uscgc mellon

Thế là Mỹ đã chuyển giao cho VN 3 con tàu Tuần duyên cũ, một chiếc hạ thủy năm… 1968, một chiếc hạ thủy năm 1969, và một chiếc năm 1972, như vậy 3 con tàu đó đã… 57, 56 và 53 tuổi, hai chiếc già hơn (USCGC Mellon và USCGC Morgenthau) thực sự đã từng tham chiến ở Việt Nam những năm 1968 ~ 1972! Theo các ước tính trong hàng hải, một con tàu đến 40 tuổi được xem là đã rất thành công, sau khi hạ thủy và đưa vào sử dụng khoảng 20 năm, sẽ có một lần “mid-life upgrade – nâng cấp giữa đời”!

Tức là được trông đợi là sẽ phục vụ tiếp nửa phần đời còn lại, thêm 20 năm nữa cho đủ 40 năm. Hơn 50 tuổi đối với một con tàu đã có thể xem là “cổ lai hy – xưa nay hiếm”, dù Nga có một con tàu đã 110 tuổi vẫn còn hoạt động trong biên chế, nhưng đây là ngoại lệ vô cùng hiếm hoi. Ở nhiều nơi khác thì những con tàu này đã bị biến thành… bia tập bắn từ lâu! Điều gì khiến cho những con tàu của họ 60 năm vẫn còn xài được, còn tàu chúng ta đóng ra mới chỉ có vài năm đã xập xệ, xuống cấp, liên tục sửa chữa!?

duy tân

Sau khi đội tàu của Đề đốc Matthew Perry đến Nhật Bản, trước một màn phô trương sức mạnh quá thuyết phục như vậy: những con tàu hơi nước hiện đại, những khẩu pháo Paixhans khổng lồ, chính quyền Tokugawa bị “thuyết phục” hoàn toàn và phải ký các hiệp ước mở cửa nước Nhật ra giao thương với thế giới sau hơn 200 năm khép kín. Matthew C. Perry là một người khéo léo, ông ta tặng người Nhật những khẩu súng lục Colt biệt danh: the peacemaker – người kiến tạo hòa bình, và cũng tặng kèm những động cơ hơi nước nhỏ mang tính trình diễn. Dù vẫn còn phải đánh nhau thêm vài trận nhỏ nữa (Boshin war) để dẹp hoàn toàn các thế lực cản đường trước khi chuyển sang thời Minh Trị duy tân, nhưng ngay lúc đó, người Nhật bắt tay vào những công việc cụ thể để canh tân đất nước.

Một trung tâm huấn luyện hàng hải được dựng lên bên cạnh Dejima, hòn đảo giao thương với người Hà Lan cũ, Tanaka Hisashige được giao nhiệm vụ phát triển các thiết bị điện tín (telegraph), công ty của ông ta sau về trở thành tập đoàn Toshiba lừng danh, và chỉ 2 năm sau thì họ chế tạo thành công động cơ hơi nước đầu tiên, tuy vẫn có một số khiếm khuyết nhưng chạy được. Về cái “nghi án” VN đã chế tạo thành công tàu thủy động cơ hơi nước dưới thời Nguyễn, tôi nghĩ cần phải nói thẳng đây là trò bịp bợm! Sự thực là nhà Nguyễn đã có mua vài chiếc tàu hơi nước nhỏ, nhưng mới dùng được thời gian thì hỏng, không tự sửa chữa được đành xếp xó! Ở VN cũng có người nhận rõ sự cần thiết phải Duy tân, ví dụ như Nguyễn Trường Tộ, ông ta… chăm chỉ viết điều trần gởi lên triều đình!

Tế cấp luận thâu tóm trí khôn của thiên hạ 500 năm nay… Tế cấp luận của tôi nếu đem ra thực hành hàng trăm năm cũng chưa hết… Nếu đọc kỹ Nguyễn Trường Tộ, ta sẽ thấy tư tưởng rõ ràng là có chút tiến bộ, nhưng lời văn vẫn kiểu mắc vào “cái tôi”, loay hoay không giải thích được Duy tân phải bắt đầu từ đâu! Quả thực như vậy, suốt cuộc đời ông ta chăm chỉ viết điều trần, viết đến gần 100 bản, nói thì dông dài quá nhiều nhưng chưa bao giờ thấy động tay chân làm điều gì! Có vẻ như là đã tận lực, đã cố hết sức rồi, nhưng toàn bộ những gì “làm” được chỉ là một mớ ngôn từ bùng nhùng, mơ hồ như thế! Như vậy phải coi lại sức khỏe thế chất, vật lý có vấn đề gì không, có bị khuyết tật chỗ nào hay không, chứ sao cái “dân tộc tính” đến tận ngày nay, mãi vẫn chỉ có nói mà không có làm như thế!?

rangaku

Sau khi tiến hành chiến tranh thống nhất Nhật Bản thành công, Tokugawa Ieyasu nhận được sự chấp thuận của Nhật hoàng để trở thành Shogun – Tướng quân, người cai quản nước Nhật trên thực tế. Xem những thư từ trao đổi giữa chúa Nguyễn (VN) và Tokugawa Ieyasu (Nhật) sẽ thấy một cái giọng điệu rất buồn cười, ai cũng cố tình lờ đi các vị Hoàng đế trên danh nghĩa (Nhật hoàng và vua Lê), cố tình đề cao địa vị “chúa tể” trong thực tế của mình, nhưng cả 2 con dấu đỏ trong các thư từ thì đều chỉ là “Tổng trấn tướng quân” như nhau cả. Và cũng hệt như ở VN (nhưng là ở một thời đại 200 năm trước đó), sau khi đã thống nhất đất nước, “Thố tử cẩu phanh, Điểu tận cung tàng兎死狗烹鸟尽弓藏“, Tokugawa Ieyasu đã tiến hành một chính sách bế quan tỏa cảng khắt khe nhằm làm ổn định xã hội.

Cửa ngõ duy nhất mà Nhật Bản mở ra với nước ngoài trong suốt hơn 200 năm là Dejima, một hòn đảo nhân tạo kích thước bé tí 120m × 75m, là nơi buôn bán với người Hà Lan. Để lại ấn tượng xấu cho các lãnh chúa Nhật Bản chính là các thương nhân + nhà truyền giáo Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, họ không tách rời giữa các động cơ tôn giáo và kinh tế, và có phần nào đó quá cấp tiến trong các hoạt động của mình. Nhưng người Hà Lan thì nhẹ nhàng hơn, họ nhấn mạnh buôn bán và ít đề cao tôn giáo, nên… dễ nhận được sự đồng cảm, chấp nhận từ phía người Nhật Bản. Từ đó hình thành nên phong trào Rangaku – Lan học – 蘭學, một dòng chảy âm thầm trong xã hội Nhật, tuy bế quan tỏa cảng, nhưng khác với Việt Nam, người Nhật vẫn âm thầm học hỏi, tiếp nhận văn minh phương Tây qua ngã Hà Lan.

Sách vở được mua đều đặn, các dụng cụ như đồng hồ, bản đồ, kính thiên văn, kính hiển vi, các dụng cụ y tế, sách y học, giải phẫu học, etc… liên tục được nhập khẩu, từ đó, người Nhật nghiên cứu và tự chế tạo các thiết bị của riêng mình, từng bước tiến đến có những phát minh sáng kiến riêng. Các lĩnh vực mà người Nhật rất tò mò và có nhiều tìm tòi là các loại đồng hồ cơ khí chính xác, tự động hóa, và kính hiển vi dùng để quan sát và vẽ các bản mẫu sinh vật! Suốt gần 200 năm, cũng phải có một quá trình như thế nào đó, chứ không phải đùng một cái, nói Minh Trị duy tân mà duy tân ngay được! Và bên trong cũng phải có cái gì đó, thì mới có thể có công phu tìm hiểu, nghiên cứu được, chứ “tâm” chỉ có ghen ăn tức ở với lưu manh lặt vặt, thì rồi cũng chỉ “ngụy trí thức, ngụy quân tử” mà thôi!

shogun, 2024

Nhớ lại cuối tháng 5 năm đó, 2025, ốm một trận khá to đến gần 2 tuần, người thì vẫn có vẻ khỏe, vẫn đạp xe tập gym nhẹ nhẹ được, ra ngoài người ta nhìn không biết mình ốm, nhưng thực ra bên trong sốt cao mất cả giọng nói. Bệnh nó làm thay đối tâm tính con người, chỉ nằm nhà xem phim… Là cái phim cũ rích Shogun 1980 làm lại, đây là phiên bản 2024. Đương nhiên so với gần 50 năm trước sẽ có nhiều khác biệt, thời đại thông tin, người ta ngày càng biết rõ ràng hơn, kỹ càng hơn về một nền văn hóa, tất tần tật từ những chi tiết nhỏ nhất như 6, 7 lớp áo kimono phải mặc như thế nào, hay cách bài trí một căn nhà phải ra làm sao, etc… Về phương diện này thì phim khá là thành công, đầu tư kỹ lưỡng, phần đông người Nhật có vẻ như không có ý kiến gì về mức độ tái tạo chân thực của phim, đương nhiên cũng chưa biết những người thật sự khó tính nghĩ như thế nào. Phải nói là Nhật Bản và phương Tây có một sự giao lưu văn hóa từ rất sớm!

