e-ink display

Hiện tại, giá còn hơi chát, nhưng tương lai 1, 2 năm nữa, có một viễn cảnh như thế này: máy tính của coder nên có hai màn hình, một LCD truyền thống, và một e-ink, trong ảnh là màn hình e-ink Dasung, cty trụ sở tại Bắc Kinh, TQ (đã có màn hình kích cỡ 25.3 inch). Tất nhiên, nhiều thao tác máy tính vẫn cần đến màn hình đầy đủ mầu sắc.

Nhưng với một coder – lập trình viên mà nói, một ngày có khi hơn 12 tiếng, phần nhiều chỉ edit text, thì màn hình e-ink hoàn toàn không phát sáng, đúng nghĩa là “giấy trắng mực đen”, có thể bảo vệ mắt tốt hơn rất nhiều, càng tốt hơn nữa nếu có thể hiển thị 256 mức xám! Xứ sở phát minh ra giấy, đương nhiên sẽ làm giấy điện tử thật tốt!

ngôn hoài

Chọn nơi xa vắng sống thong dong,
Vui vẻ từng ngày thoả tính ngông.
Đôi lúc trèo ngay lên đỉnh vắng,
Hét dài một tiếng lạnh tầng không!

Trạch đắc long xà địa khả cư, Dã tình chung nhật lạc vô dư. Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh, Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư! (Không Lộ – Lý quốc sư). 倥路禪師 – 言懷 擇得龍蛇地可居,野情終日樂無餘。有時直上孤峰頂,長叫一聲寒太虛。

từ nguyên: tự do

Từ nguyên: Tự do – 自由 – Freedom, Liberty. Giải thích theo Hán ngữ thì tức là: “vì nguyên do tự thân”, “tự dàn xếp ổn thoả với các lý do nội tại”, “tự mình điều phối được suy nghĩ, hành động của bản thân”, hay nôm na nghĩa là “tự do mình mà ra”. Từ mang hàm nghĩa con người có được “tự do” khi có thể sống ổn thoả với chính bản thân mình, ngữ nghĩa hướng nội kiểu rất “duy tâm” nhé!

Giải nghĩa như thế hình như chẳng có liên hệ gì với “freedom – liberty” của phương Tây, những khái niệm mang hàm ý: con người thoát ra khỏi ràng buộc của môi trường, của xã hội xung quanh. Một đằng chỉ liên hệ ngoại giới, ngoại thân, một đằng chỉ nội tình nội tại bên trong, nhưng bị cưỡng ép về cùng một nghĩa. Vậy lâu nay, các anh dùng từ “tự do” nhưng có thật sự hiểu nghĩa nó không?

tử viết, tử viết…

Lại nói truyện chưởng Kim Dung, Thiên Long bát bộ, hồi 58, 59. Nguyên lai, Tô Tinh Hà của Tiêu Dao phái có 8 đệ tử gọi là Hàm Cốc bát hữu, 8 vị này tuy võ công không cao, nhưng mỗi người có những “tuyệt nghệ” riêng, người chơi đàn, kẻ đánh cờ, người đọc sách… Trong Hàm Cốc bát hữu đó, hàng thứ 3 gọi là Cẩu Độc, cái tên này có nghĩa là: bạ cái gì cũng đọc, đọc vô số sách vở, cứ mở miệng ra là: “Tử viết, Tử viết” (Khổng tử nói thế này, thế kia…), luôn mồm trích dẫn điển tích, tầm chương trích cú. Hai hồi này trong Thiên Long bát bộ có rất nhiều “Tử viết, Tử viết”, thật là một màn trào phúng, châm biếm rất thú vị!

