Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bằng an dưới thế cho người thiện tâm.
Tag: poetry
sương đầu núi
miền gái đẹp
anh lái đò
Đồn rằng đám cưới cô to,
Nhà trai thuê chín chiếc đò đón dâu.
Nhà gái ăn chín trăm cau,
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn.
Lang thang tôi dạm bán thuyền,
Có người trả chín quan tiền, lại thôi!
đèo ngoạn mục
Trời Nam nghìn dặm thẳm,
Non nước một mầu sương.
Chí chưa thành, danh chưa đạt,
Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc?
Trăm năm thân thế bóng tà dương.
Sapa và Sapả
nhớ không vừa
王安石 – 示長安君
少年離別意非輕
老去相逢亦愴情
草草杯盤共笑語
昏昏燈火話平生
自憐湖海三年隔
又作塵沙萬里行
欲問後期何日是
寄書應見雁南征
Hình chụp trong chuyến xuyên Việt năm 2016, đi ngang qua trường cấp 2 cũ – Trưng Vương – Thánh Tâm – Đà Nẵng, những năm tháng học ở đây, bao nhiêu kỷ niệm xưa cũ ngỡ đã quên bỗng ùa về…
Lão khứ tương phùng diệc sảng tình.
Thảo thảo bôi bàn cung tiếu ngữ,
Hôn hôn đăng hỏa thoại bình sinh…
Gặp gỡ tình già đã não chưa?
Mâm chén sơ sài ngồi đối mặt,
Ngọn đèn leo lét chuyện ngày xưa…
thu phong từ
李白 – 秋風詞
秋風清
秋月明
落葉聚還散
寒鴉棲復驚
相思相見知何日
此時此夜難為情
Hình chụp trong chuyến xuyên Việt năm 2014, chụp tình cờ bằng điện thoại nên không được rõ nét lắm, cảnh sắc trăng chiều mơ hồ, bỗng gợi nhớ đến một bài thơ của Lý Bạch…
Mùa thu trăng sáng dõi theo bóng nàng.
Lá bay kìa, hợp rồi tan,
Lạnh lùng quạ khóc, miên man đêm trường.
Bao giờ gặp lại người thương?
Đêm này, tình ấy, tỏ tường cùng ai?
một mùa đông – 1
Hãy xếp lại muôn vàn ân ái
Đừng trách nhau, đừng ái ngại nhau,
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ lên lầu không trăng.
tần thời minh nguyệt
Khi nhỏ, một mình tự học Hán tự, tự đọc thơ Đường, mọi thứ đều là trên giấy trắng mực đen, thông tin không được phong phú, đa phương tiện như bây giờ. Tất cả chỉ là một mình tự thưởng thức cái đẹp, những gì lịch sử còn lưu lại, Đường thi với gần 5 vạn (50 000) bài của hơn 2 ngàn tác giả (số lượng thực tế chắc chắn lớn hơn nhiều, không kể phần đã thất truyền, mai một qua hơn 1200 năm biến động lịch sử). Kho tàng văn hoá đồ sộ như thế, Trung Quốc lâu lâu bẻ ra một miếng là làm thành một bộ phim, thỉnh thoảng trích một câu là làm được một series truyền hình, thậm chí còn không cần tới một câu!
Tần thời minh nguyệt, mới có 4 chữ trong một câu 7 chữ. Trông người lại ngẫm đến ta, xưa có câu Nôm na là cha mách qué
, ý nói về bản chất, ngôn ngữ Việt cũng thể… phường “ba que xỏ lá”, chẳng có thực chất gì! Lại nói, gần đây, giới ngôn ngữ học có xu hướng cho rằng, thực ra “tiếng Việt” chưa phải là một ngôn ngữ hoàn chỉnh mà mới chỉ là một “Creole language”, một dạng tập hợp, hình thành tạm bợ, nhất thời từ nhiều nguồn khác nhau, thừa hưởng cấu trúc ngữ pháp từ gốc Môn – Khmer, tiếp nhận hệ thống thanh điệu từ phía Tày – Thái và vay mượn một lượng rất lớn từ vựng từ nguồn Hán tự!
cổ lai danh lợi nhân
Một chiều trên tỉnh lộ 206 từ Đàm Thuỷ, Trùng Khánh, Cao Bằng (thác Bản Giốc) chạy về thị trấn Phục Hoà, giáp ranh TQ. Con đường rất đẹp đi qua vùng biên giới hoang vắng, hiếm hoi lắm mới thấy được một mái nhà, một bóng người. Đã hơn 5h chiều, khu dân cư gần nhất vẫn còn cách tầm 50 km, trời rét dưới 10 độ, bụng đói cồn cào. Đang không hy vọng gì có được một bữa tối êm ấm, thì qua một khúc quanh, bỗng đâu xuất hiện một quán… heo quay. Tin nổi không, một quán heo quay lá mắc mật nằm trơ trọi giữa núi rừng. Vội ghé vào, chủ quán là người Tày, trong bộ áo quần lĩnh đen truyền thống, đầu chít khăn mỏ quạ cũng đen nốt, bất giác cảm thấy như đang ở trong một phim cổ trang nào đó. Thật đúng là:
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung,
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu
Tỉnh giả thường thiểu, tuý giả đồng!