Và trong chừng mực nào đó có sự thông hiểu nhất định giữa Đông – Tây hai bên, nên phương Tây muốn tái tạo một không gian văn hóa Nhật sẽ tương đối dễ thành công hơn một không gian Trung Quốc hay Nga. Nga và Trung Quốc, đó là những thế giới còn phức tạp và khác biệt đáng kể nữa, khi những kiến thức “giả cầy ta đây biết rồi” là sẽ hoàn toàn không đủ để tái tạo một không gian văn hóa mang tính nguyên bản – authentic có thể thuyết phục được người khác. Hai “đảo quốc” hoàn toàn không lớn lắm, nếu không muốn nói… khá là bé, một ở bờ Tây, một ở bờ Đông, Anh và Nhật, xem như là 2 “đầu tàu” kéo văn minh nhân loại phát triển trong những giai đoạn nào đó, liên tục đi đầu trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Cả hai đều là hai quốc gia “quân chủ” lâu đời! Xem ra thể chế chính trị chẳng hề có tí ảnh hưởng nào, quan trọng vẫn là phẩm chất con người như thế nào mà thôi! 10 tập đầu của phần 1, có lẽ sẽ có phần 2, 3 tiếp theo…

Phim dựa trên tiều thuyết cùng tên của James Clavel, còn tiểu thuyết thì dựa trên một sự thật lịch sử: William Adams, được xem là người Anh đầu tiên đặt chân đến Nhật Bản, là hoa tiêu trên một đoàn tàu 5 chiếc của công ty Đông Ấn, Hà Lan, đoàn tàu vòng qua eo biển Magellan vượt Thái Bình Dương nhưng chỉ có một chiếc đi tới đích. Sau khi thuyền bị trôi dạt vào bờ biển Nhật Bản, 1960, William Adams trở thành cố vấn cho Tokugawa Ieyasu, được tin cậy và trở thành samurai – hatamoto, được phong một lãnh địa nhỏ chừng 400 koku. William Adams đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Nhật Bản giai đoạn này, ông ta giúp Tokugawa Ieyasu xây dựng một đội thương thuyền, tiến hành buôn bán với nhiều nước châu Âu và Đông Nam Á, thu mua vũ khí phục vụ cho cuộc chiến thống nhất Nhật Bản, trở thành Shogun của Tokugawa Ieyasu! William Adams lấy vợ, sinh con và sống ở Nhật 20 năm cho đến lúc qua đời, 1620.

So sánh không được chính xác cho lắm, nhưng William Adams ở Nhật cũng có thể xem như Bi Nhu Quận công tại VN vậy, mặc dù Pierre Pigneau de Behaine để lại một dấu ấn, tuy ngắn ngủi, nhưng có thể nói là sâu đậm hơn nhiều. Nguyễn Ánh đã phong cho ông ta một cái tước cao nhất có thể, vì lúc đó chính thức vẫn dùng niên hiệu Cảnh Hưng của Lê Hiển Tông (dù nhà vua đã qua đời), và nhà Chúa thực ra chỉ là tước vương mà thôi, nên phong đến Quận công là tột đỉnh rồi, không thể cao hơn được nữa. Ông Bi Nhu – Pigneau này, trong khoảng 15 năm cho đến lúc mất, đã cố vấn cho Nguyễn vương xây dựng đường sá, xây đắp thành lũy, khai mỏ nấu quặng, rèn đúc vũ khí, chia dân cư thành các vùng chuyên canh trồng cây “công nghiệp”, huấn luyện binh lính theo lối Tây phương, làm trung gian mua tàu thuyền, vũ khí, và có lẽ đóng góp quan trọng nhất là tham gia kiến thiết hạm đội thuyền chèo tay – galleys hùng mạnh của nhà Chúa!

khách gia thổ lâu

Tiếng Hoa có 5 nhánh ngôn ngữ con: Phổ thông thoại – 普通话, là quốc ngữ hiện này, Ngô – là phương ngôn của vùng Thượng Hải, Khách Gia – 客家 là ngôn ngữ của cộng đồng Khách Gia, Việt – là ngôn ngữ của vùng Quảng Đông, và Mân – một phương ngữ có “gốc” từ Phúc Kiến. 5 nhánh ngôn ngữ đến ngày nay tuy không thông hiểu nhau được (mutual intelligible) nhưng đều từ một gốc (tiếng Hoa cổ – Ancient Chinese) mà phát triển ra, do các cộng đồng người Hoa di cư đi khắp nơi, những cuộc di cư từ 2000 năm trước hoặc có thể còn sớm hơn! Ví dụ như Triệu Đà, người Chính Định, Hà Bắc được nhà Tần bổ nhiệm làm huyện lệnh Phiên Ngung, và ông ta đã di cư một số lượng lớn người phía Bắc xuống Quảng Đông.

Một ví dụ thứ 2 là người Khách Gia, đã bắt đầu đi cư từ đồng bằng Hoa Hạ xuống phía Nam cách đây ít nhất là 1000 năm. Khi đến nơi, họ gặp những người Quảng Đông (đã di cư đến đó từ trước) và cho rằng đó là “Chủ, là người bản địa”, tự nhận mình là “Khách”, nhưng đến khi ngồi lại với nhau, tra thư tịch, truy tìm các tài liệu viết (ví dụ như gia phả) thì hóa ra, Quảng Đông, Triều Châu, hay Khách Gia thì đều là người từ Trung Nguyên di cư cả! Lịch sử nó có nhiều những cái ngộ nhận như vậy, không phải lúc nào cũng tường minh, rõ ràng! Đương nhiên trên bước đường di cư đều có sự kết hợp nhất định với những yếu tố “bản địa” đã có ở đó từ trước, như Miêu, Tráng. Tiếng Việt bị ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Hoa trung đại…

Nhất là từ thời Đường, thêm các thành phần tạm gọi là “Bách Việt” (thuật ngữ này theo tôi chỉ là một cách gom nhóm chung chung vô cùng thiếu chính xác), nên đôi khi ta bắt gặp một số điểm tương đồng “đáng ngạc nhiên” giữa tiếng Việt và tiếng Triều Châu, Khách Gia, Quảng Đông. Vì đều phát triển từ, hoặc chịu ảnh hưởng nặng bởi tiếng Hoa, đây là điều chẳng có gì khó hiểu, dù về địa lý hay lịch sử thì người Việt với người Khách Gia, Triều Châu chẳng có mấy liên hệ! Nhưng có một số khá đông những người tự gọi là nhà “ngôn ngữ học” (tôi gọi là lưu manh giả cầy), vin vào một số điểm tương đồng bất chợt, ngẫu nhiên rồi cho rằng… tiếng Việt, Khách Gia, Triều Châu, Quảng Đông là… cùng một họ Bách Việt!

Tiếp nữa là… bắt đầu nói ngược, tìm cách ngụy tạo ra cái gọi là “một Bách Việt thống nhất và hùng mạnh”, bằng cách gom vào nó những nguồn khác một cách… “bá vơ”. Bọn Tây nó có cái chiêu là “đa nguyên”, “đa thành phần”, điều này hiển nhiên có phần đúng khi sự phát triển của văn minh là sự cấu thành của vô số yếu tố! Nhưng sự “đa nguyên, đa thành phần” này hoàn toàn khác với kiểu muốn vẽ ra bất kỳ sự “hoang đường, tùy ý” nào cũng được! Như cách nói của một số “ngáo gia” Việt thì chỉ có Bách Việt thôi, không tìm tòi, nghiên cứu gì, chỉ dựa trên nguồn Tây, Tàu công bố, sau đó xào xáo lại, đưa vào đó những mẹo ngôn từ thiểu năng, đảo lộn trật tự thời gian, và vô số “lú luận” càn quấy để ngụy tạo lịch sử!

Cứ như thế, khắp phía Nam sông Trường Giang đều là Bách Việt cả, chúng nó nói một lúc thì… không có cái gì gọi là Hoa Hạ cả, chỉ có Bách Việt và Mông Cổ mà thôi! Hoa Hạ thực chất chỉ là sản phẩm lai tạo giữa Mông Cổ và Bách Việt! Và Bách Việt mới là cái gốc, cái nguồn lớn, sinh ra mọi thứ! Những dạng thông tin như vậy tạo ra không ít nhiễu loạn trong cộng đồng! Cái sự cuồng loạn của một số thành phần đúng là… vô đối, gọi là bệnh tâm thần không sai! Trống hơ trống hoác: chữ viết không có, tư tưởng sách vở cũng không, khoa học kỹ thuật thì vẫn như thời bán khai, văn hóa cộng đồng thì đến tận giờ vẫn như cái công xã nguyên thủy, nhưng tâm thì cuồng loạn vô đối, chính là 2 mặt của 1 đồng xu mà thôi!

châu ấn thuyền – red seal ships

Ai đã đọc tiểu thuyết Tướng quân – Shogun – James Clavell thì sẽ tưởng tượng được những bước sơ khai đầu tiên trong việc thành lập đội các Châu Ấn thuyền ở Nhật Bản. Đương thời, ở Nhật lúc đó, ngoại thương là đặc quyền nằm trong tay các Tướng quân, cần phải có một văn bản (giấy phép) có dấu triện đỏ (châu ấn) thì các con thuyền này mới xuất ngoại buôn bán được. Châu Ấn thuyền là những con tàu khoảng 500 ~ 700 tấn, có kết cấu khá đặc biệt khi kết hợp các kỹ thuật Đông lẫn Tây trên con thuyền, có các lá buồm mành (junk) kiểu TQ và buồm vuông (square) kiểu Tây phương.