Chuyện “Tử viết, tử viết” (子曰,子曰。。。 Khổng tử nói thế này, Khổng tử nói thế kia…) trước đã có nói đến nhiều, nay đến chuyện “Khổng tử không nói”… 子不語怪力亂神 – Tử bất ngữ: quái lực loạn thần – Khổng tử không bàn chuyện quái dị, bạo lực, phản loạn và thần quỷ. Nhiều lần, đã từng có nhiều người hỏi Khổng Ni về thần tiên, ma quỷ, về “thế giới bên kia”, tất cả đều được đáp rằng: chuyện người sống còn chưa biết rõ, bàn làm gì chuyện người chết! Tư tưởng của Khổng tử tập trung hoàn toàn vào vai trò, tư cách, đạo đức của con người trong cộng đồng và xã hội, ông ấy từ chối trả lời các vấn đề siêu hình, siêu nhiên…

thệ hải minh sơn

Đàn anh đã cho tôi trời xanh bao ước mơ tuổi thơ,
Đàn anh đã cho tôi dòng sông mang cánh buồm khát vọng…
Mặt trời bé con - Trần Tiến 

Facebook nhắc ngày này mấy năm trước… Nhiều lần xem phim, thấy cảnh trai & gái ngồi tự tình, đối diện biển xanh bao la, cảnh quan diễm lệ, tôi muốn kêu lên: 你门都傻了吧? – Nhĩ môn đô soạ liễu ba?

Chúng mày khùng hết rồi hả? Còn không mau nhảy xuống biển, hoà mình vào cái không gian rộng lớn đó, còn ngồi đó mà ngôn tình cái gì, 誓海盟山 – thệ hải minh sơn – thề non hẹn biển, toàn nói ba lơn!

thanh bình lạc

Bộ phim đang “hot” thời gian gần đây, tuy hình thức cổ trang, ngôn tình, nhưng hàm lượng văn hoá không phải ít. Yếu tố căn bản đầu tiên, đó là Tống triều tìm cách du nhập giống lúa “100 ngày” từ Giao Chỉ (ngày nay là VN), giống lúa mau kết hạt, chịu sâu bệnh, thời tiết tốt này là cải cách rất căn bản và sâu rộng đối với nông nghiệp TQ đương thời, sản lượng lương thực tăng nhiều lần, lần đầu tiên trong lịch sử, lương thực dự trữ trong kho đủ ăn trong… 50 năm, điều này dẫn đến bùng nổ dân số, rồi lần lượt dẫn đến bùng nổ kinh tế, thương mại, KHKT. TQ bước vào một kỷ nguyên thịnh vượng chưa từng có, đời sống vật chất đầy đủ, các đô thị mở rộng, văn hoá, văn chương, tư tưởng đạt đến mức cực thịnh: Phạm Trọng Yếm, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Vương An Thạch, Trình Di, Trình Hạo, etc…

Đời sống vật chất cao như thế, XH chuyển biến thành những cấu trúc, tổ chức phức tạp đan xen nhau về lợi ích. Đời sống văn hoá tinh thần cao như thế dẫn đến một xã hội văn trị, văn nhân chữ nghĩa được coi trọng, mà võ bị bị coi thường. Võ tướng đời Tống được ưu đãi nhiều về tiền bạc và vật chất, nhưng bị từ chối sự công nhận về địa vị nơi miếu đường, bị xem thường về danh dự. Về việc binh, Tống triều nổi tiếng là… đánh đâu thua đó, chủ tướng trận vong, toàn quân tiêu diệt, cứ thế lặp lại! Hàng năm, để được yên ổn, Tống phải cống nạp cho Liêu hàng vạn lạng bạc và nhiều sản vật khác, thế nhưng trên tổng thể vẫn không thiệt vì cán cân thương mại nghiêng hẳn về phía Tống, còn phía Tây Hạ, Liêu cái gì cũng phải mua từ Trung Nguyên, từ lương thực, nhu yếu phẩm cho đến tơ lụa, hàng thủ công mỹ nghệ!

