding and running VTSA – Vũng Tàu sailing club. Assembled together for the parade is 4 big sailboats, 2 monohulls and 2 catamarans.

A small parade with those 4 sailboats, about 20 nautical miles, running from Vũng Tàu city to VietsoPetro resort, where the wedding celebration and party were held on the beach. The weather was so fine, though winds are a bit weak. Taking parts in the parade are the bride and groom, their sailor friends and some invited guesses. Such a special event, and such joyful moments among our friendly circle that we could never forget.