Tại thời điểm phát triển thịnh vượng nhất, Nhật có hơn 350 thuyền như vậy, buôn bán với Đài Loan, TQ, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Phi, Indo, etc… Cần phải nói rõ là việc buôn bán này là siêu lợi nhuận! Ví dụ như quế (cinnamon) mua được ở VN, đem về tới Nhật sẽ có giá gấp đôi, gỗ đàn hương (sandalwood) đem về từ Nam Á sẽ có giá gấp ba! Đi ra biển với bao nhiêu khó khăn, nguy hiểm, đem về mức lời 200%, còn thua cả một số streamer VN hiện đại chỉ buôn nước bọt online mà đạt được mức lợi nhuận 2000% (hai ngàn phần trăm), đúng dân trí nó… không thể tự luận ra được!

Rất nhiều nước được lợi từ việc mua bán này, các chúa Trịnh, Nguyễn cần nhất từ Nhật Bản là đao (và vũ khí nói chung)! Cứ phải nói thẳng ra rằng… hàng chúng ta tự làm ra không đạt, không xài được! 350 tàu là một lực lượng khổng lồ, gồm các võ sĩ (samurai) chuyên nghiệp, nên người Nhật đã tìm cách thành lập cả một khu “thuộc địa” ở Thái Lan, trong chừng mực nào đó lấn át cả quyền lực Hoàng gia Thái, chỉ duy trì một đội quân vài trăm người mà tự tung tự tác đến mức người Thái không làm gì được. Và có vẻ như người Nhật cũng đã thử làm điều tương tự ở VN nhưng thất bại!

hq-671

Nhìn mãi những đường cong của HQ-671, con tàu “bảo vật quốc gia”, thực sự rất rất đẹp! Thông số: dài 31m, rộng 5.8m, lượng giãn nước 165 tấn, từ đó suy ra phần mạn ướt (draft) chỉ khoảng 1.4 ~ 1.7m, chính là thiết kế để cập trực tiếp vào những bãi biển, cửa sông nước nông. Không biết ai thiết kế con tàu này, nhưng quả thực, đường nét của nó có dáng dấp một chiếc thuyền cứu hộ (lifeboat) cổ điển được phóng to lên, với hai đầu nhọn (double-ender). Với thiết kế như thế thì thuyền sẽ tương đối kém ổn định, bắt buộc phải dùng nhiều hàng (hay két nước) để giằng tàu.

Loại tàu như thế này thường đòi hỏi người thuyền trưởng phải có hiểu biết, nhạy cảm nhất định về cách cân bằng tàu. Thường thì sẽ đem theo lượng nước ngọt, dầu máy, nhu yếu phẩm đủ dùng cho khoảng 3 tuần hải hành, nhưng cũng vì thế mà thường chỉ chở được 50 ~ 60 tấn vũ khí. Những đường cong nhìn rất vừa con mắt, mặc dù về thi công có những chỗ vẫn có thể làm tốt hơn, như chân vịt hay bánh lái hơi mong manh, không được bảo vệ tốt, khá kém nếu so với tiêu chuẩn của một thuyền cứu hộ, và cabin hơi cao, cao một cách không cần thiết!

đoàn 371

Ngoài Đoàn 125 vận tải thuộc Hải quân và đội 128 “giao thông đường thủy” thuộc Cục tình báo, còn có một đội “tàu không số” khác nữa mang số hiệu Đoàn 371, hoạt động… “công khai, hợp pháp”, do Tư Mau (Phan Văn Nhờ) làm đoàn trưởng, hoạt động dưới vỏ bọc Công ty Việt Long, đăng ký kinh doanh hợp pháp ở miền Nam, ban đầu là các tàu “buôn muối” chạy tuyến Đà Nẵng – Sài Gòn (và chạy thẳng ra Bắc nhận vũ khí). Vào vai một nhà “tư sản” hoạt động đa ngành, từ buôn muối, đánh cá, và nhiều lĩnh vực khác, sở hữu 7, 8 tàu nhiều kích cỡ, có chiếc đến 120 tấn, máy 500HP!

Công ty có cơ sở rộng khắp từ miền Trung cho đến miền Nam, hoạt động một thời gian thì bị chỉ điểm, địch phá được một số cơ sở, nhưng may mắn vẫn giữ được nhiều tàu. Chỉ huy Tư Mau phải đi viện Quân y 108 ở miền Bắc, tiến hành các đợt giải phẫu thẩm mỹ thay hình đổi dạng, đến người quen cũng không thể nhận ra, sau đó lại vào Nam xây dựng vỏ bọc mới, tiếp tục vận chuyển vũ khí trên biển. Thông tin giải mật đến ngày nay cho chúng ta biết về 3 đội tàu “không số” đó, nhưng biết đâu vẫn còn những “hạm đội bóng tối – shadow fleet” khác mà thông tin chưa giải mật! :D

tàu không số, 2

Về các con tàu không số vỏ sắt do VN tự thiết kế và tự đóng (và sau đó còn “chuyển giao bản vẽ” cho TQ đóng)… Em tin chắc là các bác ấy xạo, có thể là đã tự đóng thật, nhưng đóng ra không xài được, cuối cùng toàn phải xài tàu TQ. Theo các “ghi chép” thì các con tàu không số vỏ sắt đóng ở Tam Bạc có tải trọng (hữu ích) chừng 100 tấn, dài 28m, rộng 5.8m, động cơ 235 HP, từ đó suy ra phần mạn tàu ướt (draft) chỉ cỡ 1m, được cho là đã chạy tốt trong những cuộc rượt đuổi với tốc độ trên 10 hải lý/giờ với hải quân Mỹ và VNCH. Sẽ là vô nghĩa nếu cố tình đưa ra những thông tin rượt đuổi như vậy, vì các tàu Mỹ, như các tàu của lực lượng tuần duyên USCGC đều có tốc độ trên 16 knot, các tàu khu trục cỡ nhỏ như lớp Edsall có tốc độ đến 21 knot, các giang thuyền PCF còn nhanh hơn, đến 32 knot!

Tàu hàng nặng không cách nào đua với tàu chiến được, không nên so sánh vô lối! Và chỉ cần tính nhẩm một chút là biết ngay con số 10 hải lý/giờ đó là không thật! Dùng công thức Crouch tính xấp xỉ tốc độ tàu, tốc độ tối đa (top speed) = C / sqrt (Displacement / HP), tải trọng ~ 100 tấn ~ 220000 pound, tốc độ tối đa ~ 10.5 knot, C là hằng số có giá trị khoảng 150, thì suy ra công suất máy phải có là 1078 HP! Nhưng thông tin về máy lắp trên các tàu này là máy CHDC Đức, 235 HP! Cũng dùng công thức đó sẽ tính được, nếu máy là 235 HP thì tốc độ tối đa chỉ khoảng 5 knot thôi, muốn tăng tốc độ lên gấp đôi, 10 knot, thì công suất phải tăng theo mũ bình phương, tức là gấp 4! Hoặc phải lắp đến 4, 5 máy thì mới đạt được tốc độ trên 10 knot. Mà lắp 4, 5 máy thì phần hộp số truyền động…

Kết nối các động cơ với chân vịt không phải là chuyện đơn giản. Có rất nhiều thứ “nhỏ nhoi” nhưng không đơn giản trên một con tàu, ví dụ như stuffing-box – hộp nối trục chân vịt không cho nước thấm vào tàu, hay các hệ thống máy bơm, các loại hộp số giảm tốc là chắc chắn VN chưa làm được. Em không ngại nói thẳng như vậy, không thì các bố lại tán hưu tán vượn những chuyện hão huyền, không thật! Tự thiết kế một con tàu nhỏ, vẽ mô hình trên giấy, tính toán thông số lý thuyết… thực chất không khó, chỉ cần học sơ bộ một năm thiết kế hàng hải là làm được, đây mới là tàu nhỏ, chưa phải là “thuyền – ship”. Nhưng đóng được tàu chạy tốt, chạy bền thì… rất khó, toàn là những chuyện kỹ thuật “lặt vặt”, thực tế là đến tận ngày nay, tàu do chúng ta đóng ra vẫn chưa xài tốt được!

tàu không số

Về chiến dịch Market Time (Mỹ) hay… các con tàu không số đã thất bại như thế nào. Chuyện các con tàu không số VN trong kháng chiến chống Mỹ thì mọi người đã biết nhiều rồi, vinh quang thì nhiều và đắng cay cũng không ít. Bài này nói về cách người Mỹ đã làm thất bại kế hoạch vận chuyển trên biển của VN. Nhưng trước tiên là một vài câu chuyện bên lề, như khi bắt đầu làm một chuyện gì đó, từ lúc sơ khai cho đến lúc lão luyện, đương nhiên sẽ có rất nhiều bài học đắt giá. Năm 1963, một con tàu không số chở quá tải, vừa xuất bến đã bị hiện tượng phá nước, có nguy cơ chìm, phải điện về sở chỉ huy điều tàu ra kéo vào, may mà đã kéo kịp. Cũng trong năm 1963, một tàu giao hàng xong trên đường trở ra thì mắc cạn ở Hoàng Sa, tàu không chở hàng, nhẹ mà vẫn không cứu được, đành phải cho nổ hũy tàu. Trừ những chuyến đầu tiên trong năm 1962 là đi bằng tàu vỏ gỗ, thì các con tàu xuất bến từ năm 1963 trở về sau đều là tàu vỏ sắt, tải trọng khoảng 100 tấn! Lưu ý đây là tải trọng tối đa, thực tế lượng vũ khí chở trên tàu chỉ khoảng 40~60 tấn mà thôi. Khi trở ra chạy tàu rỗng, kém ổn định nên các thủy thủ chặt nhiều cây dừa nước xếp vô trong khoang. Về đến bến K15 Hải Phòng thì vứt đại mấy cây dừa nước xuống biển.