Ngay cả gây sự với VN cũng bị Lý Thường Kiệt đánh cho tan tành. Tống sử có cách giải thích “chữa thẹn” rất hài hước về chuyện đánh đâu thua đó, lý giải rằng Liêu, Tây Hạ là những bộ tộc du mục, “toàn dân vi binh” – 全民為兵 – già trẻ, trai gái ai cũng là lính, nên một “quân đội chuyên nghiệp” như Tống không thể địch lại được! Cái thành ngữ “toàn dân vi binh” này lại được thấy sử dụng một lần nữa năm 1979, khi hơn nửa triệu quân TQ không thể xuyên thủng hàng thủ của 80 ngàn dân quân VN ở biên giới phía bắc. Nói tới nói lui, cũng phải thừa nhận một thực tế rằng, năng lực sản xuất, trình độ văn hoá cao khiến xã hội TQ nghiêng hẳn về tổ chức quy mô, quy cũ, mà yếu hẳn về tinh thần võ bị, mà những sắc dân yếu kém hơn về kinh tế, văn hoá như Liêu, Tây Hạ, VN thì… ngoài cái mạng cùi ra, chẳng có gì để mất!

bắc đẩu

徐安貞 – 聞鄰家理箏

北斗橫天夜欲闌
愁人倚月思無端

Hai bức “sơ đồ” chòm sao Bắc Đẩu, cái đầu vào nửa đêm, chòm sao thẳng đứng, cái sau ban ngày, chòm sao nằm ngang. Thơ của Từ An Trinh thời Đường: – Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan, Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan – Đêm tàn, Bắc đẩu quay sang, Người ngồi dựa nguyệt, ngổn ngang mối tình… Sao Bắc đẩu xoay ngang tức là trời sắp sáng…

từ nguyên: giả dụ, rút cuộc & sốt

Từ nguyên: giả dụ (假如, âm Hán Việt: giả như) & rút cuộc (如果, âm Hán Việt: như quả). Để ý hiện tượng một chữ “như” (âm Hán Việt) nhưng có đến hai cách đọc (dụ, rút), chứng tỏ từ ngữ du nhập vào VN tại nhiều thời điểm, thậm chí là từ nhiều nguồn (địa phương) khác nhau.

Sốt: (âm Hán Việt: thiêu) từ này nhiều người cho rằng bắt nguồn từ tiếng Pháp “chaud” có nghĩ là nóng, nhưng tôi lại cho rằng một từ rất cơ bản như thế không phải mượn từ Pháp ngữ muộn đến vậy! Dĩ nhiên, lần nữa cũng chỉ “ghi chú” như thế, không dài dòng giải thích!

chính khí hướng thượng

Lại là phim thanh xuân Trung Quốc, vừa bước vào cổng trường (vâng, chính là ngôi trường trung học Chấn Hoa – 振华中学 nổi tiếng qua ít nhất 3 bộ phim thanh xuân khác nhau), đập ngay vào mắt là câu khẩu hiệu: Hảo vấn lập hành, Chính khí hướng thượng! Haiza, dĩ nhiên cũng chỉ là khẩu hiệu, nhưng nó cũng nói lên được nhiều vấn đề!

Lại đi trước Việt Nam, từ lâu đã bỏ những câu sáo rỗng, không có mấy giá trị thực tế, kiểu như Tiên học lễ, hậu học văn. Lễ không quá quan trọng, văn cũng chưa phải là quan trọng lắm đâu, quan trọng nhất là khí chất con người: chính trực, ngay thẳng, luôn tìm đường hướng đi lên, chứ không mãi lưu manh lặt vặt kéo cả lũ xuống dưới!

好问立行
正氣向上

cảnh cảnh tinh hà

Phải nói là TQ làm phim thanh xuân – coming-of-age rất hay. Không nên nhầm lẫn với thể loại ngôn tình, ngôn tình chỉ mới gần đây, thanh xuân đã có từ lâu, dù cũng có xu hướng hoà lẫn 2 thể loại. Ôi thanh xuân, ánh thiều quang xán lạn! Nhớ lại chính tôi năm lớp 8, cũng mượn giờ Văn, mượn Kiều để tỏ tình ngay giữa lớp, tỉnh như ruồi không biết ngượng: Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không?! Đầu phim nghe tên nam & nữ chính: Cảnh Cảnh & Tinh Hà thấy quen quen, nghĩ một chút là nhớ ra mượn từ Trường hận ca – Bạch Cư Dị: Trì trì chung cổ sơ trường dạ, Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên.

Lời thoại chất lượng, mượn cổ văn khá nhiều, nói về kỳ thi ĐH: khảo thí bất nhân, dĩ học sinh vi sô cẩu – thi cử thật là bất nhân, xem học sinh như cỏ rác, nhại một câu trong Đạo đức kinh, Lão tử: Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu! Lồng ghép văn hoá cổ như thế, lứa tuổi HS chưa thể hiểu hết được, nhưng lớn lên từ từ sẽ hiểu, sẽ tìm lại những nội dung ẩn giấu trong đó, có những nội hàm làm phong phú cuộc sống về sau! Với khán giả VN thì không thể nào hiểu được, cùng lắm chỉ nắm được vài ngôn từ bề mặt! Nên suốt cả ngàn năm nay, không lúc nào mà VN không học TQ, nhưng rút cuộc, cũng chỉ học được mấy cái hời hợt!

danh chính ngôn thuận

Chuyện thấy được khi xem phim, vấn đề an ninh mạng TQ, dĩ nhiên có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng có một điều rất căn bản: công khai danh tính! Các tài khoản mạng ở TQ hầu như đều phải xác minh nhân thân, như thế ai nấy đều phải suy nghĩ kỹ càng trước khi nói, chỉ cần có Báo cáo (Report) từ tài khoản “tíc xanh” là đã có thể bắt đầu chuỗi hành động pháp lý! Danh có chính thì ngôn mới thuận được, đây là chuyện đương nhiên! Về vấn đề quyền riêng tư, hiện tại, các tài khoản mạng ở TQ vẫn cho phép một mức độ “ẩn danh” (không xác minh) nhất định! Nhưng chỉ có khiếu nại, kiện cáo từ tài khoản “tíc xanh” thì mới được xem xét!

Còn loại kia chỉ mang tính chất thông tin. Khi đa số người dân trong cộng đồng đều “tíc xanh”, thì phát ngôn từ tài khoản “không tíc xanh” được xem là không “chính danh”, không có trọng lượng, có độ ưu tiên rất thấp! Về vấn đề tự do ngôn luận, điều này chỉ khả dĩ trong một xã hội dân trí cao, con người có lòng tự trọng và ý thức đạo đức, pháp luật! Còn trong một xã hội phức tạp, đầy rẫy “lưu manh vặt” như TQ và VN thì chỉ có đẩy tinh thần “pháp trị” tới cao độ, thậm chí là hà khắc, ác liệt thì mới có thể giáo dục, sửa đổi con người, ép họ phải “cẩn ngôn, thận hành”! Không thể ngồi đó mà trông chờ vào mấy câu “đạo đức” suông được!

từ nguyên: chủ tịch, chủ xị

Chủ tịch, chủ xị (主席), “chủ tịch” là đọc theo âm HV, đọc theo âm Bắc Kinh hiện đại sẽ là “chủ xị”, nên “chủ tịch” hay “chủ xị” thì chỉ một từ, một nghĩa mà thôi. Du nhập vào VN tại những thời điểm khác nhau nên ý nghĩa ngữ dụng học (pragmatics) hơi khác nhau! “Tịch” là cái chiếu (Nguyễn Du: tịch mạt nhất nhân phát bán hoa – 席末一人髮半華), ngày xưa ở ngoài hội đồng làng, ai ngồi đầu chiếu tức là nhân vật quan trọng nhất vậy!

từ nguyên: cùn & quýt

Cùn (, âm Hán Việt: độn): nghĩa là không sắc bén, cùn (dao), nghĩa thứ 2 là chậm chạp, ngu dốt (đần độn, trì độn). Quýt (, âm Hán Việt: quất), trong tiếng Việt, quýt và quất là 2 thứ quả khác nhau, tiếng Hoa chỉ có một chữ! Như vậy có hiện tượng một chữ nhưng có 2 cách đọc (âm cổ và âm mới), du nhập vào tiếng Việt tại những thời điểm khác nhau, và dùng để chỉ 2 thứ khác nhau, nhưng trong tiếng Hoa nguyên gốc chỉ có một chữ!