Mấy cây dừa nước này nảy nở sinh sôi làm người dân địa phương sinh nghi vì họ biết rằng dừa nước là giống cây chỉ có ở miền Nam, miền Bắc không có. Mà bến K15 là tuyệt mật, ngay cả chính quyền tp. Hải Phòng chỉ biết là cơ sở quân đội chứ không biết bên trong làm gì. Sau vụ này, bến K15 cho người đi nhổ sạch mấy cây dừa nước và… tổ chức họp rút kinh nghiệm về công tác bảo mật! :D Năm 1963, đi 22 chuyến đều thành công, giao 1318 tấn vũ khí! Năm 1964, đi 55 chuyến đều thành công, giao 2971 tấn vũ khí! Năm 1965 đi 18 chuyến, 15 chuyến thành công, giao 810 tấn vũ khí, sau sự kiện tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô thì người Mỹ tăng cường các biện pháp phòng chống “cộng sản xâm nhập”, và phải nói các biện pháp này khá hiệu quả. Năm 1966 đi 8 chuyến chỉ có 2 chuyến thành công! Năm 1967 đi 5 chuyến đều thất bại! Năm 1968 đi 8 chuyến đều thất bại! Năm 1969 tổ chức 4 chuyến có 2 chuyến thành công! Năm 1970 tổ chức 17 chuyến có 6 chuyến thành công. Năm 1971, tổ chức 15 chuyến, chỉ có 2 chuyến thành công, Năm 1972, tổ chức 12 chuyến cũng chỉ có 2 chuyến thành công. Như vậy, cho đến khi Hiệp định Paris được ký kết và người Mỹ rút khỏi VN thì họ đã khá thành công trong việc ngăn chặn các con tàu không số.

Người Mỹ đã thử nghiệm nhiều cách thức khác nhau, nhưng đến cỡ năm 1965 thì họ đã hoàn thiện “quy trình làm việc”, dùng các con tàu “radar picket escorts” giám sát mặt biển, những loại “SC radar” lúc đó có tầm hoạt động không quá lớn, tối đa chỉ khoảng 120km. Khi phát hiện được những tàu khả nghi thì cho máy bay ra quan sát, chụp ảnh, và khi đã xác định là “đối tượng tình nghi” thì dùng các tàu khu trục cỡ nhỏ để theo dõi, đeo bám. Các con tàu không số của VN dùng chiến thuật phổ biến là lảng vảng ở ngoài vùng biển quốc tế, tìm cơ hội, chờ đối phương sơ hở là đâm thật nhanh vào bờ, dỡ hàng ngay trong đêm và rời đi vào sáng hôm sau. Phía Mỹ biết rõ quy luật nên tổ chức theo dõi, đeo bám rất sát sao. Ở đây có một điểm cần lưu ý, người Mỹ, dù biết rõ đó là các tàu VN chở vũ khí thâm nhập miền Nam, nhưng họ chỉ tổ chức đeo bám chứ không tấn công, cũng không đâm va. Chỉ khi nào tàu VN tìm cách xâm nhập vào gần bờ thì mới điều các tàu chiến cỡ nhỏ ven bờ ra vây bắt. Đây là một trong những “quy tắc giao chiến – rules of engagement” của người Mỹ, nếu tàu còn ở trong hải phận quốc tế thì… vẫn có quyền tự do đi lại. Đã có nhiều tình huống, các con tàu không số bị đeo bám, theo dõi quá sát sao…

Không đi tiếp được, phải quay trở ngược ra Bắc. Người Việt chúng ta thường ngạc nhiên trước các quy tắc giao chiến này, đã đánh nhau thì còn quy tắc gì nữa, thực ra không phải vậy! Chiến tranh cũng phải có luật lệ, quy tắc, điều đó rất thường khi là có lợi cho các bên tham chiến. Một điểm đáng lưu ý là, nếu lúc đó, chúng ta quay trở lại sử dụng các con tàu vỏ gỗ, thì cơ hội, xác suất thành công sẽ cao hơn rất nhiều, do vỏ sắt phản xạ radar tốt, trong khi vỏ gỗ hấp thu tín hiệu radar, làm cho đối phương rất khó dò tìm. Nhưng đáng tiếc là, và phải nói thẳng là, các con tàu vỏ gỗ đóng theo kiểu truyền thống VN (không có sống đáy) chỉ có thể làm tàu đánh cá mà thôi, không đủ độ cứng cáp, vững bền để chở đến 50, 60 tấn vũ khí và thực hiện các hải trình khó khăn, phức tạp. Và dù có nhiều thông tin về một vài con tàu 100 tấn vỏ sắt do chúng ta tự thiết kế, tự đóng ở Tam Bạc nhưng đọc các con số cũng luận ra được nhiều điều bất hợp lý, xài được hay không là một dấu chấm hỏi (đến tận ngày nay, các con tàu chúng ta tự đóng có xài được hay không cũng vẫn là dấu hỏi), và thực tế là, do Mỹ đánh phá bằng không quân ác liệt, nên các con tàu không số do Đoàn 125 sử dụng phần nhiều đều là do nước bạn TQ đóng!

“thảm sát mậu thân – 1968”

Chủng qua đắc qua,
Chủng đậu đắc đậu.
Thiên võng khôi khôi,
Sơ nhi bất lậu.

Nhân cái gọi là “thảm sát Bucha” (Bucha massacre) được cho là đã xảy ra gần đây trong cuộc chiến Nga – Ukraine, nói về một “vụ thảm sát” lớn hơn ít nhất 10 lần: Huế – Mậu thân – 1968. Về Bucha, chính quyền Nga chỉ đưa ra một thông báo bác bỏ ngắn gọn, gọi đó là tin giả, rồi im lặng không nói gì để mặc cho các hệ thống thông tin thân Tây phương hoành hành, tạo ra một rừng “thông tin, chứng cứ” như đúng rồi luôn. Thoạt đầu tôi không hiểu tại sao lại để cho sự việc như vậy, nhưng khi liên hệ lại với “vụ thảm sát” Huế năm 1968 thì luận ra được nhiều điều tương tự, chính quyền VN cũng đã im lặng, mà im đến mấy chục năm, không đưa ra một lời giải thích thỏa đáng nào. Vì sao lại có sự im lặng đáng sợ như vậy, đến mức người VN như tôi cũng có lúc đã nhầm tưởng rằng “vụ thảm sát” này là có thật.

Đầu tiên phải nói Huế là nơi duy nhất trong toàn bộ chiến dịch Mậu thân mà quân Giải phóng đã làm chủ hoàn toàn một thành phố trong 26 ngày, đây là một đòn chí mạng khi chỉ với binh lực chỉ khoảng 8000 người đã tạo ra được một thế trận nguy hiểm với người Mỹ. Thực sự là… đã có một số “giết chóc” xảy ra, chủ yếu là khi đã làm chủ thành phố, quân Giải phóng yêu cầu một số sĩ quan, viên chức VNCH phải ra trình diện, một số người đã chống lệnh, cố thủ từ trong nhà bắn ra! Còn các đơn vị dân quân địa phương, những người có nhiều người thân trong gia đình bị Mỹ – Ngụy bắt bớ, tra trấn, tù đày, thủ tiêu… nhân cơ hội này, chỉ chờ các quan chức VNCH chống lệnh là… nổ súng tiêu diệt. Sự căm phẫn của quần chúng lúc đó, các chỉ huy tại hiện trường không thể kiểm soát hết được!

Nên nói như ông Lê Tư Minh, bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên lúc đó, chính quyền nợ những “nạn nhân” này một lời xin lỗi, đó là sự “phẫn uất, tự tác” của một số thành phần. Nhưng thực ra số những vụ “giết chóc” này không nhiều, cùng lắm thì cũng chỉ vài trường hợp mà thôi. Nhưng sau đó thì người Mỹ đánh vào Huế với hỏa lực chưa từng có của hạm đội và phi đội, một hạm đội lớn với hơn 160 tàu chiến các cỡ, với những hải pháo cỡ nòng rất lớn và cả máy bay B-52 cũng được huy động để ném bom rải thảm vào thành phố! Không có những con số thống kê chính xác nhưng ước tính khoảng 80% các ngôi nhà trong thành phố bị phá hũy hoàn toàn, từ 5~10% dân số thành phố đã chết vì pháo kích và không kích của Mỹ, về số dân thường đã thiệt mạng, ước tính đâu đó khoảng 3~6 ngàn người.

Những người chết được dân chúng và quân Giải phóng chôn cất vội vàng, tạm bợ do hoàn cảnh chiến tranh. Đến khi người Mỹ phản công, chiếm lại được thành phố thì là cả một đống hoang tàn như thế, quân GP hy sinh khoảng 2 ngàn, số người dân chết vì hỏa lực Mỹ thì nhiều gấp 2, 3 lần, thậm chí có thể hơn! Để tránh một bê bối truyền thông, để che dấu cái “collateral damage” quá lớn, thì người Mỹ cho đào các hố chôn lên, rồi dựng vở kịch Việt cộng đã thảm sát người dân vô tội, là VC chứ không phải là người Mỹ nhé! Bộ máy truyền thông được huy động, vô số bài được viết, cái chiêu “nói ngược” của đám lưu manh vẫn luôn như thế, kéo thêm vào vài đám “văn nghệ sĩ, bồi bút tay sai”, viết văn làm thơ, khóc lóc thảm thiết, như thế mới tạo ra được dư luận thuyết phục được đám đông.

Noam Chomsky, trong “Tài liệu về Kinh tế và Nhân quyền” tập 1, cho rằng vụ việc đã bị mô tả một cách sai lệch, bị thổi phồng, bị tô vẽ nhằm mục đích tuyên truyền. “Đó là những thường dân bị chết do những trận bom pháo Mỹ đã san bằng thành phố Huế. Rồi sau đó khi Mỹ và quân đội Sài Gòn phản kích trả thù lại cũng giết chóc rất nhiều. Thứ nữa là lực lượng quân Giải phóng đã tử trận trong lúc chiến đấu. Tất cả đều là người Việt với nhau và Mỹ tính gộp vào hết. Tất cả những điều đó được Mỹ dựng thành một vụ thảm sát tưởng tượng!” Nhà báo Italy là Oriana Fallaci trong bút ký cho biết khoảng 1100 người đã bị giết khi quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân Mỹ tái chiếm Huế, hầu hết người bị giết là giáo viên, giảng viên, sinh viên đại học, tu sĩ, trí thức và tín đồ tôn giáo!

Phía VN đương nhiên hiểu rõ đây là thủ đoạn tâm lý chiến của người Mỹ, nhưng họ im lặng, và đã im lặng suốt mấy chục năm, vì sao như thế!? Tội ác của Mỹ – Ngụy đâu phải chỉ có Mậu Thân đâu, vô số thành phần dân chúng, cộng sản có, không cộng sản có, các tín đồ Phật giáo bị hệ thống mật vụ VNCH và CIA Mỹ bắt bớ, tra tấn, thủ tiêu, sự giết chóc khủng bố có hệ thống! Như tên Nguyễn Phúc Liên Thành, chỉ một viên thiếu tá nhỏ nhoi, chỉ huy cảnh sát Huế, đã giết không biết bao nhiêu người, thủ tiêu cả thầy dạy học của mình (Ngô Kha), giết luôn cả người bạn thân nhất đã ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu từ nhỏ, rất nhiều vụ chỉ vì thù ghét cá nhân hay các động cơ đê hèn khác! Đến cả hội đồng Nguyễn Phúc tộc phải ra thông báo phủ nhận mọi liên quan đến tên giết thầy, giết bạn này!

Mà thủ đoạn của đám mật vụ thì để lại rất ít chứng cứ để có thể điều tra kết án! Phải im lặng, chấp nhận một cái “án oan” vô cùng lớn như thế trong suốt hàng chục năm, tạo ra cái ảo tưởng là chúng nó đã thành công trong việc tạo ra màn kịch “thảm sát”! Phải có một thời gian dài để có thể đối chiếu, kiểm tra, truy tìm án tích, và quan trọng là, giống hệt như trong các phim cổ trang TQ, dựng ra các màn kịch, các tình huống để những kẻ thủ ác tự để lộ thông tin, tự bộc lộ chính bản thân! Suy cho cùng, với quá nhiều tội ác mà chúng nó đã gây ra, thì sẽ không thể ngủ yên được trong nhiều thập kỷ sau đó, chúng nó sẽ tìm cách che dấu, lấp liếm, và thực tế là, tiếp tục tạo ra nhiều vụ việc mới để che lấp các vụ án cũ! Cuộc chiến qua đi khiến chúng ta hiểu hơn về con người, về lịch sử như thế!

Cứ như thế, đi qua hết thằng thực dân này đến thằng đế quốc khác, chúng ta đều bị “dắt mũi” trong những cuộc chiến thông tin, tâm lý. Từ thời Pháp, chúng đã tạo ra cả một màn “sương mù thông tin”, gieo rắc nghi ngờ và thù hận! Đến thời Mỹ lại càng bài bản hơn, xuất bản thành vô số sách vở, tài liệu, làm thành phim ảnh, “phổ cập tin tức” đến mọi người, lặp đi lặp lại trong suốt nhiều năm, người này “tham chiếu” người kia, đổi trắng thành đen, thị phi điên đảo, tất cả đều nằm trong những bài bản đã chuẩn bị trước! Đến tận ngày nay trên wikipedia, nhất là mục tiếng Anh vẫn chủ yếu là thông tin đơm đặt một chiều từ phía Mỹ. Những thủ đoạn đó đã vô cùng hiệu quả, cơ bản đối với một dân tộc không tự nhìn rõ được bản thân, không tạo dựng được niềm tin và giá trị cộng đồng!

cuộc chiến thần thánh

Chương trình âm nhạc “cuối tuần”, bài hát “Svyashchennaya voyna – Cuộc chiến thần thánh”… Ngày mai, 9 tháng 5, như thông lệ hàng năm, người Nga tổ chức kỷ niệm 80 năm kết thúc Thế chiến 2, 1945 – 2025, và lần đầu tiên có sự xuất hiện của Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia diễu binh trên Hồng trường. Như một sự “tình cờ” (phải chăng là tình cờ?) của lịch sử… Cách đây 80 năm, có một nhóm người Việt đã tham gia cuộc chiến này, tham gia bảo vệ thủ đô Moskva, phần lớn là người Nam Đàn, Nghệ An.

Ở hành tinh Nga, đây là bài ca duy nhất (không phải quốc ca) mà khán giả thường phải đứng nghiêm khi nghe, người Nga không ngần ngại gì tôn vinh lịch sử, xem nó như một kiểu nửa thần thánh, nửa tôn giáo: “Vùng lên hỡi quốc gia vĩ đại, đứng lên chiến đấu đến chết với bè lũ Phát-xít…” Chính vì có nhóm người này nên trong Tuyên ngôn độc lập mới viết được những dòng: “Một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng-minh chống Phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập…”

Và trong lúc đó, ở hành tinh Nga…

hải chiến hoàng sa 1974

Trước đọc nhiều tài liệu bảo HQ VNCH đã chiến đấu anh dũng trong Hải chiến HS 1974, tôi cũng mém tin là thật. Nhưng, ngày càng có nhiều thông tin chi tiết để ta hiểu rõ hơn về diễn biến cuộc chiến này. Tóm tắt ngắn gọn, mỗi bên đều có 4 tàu, các tàu TQ đều nhỏ, cỡ 300~500 tấn, còn HQ VNCH có 2 tàu 2800 tấn (HQ-5, HQ-16), 1 tàu 1600 tấn (HQ-4), 1 tàu 650 tấn (HQ-10). Dù là tính về tải trọng hay tính về hỏa lực thì đều hơn gấp 4, 5 lần đối phương, tàu lớn hơn, nhanh hơn, nhiều pháo hơn, pháo lớn hơn, và riêng HQ-4 thì có radar dẫn bắn hiện đại. Các tàu TQ trong trận chiến đều chỉ là tàu săn ngầm, tàu quét mìn cỡ nhỏ, còn chưa được gọi là “chiến hạm”, pháo ít và nhỏ, không có radar dẫn bắn! TQ lúc đó chưa phải là TQ bây giờ, vẫn rất nghèo nàn và lạc hậu, còn Mỹ trang bị cho VNCH tuy không phải là hàng xịn nhất, nhưng so với các nước trong khu vực thì vẫn hơn hẳn.

Nhưng diễn biến trận đấu thì… HQ-4, HQ-5 bắn vu vơ 5, 7 phát rồi rút, đáng nói là có một phát bắn trúng ngay tàu “quân ta” là HQ-16! Một số sĩ quan VNCH về sau còn cho rằng ngoài HQ-16 bị trúng đạn của “đồng đội” thì có thể tàu HQ-10 cũng thế, đều bị 2 tàu “đồng đội” bắn thiệt hại nặng, mà pháo 127 ly sức công phá rất lớn, chỉ 1, 2 phát là đã có thể chìm tàu. Kết quả là tàu HQ-10 chìm, HQ-16 lết được về Đà Nẵng, còn HQ-4 và HQ-5 gần như không thiệt hại gì. Như thế là 2 tàu đã thực sự có đánh nhau với TQ thì… bị 2 tàu còn lại bắn, bắn rồi phao tin TQ đưa tàu tên lửa và máy bay ra HS (hoàn toàn không có việc này) để ngụy biện cho hành động bắn đồng đội, bỏ mặc và bỏ chạy! Chừng đó diễn biến là đã rõ, sau khi tham khảo ý kiến “quan thầy” Mỹ đã có ý nhắm mắt làm ngơ, thì HQ VNCH đâu dám làm trái ý, tự bắn người của mình và rút lui để cho TQ chiếm đảo!