tiêu sầu

Nhạc của Mao Bất Dịch vừa nghe là biết đơn giản, không xuất sắc lắm, nhưng ca từ thì chỉnh tề không chê vào đâu được: Một ly này kính cố hương, Một ly này kính viễn phương, Xin giữ tâm hồn này thiện lương, Xin cho tôi được trưởng thành. Cái gì mà “niệm niệm bất vong”, Cái gì là “sơn cao thuỷ trường”? Đến khi trời sáng, ai nói mình không say thì thật đúng hoang đường!

từ nguyên: giá cả

Từ nguyên: giá cả (价格, âm Hán Việt: giá cách). Chữ “cách” (cùng một chữ cách như trong: nhân cách, phẩm cách, tư cách, etc…) nguyên nghĩa là mức, vạch dùng trong các thiết bị đo lường, nên “giá cả” sẽ hiểu như là thang giá, mức giá, bảng giá… Lần nữa, chỉ ghi chú lại ở đây, không giải thích nhiều nhưng đặt câu hỏi là: tại sao nhân *cách*, phẩm *cách*, nhưng lại là giá *cả* !?

từ nguyên: hoảng hồn

Từ nguyên: hoảng hồn (惶恐, âm Hán Việt: hoàng khủng). Đôi khi âm Quan Thoại qua các thời kỳ và âm Hán Việt rất khác nhau, tiếng Hoa du nhập vào VN tại nhiều giai đoạn khác nhau, suốt từ Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, etc… lúc nào cũng du nhập thêm từ mới! Nên việc truy về từ nguyên rất khó khăn, nhưng cũng chính vì thế nên không muốn bàn cãi cũng như giải thích, chỉ note lại như thế..

từ nguyên: ba hoa

Từ nguyên: ba hoa (八卦, âm Hán Việt: bát quái). Từ điển tiếng Việt giải thích “ba hoa” bắt nguồn từ “bavard” trong tiếng Pháp, Anh có nghĩa là “lắm lời”. Tôi ngờ rằng cách giải thích này không đúng, thực sự bắt nguồn từ chữ “bát quái”, ngoài nghĩa “âm dương, bát quái” trong Văn ngôn, với Bạch thoại còn có nghĩa là người nói chuyện tào lao, buôn dưa lê! Đúng hay sai thì tôi không muốn giải thích, chỉ note ở đây!

lạc hà thu thuỷ

Facebook lại nhắc, hồi đó mới chèo được 2, 3 năm… xuồng đi thuê ở khu du lịch chứ chưa tự đóng. Vạn sự khởi đầu nan, lúc mới đầu nhảy xuống nước, từ con kênh nhỏ vài chục mét ra đến con sông SG ngang mấy trăm mét nhìn mênh mông đáng sợ, cảm giác hồi hộp vô cùng.

Giờ mấy chục cây số ngang biển vẫn thấy nhỏ. Cái gì cũng phải tập từ từ, tự tay làm rồi mới hiểu, hồi xưa, nghe “bọn Tây” nói chuyện chèo vài ngàn cây số bằng cái xuồng ngang 50cm, nếu không đã tự tay chèo vài trăm cây, thì e là nghe như chuyện khoác lác, tào lao…

cẩu mệnh

Facebook nhắc ngày này năm trước… Tiếng Việt: chia tay rồi, anh còn giữ lại cái gì của người yêu cũ không? – Có, giữ lại cái mạng chó của nó!

bát trạo ca

Tam thập niên lai hải thượng du, Thủy thanh ngư hiện bất thôn câu. Điếu can chước tận trùng tài trúc, Bất kế công trình đắc tiện hưu. – Ba chục năm qua dạo sông chơi, Nước trong nên cá chẳng ham mồi. Hết cần trồng trúc làm cần mới, Đâu quản nhọc nhằn được mới thôi!

德成禪師 – 得便休

三十年來海上遊
水清魚現不吞鉤
釣竿斫盡重栽竹
不計功程得便休