Sự việc như thế, thứ nhất là tuân theo ý của ông chủ Mỹ, thứ nhì là “gắp cục than nóng” bỏ tay người, Bắc Việt lúc bấy giờ, dù xét về thế hay về lực, đều không ở vị trí tốt để bảo vệ được HS. Nhưng đó chỉ là một trong chuỗi những sự kiện “oanh liệt” của HQ VNCH. Năm 1956, Đài Loan điều tàu chiếm đảo Ba Bình, tt. Diệm ra lệnh rút, Đài Loan chiếm được đảo mà không cần nổ súng! Từ 1956 đến 1966, HQ VNCH để mất 6 đảo gần Phú Quốc vào tay Vương quốc Campuchia. Năm 1970, Philippines chiếm 7 đảo ở Trường Sa, VNCH không nói gì và cũng không làm gì cả! Và đến 1974 thì để mất Hoàng Sa theo cách rất “điếm lác” như thế! Và sau đó thì kéo cái chiến hạm lớp Các-tông (giấy) đi giễu binh, đòi phục quốc, tìm cách khủng bố cộng đồng! Dù là ở bất kỳ thể chế nào, nếu không loại trừ được những thành phần âm binh, âm hồn như thế thì xã hội không thể khá được!

cửu vị thần công

Khi nhỏ vẫn hay trèo lên 9 khẩu thần công này chơi, dài hơn 5m, nặng đến 11 tấn mỗi khẩu. Trên mỗi cỗ súng có khắc rõ bằng chữ Hán cách thức bắn, dịch ra như sau: phải nạp 4 lớp thuốc súng, lớp thứ nhất 30 cân thuốc súng cộng 40 cân đất, lớp thứ hai 30 cân thuốc súng cộng 105 cân đất, lớp thứ ba gồm 40 cân thuốc súng cộng 120 cân đất, lớp cuối cùng 20 cân thuốc súng… Như thế, người làm ra súng này hiểu rất rõ hạn chế của nó, thuốc súng (gunpowder, blackpowder) ngày xưa có một nhược điểm so với các loại thuốc phóng hiện đại (smokeless powder, propellant) là tốc độ cháy quá nhanh, gây ra sự đột biến áp suất có thể làm vỡ nòng! Các loại thuốc phóng hiện đại cháy chậm lúc đầu và cháy nhanh dần về sau, đường cong biểu diễn biến thiên áp suất theo thời gian tăng mềm mại, ít dốc hơn!

Đó cũng là lý do các khẩu pháo hiện đại nhỏ nhẹ hơn rất nhiều so với các phiên bản “thần công” cổ xưa. Cách thức nạp đạn chèn nhiều lớp thuốc súng xen kẽ với các lớp đất là để cho quá trình cháy diễn ra chậm lại, một cách để kiểm soát áp suất không cho súng vỡ! Thật sự “thông minh”, mới nghe thì có vẻ là như thế, nhưng thực ra… ngược đời, các loại pháo phương Tây đương thời chỉ nạp một lớp duy nhất, không ai nạp nhiều lớp như thế, tưởng tượng mất đến 5, 10 phút chưa nạp xong một phát đạn! Ở đây ta lại thấy một nét cá tính rất… Vietic, luôn tìm ra một cái chiêu thức, một mánh mẹo nào đó để “giải quyết nhanh” vấn đề, làm sao vẫn bắn được cái khẩu súng chế tạo không đạt yêu cầu đó! Đương nhiên vấn đề gốc là khẩu súng không xài được thì nó vẫn ở đó chứ không đi đâu cả!

Nên mình mạnh dạn đặt giả thuyết rằng: thời Nguyễn, dù đã đúc được pháo nhỏ 100~200 kg, nhưng chưa làm chủ được công nghệ đúc pháo nòng dài 500~600 kg (chưa nói tới những loại 1, 2 tấn). Các hiện vật pháo nòng dài trên 500 kg còn lại đến giờ đều có xuất xứ châu Âu, dù vẫn có một số súng nòng ngắn “made in VN” dạng carronade đến ~700 kg. Để đúc được các loại pháo nòng dài thì phải kiểm soát được chính xác tỷ lệ đồng và thiếc, tạo ra đúng loại hợp kim “gunmetal” đủ độ bền chịu được áp lực nổ, không phải loại “đồng” nào cũng đúc súng tốt được đâu! Phải nạp nhiều lớp thuốc súng thế này thì chỉ dùng làm súng nghi lễ thôi, không thực chiến được! Mà nói về pháo nòng dài (large calibre) thì, đến tận ngày nay, 2025, cũng đã làm chủ được công nghệ sản xuất đâu?!

Đội 128

Nhiều người biết về “Đoàn 559” các con tàu không số, đi chuyến đầu tiên năm 1961, chuyên vận tải vũ khí trên biển những năm kháng chiến chống Mỹ. Thời đó, các con tàu không số có thể xem là tương đối “hiện đại”, tàu máy vỏ sắt, tải trọng có thể lên đến một vài trăm tấn, được trang bị la bàn và các phương pháp định vị thiên văn như kính lục phân (sextant). Đoàn 559 thường xuất bến từ Hải Phòng và đi khắp các vùng biển VN, phần tàu, trang bị và huấn luyện là có sự giúp đỡ nhất định từ TQ. Nhưng rất ít người biết về “Đội giao thông đường biển 128” thuộc Cục quân báo, nay là Tổng cục 2. “Đội 128” đi chuyến đầu tiên sớm hơn những 5 năm, tháng 3/1956, đội bao gồm hàng chục tàu và khoảng gần 200 người…

Những con tàu đầu tiên đóng ở Nghệ An, những chiếc sau được thuê đóng ngay tại miền Nam, do bờ biển VN rất đa dạng các kiểu dáng tàu, nên đóng tại địa phương để nhìn cho giống! Xuất bến Vĩnh Linh, Quảng Trị, thường vào Đà Nẵng, Quảng Nam rồi sau tới Quy Nhơn, Khánh Hòa, Vũng Tàu. Là tàu quân báo nên hoàn toàn chỉ mang yếu tố VN, giả dạng làm tàu đánh cá, chủ yếu là buồm (không rõ đã có trang bị máy hay chưa, lúc đó rất ít tàu cá được trang bị máy) và có giấy tờ “hợp pháp” của chính quyền SG, không làm nhiệm vụ vận tải hàng hóa mà chỉ chở người và trang thiết bị phục vụ công tác điệp báo. Hình lấy từ “Junk blue book”, hãy đọc dòng chữ viết trên lá buồm… “Tố cọng diệt cọng là yêu nước” :D

kỵ binh trâu

Nhiều “tiến sư – giáo sĩ, sử gia – giả sư” khi nghe được về “kỵ binh” thời Tây Sơn – Nguyễn Ánh, thế là chộp ngay lấy cái từ “kỵ binh” và bắt đầu huyên thuyên ngựa VN thế này thế kia. Thực ra, theo John Barrow, chúa Nguyễn có: 24 đội kỵ binh (cưỡi trâu) – 6.000 người và 16 đội tượng binh (200 con voi) – 8.000 người! Như thế là đã rõ, ngựa VN thời đó vừa ít lại vừa yếu, chắc chỉ đủ trang bị cho một số lính thông tin, còn lại là… cỡi trâu cả! Không phải là chuyện khôi hài đâu, đến thời hiện đại, một số nước như Brazil vẫn có các đội cảnh sát cưỡi trâu, Mạnh Hoạch trong truyện Tam quốc cũng cỡi trâu, nhiều nơi khác trên thế giới thời xưa cũng thế! Đơn giản là người ta không thể dùng cái người ta không có nhiều được!

Lại nghe được thêm một từ nữa là “tàu đồng, tàu bọc đồng”, thế là bắt đầu tán láo về các loại “thiết giáp hạm” nồi đồng cối đá! Thực ra lớp đồng này chỉ mỏng từ 1~3mm, chỉ bọc từ mực nước trở xuống, có tác dụng bảo vệ gỗ, không cho các loại hà, hàu đục phá, hoàn toàn không có tính năng như “giáp” bảo vệ tàu trước các loại đạn! Lại nghe được thêm một từ “súng – hải pháo” và ngồi tưởng tượng ra các con tàu được trang bị đến 60 “súng”! Súng theo nghĩa phương Tây phải là những loại từ 1.5~2.5 tấn hoặc hơn kia, không phải mấy khẩu pháo tép nặng 100kg đâu! Có những loại vô cùng “thông minh và nhanh nhạy” như thế, toàn “huyên thuyên tán láo, xào xáo ngôn từ”, không hề hiểu thực tế vận động như thế nào!

biệt động sài gòn

Ngày càng có nhiều thông tin được giải mật, như vụ cướp máy bay trực thăng UH-1 ở Đà Lạt, trước đây chỉ xem như tin đồn, huyền thoại chưa biết có thật không thì giờ đã được chứng thực. Sự việc cướp máy bay hết sức ly kỳ này đã được “mượn” thành một tình tiết trong bộ phim “Cuộc chiến xa lạ” do người Nga làm cách đây vài năm!

Nhiều thông tin vẫn phải “đọc giữa các dòng chữ – read between the lines”, như cô bé mồ côi ở Quảng Ngãi không phải vô tình mà đi SG làm người giúp việc, đều là do tổ chức xếp cả, hay “tình cờ” đọc lá thư cũng là bài test, nếu vượt qua được bài kiểm tra này thì xin chúc mừng, bạn đã trở thành ứng viên cho các đội Biệt động Sài Gòn!

Để trở thành thành viên các tổ điệp báo, bạn cần phải thông minh, gan dạ hơn người, ngoại ngữ giỏi, thậm chí có thể được gởi đi nước ngoài học làm “quân bài dự phòng” về sau! Để trở thành thành viên các đội biệt động, phần đông đó là những đứa trẻ đã bị “traumatized” vì chứng kiến các tội ác của người Mỹ, họ chỉ một ám ảnh là phải báo thù…

hư ảo

Các câu hỏi đặt ra phần lớn là những “câu hỏi thông minh”, hỏi tức là gợi ý vấn đề, và mục đích là để kiểm tra xem người khác thông minh tới mức nào. Nhưng cũng có loại câu hỏi đặt ra chỉ để kiểm tra người khác có… bị ngu hay không? Ví dụ điển hình là cái câu: “làm sao bỏ một con voi vào trong tủ lạnh” nổi tiếng trong ngành CNTT ấy, ngày trước tôi ghét cái câu đó vô cùng, và ghét luôn bất kỳ ai hỏi câu đó! Vì nó không truyền tải bất kỳ một ý tứ hay nghĩa lý nào, chỉ là kiểm tra xem bao nhiêu thằng đủ ngu, đủ máy móc để lặp lại câu trả lời: “thì mở cửa tủ ra, bỏ con voi vào”! Nguyên là một kiểu nói đùa, đùa thô đến mức phải tự thọc lét thì mới cười được, ấy vậy mà cũng có những loại thiểu năng đem câu hỏi đó đi kiểm tra IQ.

Nhưng các “sử gia internet” VN thì có vô số dạng câu hỏi ngu như thế, một số trường hợp là… kết nối 2 sự việc chẳng có liên quan gì với nhau, bịa ra tin giả từ… không khí, ví dụ như: Trần Hữu Lượng ở TQ là con của Trần Ích Tắc nhà Trần VN chạy sang! Một số trường hợp nữa, vì mặc cảm nhược tiểu, thua kém nên đã… nói ngược, ví dụ như: Hồ Nguyên Trừng đã đem nghề đúc súng của VN truyền bá vào TQ, được xem là ông tổ nghề đúc súng ở TQ. Một dạng khác là cường điệu thực tế lên cả chục lần, kiểu như bảo nhà Tây Sơn có 9 chiến hạm được trang bị 60 súng đại bác! Các khẩu thần công còn sót lại ở VN chỉ có một số rất ít (đếm trên đầu ngón tay) là súng bắn đạn 24 pound, loại dài đến 3m và nặng khoảng 2.5 tấn.

Tất cả súng này đều đặt ở những vị trí phòng thủ cố định trên bộ. Hiện chưa có bằng chứng khảo cổ nào cho thấy VN đã đặt được súng nặng từ 1 tấn trở lên trên thuyền, vì di chuyển và điều khiển 1 tấn đó không hề đơn giản chút nào, khi dây thừng tốt còn chưa làm được, và chưa biết cách xài ròng rọc cho rành! Mà súng cỡ 1 tấn là tương đương với loại bắn đạn 9 pound, là loại súng được dùng trên… các tàu buôn châu Âu thời bấy giờ, còn súng trên tàu chiến phải từ 12 pound (khoảng 1.5 tấn) trở lên kia! Phần lớn các súng thần công tìm được ở vùng biển VN cho đến ngày nay là loại 6 pound hay nhỏ hơn, thường chỉ nặng dưới 500~600 kg. Nói cho đúng thì VN lúc bấy giờ còn chưa có Hải quân theo đúng kiểu châu Âu!

Lại càng chưa thể nói về nói những con tàu 60 súng, mỗi súng bắn đạn 24 pound, những loại như thế phải hơn 1000 tấn. Cũng có thể đó là một kiểu “léo lận ngôn từ” trong các giấy tờ, sách vở xưa, khi xem một khẩu pháo tép (swivel gun) nặng cỡ 100kg (hay một khẩu “hỏa hổ” do 2 người vác vai) như “một khẩu súng”, “lập lờ đánh lận con đen” nó với các loại “hải pháo” thật sự nặng đến nhiều tấn. Rất nhiều người chỉ đọc thông tin trên giấy chứ hoàn toàn không hiểu thực tế nó như thế nào, ví dụ như nói về các con “tàu đồng, tàu bọc đồng”, nhiều người nghĩ về nó như một loại “giáp”, “nồi đồng cối đá”, thực ra lớp bọc đồng này chỉ dày có 1~3mm và bọc từ mực nước trở xuống, có tác dụng bảo vệ gỗ chống lại các loại hà, hàu.

Lớp bọc đồng này hoàn toàn không có tác dụng như lớp giáp bảo vệ tàu trước các loại đạn, những kiểu “tiến sư – giáo sĩ, sử gia – giả sư” này đọc được đúng một từ “bọc đồng” rồi ngồi tưởng tượng ra các loại “thiết giáp hạm”. Dạng thiểu năng này nhiều vô kể, hoàn toàn không hiểu gì thực tế, chỉ “tán láo” mà thôi! Một dạng câu hỏi ngu khác là vẽ ra những điều hư ảo, xàm xí, kiểu như sau chiến tranh Nha phiến thất bại, TQ muốn dựa vào VN để học hỏi công nghệ đóng tàu. Đã đến thời hiện đại rồi, không lừa được ai với những kiểu xàm xí này đâu, cứ ôm mãi những điều hư ảo, không có năng lực thực tế thì rồi cuối cùng cũng chỉ có… “hư ảo” mà thôi! Nhưng có bộ phận rất lớn cứ suốt ngày ngồi bịa ra những chuyện như vậy!

Dùng một câu chuyện “tiếu lâm” để mô tả cách người Việt tìm hiểu quá khứ và tự nhận thức về bản thân, nó giống như một khoảng trống hoác vậy! Các nhà khảo cổ Nga, sau một thời gian đào bới, khai quật đã tìm được một cọng dây đồng, họ nghiên cứu kỹ lưỡng và đi đến kết luận: 4000 năm trước, tổ tiên người Nga đã dùng mạng cáp đồng! Người Mỹ cũng không chịu kém, sau một thời gian đào bới cũng tìm được một mẩu thủy tinh giống hình sợi cáp, họ nghiên cứu chán chê rồi đi đến kết luận: 4000 năm trước, tổ tiên người Mỹ đã dùng mạng cáp quang! Một số người Việt cũng bắt chước đào bới như vậy, nhưng đào mãi mà không thấy gì, bèn kết luận: 4000 năm trước, tổ tiên chúng ta đã xài mạng không dây! :D

huyền sử

Tại sao ghi chép thời Nguyễn Ánh – Tây Sơn lại có quá nhiều thứ xàm xí, tào lao như vậy!? Trước hết là vì người Việt không có thói quen làm tài liệu một cách chính xác, còn chính sử của nhà Nguyễn (viết bằng chữ Hán) cũng có những vấn đề của riêng nó. Những gì chúng ta biết bây giờ, đa số là biết thông qua các thư từ, ghi chép của những người Pháp, người phương Tây từng phục vụ cho chúa Nguyễn, mà những ghi chép của họ rất rất có vấn đề. Điểm qua một số người nước ngoài phục vụ trong biên chế chúa Nguyễn: Philippe Vannier: thuyền trưởng, chỉ huy tàu Phụng Phi, nhưng các tài liệu Pháp thì ghi ông ta là… Đô đốc(!!!) Jean-Marie Dayot: đại úy hậu cần, chỉ huy 2 tàu của Chúa, phụ trách vẽ bản đồ và huấn luyện.

Olivier de Puymanel: có lẽ là người quan trọng nhất trong số những người phương Tây phục vụ Chúa, giám sát thi công thành Bát Quái. Jean-Baptiste Chaigneau: thuyền trưởng tàu Long Phi, được phong tước Hầu. Laurent André Barisy: thuyền trưởng, phụ trách mua sắm vũ khí với các nước Nam Á, cũng được phong tước Hầu. Hầu hết những người này được phong chức Chưởng cơ! Nói theo ngôn từ ngày nay thì Chưởng cơ tương đương với cỡ Trung tá, nhưng theo quan chế thời đó, thường chỉ chỉ huy khoảng 500 ~ 600 quân chính quy. Nhưng đó chỉ là danh nghĩa, trên thực tế, những người Pháp này chỉ được giao 50 ~ 100 lính cho có hình thức mà thôi. Về các tước Hầu, đây là vấn đề của thời Gia Long tẩu quốc!

Để tranh thủ sự giúp đỡ của nhiều người, nhà Chúa đã phong Hầu… một cách vô tội vạ, chỉ là những tước Hầu hữu danh vô thực! Phần lớn những người phương Tây hỗ trợ chúa Nguyễn là thuộc loại mà bây giờ chúng ta gọi là những kẻ phiêu lưu, cơ hội – adventurist, như Barisy nhờ được giao phụ trách mua sắm vũ khí nên đã biển thủ, gom góp được một số tiền kha khá. Thư của Barisy kể về quân Tây Sơn như đúng rồi luôn: chúng tôi đã chiến đấu với quân Tây Sơn, họ có 9 tàu loại 60 súng, mỗi tàu 700 lính, 5 tàu loại 50 súng, mỗi tàu 600 lính, 40 tàu loại 16 súng, mỗi tàu 200 lính, etc… và chúng tôi đã chiến thắng! Trận Thị Nại, Barisy chỉ được đứng sau quan sát mà thôi! Dễ dàng nhận thấy ông ta (Barisy) chỉ phét lác!

Nếu cộng các con số của Barisy lại, thì nhà Tây Sơn sẽ có đến… 6 ~ 7 vạn Thủy quân, con số mà ngay cả Hải quân Việt Nam thời giờ cũng chưa có! Ngoài Barisy, nhiều người khác cũng thế, cái đám phiêu lưu đi tìm cơ hội làm giàu này không gì là không dám nói, dù trong số những người Pháp làm việc cho chúa Nguyễn cũng có 1, 2 người không tham lam, gian dối và được Chúa tin tưởng! Vấn đề không dừng lại ở đó, sau nữa, những người Pháp khác, các thừa sai, linh mục, các “nhà nghiên cứu”, các “sử gia” giả danh… đã tìm cách “hợp thức hóa” quá trình Pháp can thiệp vào VN, dùng vô số chiêu thức lộng giả thành chân, các “thuyền trưởng – Chưởng cơ” này đều được phong khống lên thành “Đô đốc – Tướng quân” cả!

Tất cả nằm trong một mưu đồ gieo rắc “sương mù thông tin”, nghi ngờ và thù hận, chia rẽ người Việt, và cũng là một kế hoạch “kêu gọi đầu tư” từ Pháp! Ngay trong chuyện chúa Nguyễn trả thù nhà Tây Sơn một cách vô cùng dã man tàn bạo, có nhiều chi tiết có thể được xem là bịa đặt! Các vị ấy đã “vẽ rắn thêm chân” vô số chuyện hoang đường mà ngày nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra! Rồi sau nữa, nhiều “tri thức” căn cứ vào những ghi chép đó, không biết có suy nghĩ gì không mà lặp lại như vẹt vậy, đẩy sự “vô tri” lên một tầm cao mới! Nếu nói rằng làm cho ngu dốt để dễ cai trị thì người Pháp đã vô cùng thành công! Những ghi chép của giai đoạn này cần phải được đọc với sự phân tích chi li và thận trọng tối đa!

thủy quân, p2

Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hoả mai,
Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền.
Tùng tùng trống đánh ngũ liên,
Chân bước xuống thuyền nước mắt như mưa.

Bài toán lớn nhất thời Nguyễn Ánh – Tây Sơn chính là giao thông vận tải. Nước VN có hình dạng dài và hẹp, chủ yếu là các làng mạc dọc theo bờ biển, bị chia cắt mạnh bởi núi non và sông ngòi. Bài toán vận tải thực sự rất nan giải, trong điều kiện ngày xưa không thể xây dựng hệ thống cầu đường xuyên suốt, rộng khắp được. Cứ thử tưởng tượng vận chuyển những khẩu pháo 1, 2 tấn đi hàng ngàn km bằng đường bộ qua đồi núi xem, chuyện không thể làm được! Trong cuộc hành quân Kỷ Dậu – 1789, một giáo sĩ đã kể lại rằng quân Tây Sơn, sau 15 ngày đêm hành quân gần như liên tục, trông như một băng đảng rách rưới, ốm đói, bệnh tật! Nên việc vận tải trong chiến thắng Kỷ Dậu vẫn phải dựa phần lớn vào thuyền!

Trong nhiều thế kỷ, các triều đại VN đều dựa nhiều vào đường thủy, như hệ thống kênh Nhà Lê xây dựng suốt mấy trăm năm. Hay xa hơn, Hưng Đạo vương thắng được quân Nguyên cũng chỉ với cách di chuyển quân bằng thuyền, xích tới xích lui, loanh quanh trong phạm vi không quá lớn của châu thổ sông Hồng, nơi hệ thống sông ngòi rộng khắp khiến cho kỵ binh Nguyên Mông khó vượt qua và không phát huy được sức mạnh! Đến thời Nguyễn Huệ – Nguyễn Ánh, đất nước trãi dài ra như vậy, cả 2 bên đều hiểu rằng phải tổ chức phần lớn quân đội dạng… thủy quân lục chiến! John Barrow trong hồi ký của mình đã dùng chữ “Marine” (chứ không phải “Navy”) là rất đúng khi nói về Thủy quân của chúa Nguyễn..

Những điều này thì một vị vua tài ba như Quang Trung dĩ nhiên hiểu rõ, nhưng tiếc là ông ta… đoản mệnh, qua đời khi mới 40 tuổi, chưa kịp thực hiện các ý tưởng của mình! Mà các tướng lĩnh Tây Sơn không có ai hiểu rõ vai trò của thủy quân, không dự trù được các hình thức tác chiến dựa vào thuyền. Còn một vị vua như Nguyễn Ánh, tuy không tài giỏi bằng, tầm nhìn cũng hạn hẹp hơn, nhưng ông ta đủ thông minh để hiểu rõ cách thức tiến hành chiến tranh, và quan trọng là sống đủ lâu, đủ kiên trì để biến những hiểu biết đó thành chiến thắng! Tình hình phân tranh ở VN trong các thế kỷ 17, 18, 19 giống hệt như các sứ quân – Daimyo đánh nhau ở Nhật Bản, như mô tả trong tiểu thuyết Shogun (James Clavell) vậy.

Nhật cũng là một đất nước toàn đồi núi, việc chuyển quân phần lớn trên bộ, nhưng hậu cần là gần như dựa hoàn toàn vào vận tải biển! Điển hình như sau thủy chiến đầm Thị Nại, Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu rút quân về phía Bắc để hội quân với vua Quang Toản, nhưng phải đi bằng “thượng đạo – đường rừng” chứ không thể đi đường ven biển. Sau khi đã mất thủy quân, mất khả năng cơ động, thì nhà Tây Sơn liên tục rơi vào thế bị động, không có đường thủy thì không thể vận tải quân lính, súng đạn, lương thực thuận tiện được. Và chúa Nguyễn đã nắm thế chủ động khi có thể, chỉ trong vài ngày, đổ bộ quân bất kỳ đâu dọc theo bờ biển để ngăn chặn các tướng Tây Sơn! Sự việc sau đó diễn ra đúng như vậy!

Sau khi đi đường thượng đạo từ Quy Nhơn ra Quảng Nam thì 2 tướng Tây Sơn bị thủy quân nhà Nguyễn đổ bộ, chặn lại ở Hội An. Không còn súng đạn, lương thực, lại buộc phải rút lên theo đường rừng, sang đất Lào ra bắc, đến nơi thì không còn bao nhiêu người! Mất đi quân bài chiến lược, nhà Tây Sơn sụp đổ nhanh chóng trong 2 năm! Từ nhiều ghi chép trong lịch sử, có thể thấy rằng: các thuyền chèo tay – galley là một lực lượng đáng gờm nếu: #1. tập trung đủ số lượng, #2. có các pháo hạm (thuyền mành kiểu TQ hay pháo hạm kiểu Tây phương) hỗ trợ hỏa lực, và #3. tác chiến ven bờ, không đi ra vùng biển xa, và chiến thắng chẳng qua là dùng số lượng lớn, vận động linh hoạt trong không gian không quá rộng!

Lịch sử thời Nguyễn ghi lại nhiều lần thủy quân đã đánh thắng Hải tặc, thậm chí đã có lần hiếm hoi chiến thắng cả hải quân Tây phương, đó là khi có đủ 3 điều kiện này. Ngược lại, các thuyền chèo tay galley này sẽ là “miếng mồi ngon” cho các thuyền mành nếu ra vùng biển mở, có không gian rộng để vận động, vì thuyền mành có pháo lớn, tầm bắn xa hơn! Lịch sử nhà Nguyễn cũng ghi lại nhiều trường hợp, các đội thuyền galley thất bại trước các nhóm hải tặc Quảng Đông, do đi xa bờ và không có súng lớn hỗ trợ. Do đó, không nên ảo tưởng về khả năng tác chiến xa bờ của “Hải quân” Tây Sơn cũng như nhà Nguyễn! Thủy chiến đầm Thị Nại (1801) và cửa Tư Hiền (1802) là những ví dụ rõ ràng về tác chiến đổ bộ ven biển!

Sau khi Nguyễn Huệ qua đời, nhà Tây Sơn đã mắc phải sai lầm chiến lược, đặt phần lớn thủy binh ở đầm Thị Nại, không nắm bắt được sự phát triển vượt trội của thủy quân chúa Nguyễn, không có các hình thức tác chiến chủ động, còn sự hỗ trợ của cướp biển Quảng Đông thì chỉ chừng mực, suy cho cùng họ là lính đánh thuê chứ không phải quân triều đình! Các tay cướp biển Quảng Đông thừa hiểu rằng họ không thể địch lại “hạm đội” thuyền chèo đông đảo của chúa Nguyễn, nhất là khi phải tác chiến trong các vùng đầm phá ven bờ, dù đi xa bờ thì hạm đội của chúa Nguyễn không thể đối chọi lại cái “Liên đoàn cướp biển Quảng Đông” khá là lớn mạnh đó. Có quá nhiều bài báo, tài liệu giật tít rất kêu, “nổ” tận mây xanh!

Nào là người Việt chinh phục đại dương, tự đóng được tàu hơi nước, có nhiều pháo hạm 60 súng, và nhiều sự hoang đường, vĩ cuồng khác! Những tài liệu này đều có câu cú lủng củng, văn viết không thông, ngoại ngữ Anh, Pháp đọc không hiểu, sai vô số chỗ, nhưng vẫn nói như đúng rồi vậy! Tác chiến ven bờ hoàn toàn khác với hải quân “nước xanh” (blue water), loại sau đòi hỏi một trình độ kỹ thuật cao hơn hẳn! Còn cái đầu cơ bản chỉ là một hạm đội đông đảo thuyền chèo tay mà thôi, qua các tài liệu đương thời, có thể nhận định rằng người Việt lúc bấy giờ vẫn còn chưa nắm được hết các kỹ thuật điều khiển buồm, càng không nên nói đến một nền “công nghiệp quốc phòng” đủ khả năng đóng tàu to, súng lớn!