Trích từ trong bài thơ Sa hành đoản ca của Cao Chu Thần – Cao Bá Quát đã đăng cách đây rất nhiều năm. Gọi thầm trong bụng: Tiểu nhị, cho 2 cân thịt và 1 vò rượu!
Trời lạnh cóng thế này, không có gì khoái khẩu hơn những món ăn nhiều mỡ, làm liền một lúc 3 lạng heo quay, vẫn còn thòm thèm! Chủ quán đem rượu Táo mèo ra mời, ngồi nói chuyện lai rai, không tiện từ chối, làm chừng 3 ly nhỏ để cho ấm cơ thể! Thầm nghĩ trong đầu, hết chỗ rượu thịt này, chủ quán mà kêu lên: 1, 2, 3, đổ này, đổ này!
thì nguy to, có khi sắp trở thành bánh bao đến nơi! Nghĩ vậy thôi, chứ thực ra, chưa bao giờ gặp được một nữ chủ quán dễ thương, có giọng nói ngọt ngào, êm dịu đến thế giữa núi rừng Đông Bắc!
Xưa nay phường danh lợi,
Bôn tẩu trên đường đời.
Gió thoảng hơi men trong quán rượu,
Say cả, hỏi tỉnh được mấy người?
vân hoành tần lĩnh
Xăm với tôi không phải là mê tín dị đoan, đơn giản chỉ là trò chơi chữ nghĩa mang tính giải trí. Hôm trước còn tự “sáng tác” ra trò gọi là “Cổ thi thiêm”, chọn ra 100 câu thơ Đường, đánh số từ 1 đến 100, rồi “randomize” – lấy ngẫu nhiên một số để đoán xem “hạn vận” thế nào. Bốc được ngay câu của Hàn Dũ: Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại, Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền.
Dịch nghĩa: Mây giăng ngang dãy núi Tần, nhà của ta ở đâu? Tuyết phủ đầy cửa ải Lam, ngựa không tiến lên được! Haiza, là điềm báo sự việc không suôn sẻ, cái gì là “nhà ở đâu”, thế nào là “ngựa không tiến”!? Nhưng nghĩ lại, mình đi bằng xuồng chứ có đi bằng ngựa đâu, nên thực ra cũng chẳng có can hệ gì, thôi kệ, xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều
!
韓愈 – 左遷至藍關示姪孫湘
雲橫秦嶺家何在
雪擁藍關馬不前
tiêu hạ khách
Giả Thám Xuân – “cô Ba hoa hồng” của phủ Vinh quốc công – Tiêu hạ khách của Hải Đường thi xã – 30 năm trước xem phim chỉ thích mỗi một nhân vật này! Không xinh đẹp như Tiêu Tương phi tử – Lâm Đại Ngọc, không thông minh như Hành Vu quân – Tiết Bảo Thoa, nhưng tài năng, phẩm hạnh đôi đường trọn vẹn, trong Kim Lăng thập nhị thoa chính sách vẫn là người có kết cục tốt đẹp nhất, phúc trạch được viên mãn về sau!
Cửa nhà, ruột thịt thôi đều bỏ qua.
Con đành lỗi với mẹ cha,
Khóc thương chỉ thiệt thân già đấy thôi.
Cùng thông số đã định rồi,
Hợp tan âu cũng duyên trời chi đây.
Phân chia hai ngả từ nay,
Dám mong giữ được ngày ngày bình yên.
Con đi xin chớ lo phiền!
uổng ngưng mi
Đàn cổ tranh và diễn xướng, bài Uổng ngưng mi, chính là bài nhạc giáo đầu phim Hồng lâu mộng phiên bản 1987. Càng nghe càng thấy “nể và sợ” gia tài văn hoá, thi ca, âm nhạc cổ điển Trung Hoa. Mặc dù với thời gian, chiến tranh, loạn lạc… nhạc phổ các thời Tống, Nguyên trở về trước hầu như đã tiêu tán, thất truyền hoàn toàn, nhưng nhạc phổ của các triều Minh, Thanh vẫn còn được bảo tồn khá nguyên vẹn cho đến ngày nay!
Một bên ngọc đẹp không hoen ố màu.
Bảo rằng chẳng có duyên đâu,
Thì sao lại được gặp nhau kiếp này?
Bảo rằng đã sẵn duyên may,
Thì sao lại chóng đổi thay lời nguyền?
Một bên ngầm ngấm than phiền,
Một bên đeo đẳng hão huyền uổng công!
Một bên trăng rọi trên sông,
Một bên hoa nở bóng lồng trong gương.
Mắt này có mấy giọt sương,
Mà tuôn chảy suốt năm trường, được chăng?
sơn pha dương
Coi mãi không chán, đoạn này, Quách Tĩnh cõng Hoàng Dung lên núi cầu xin Nhất Đăng đại sư trị thương, gặp người Tiều phu, một trong bốn đệ tử của Nhất Đăng. Đoạn phim không có đánh đấm gì, đơn giản chỉ là “khoe” kho tàng văn hoá cổ Trung Quốc! Người tiều phu thoạt tiên hát một điệu Sơn pha dương, bài Hàm Dương hoài cổ, rồi lại tiếp tục hát theo điệu đó, một bài Đồng Quan hoài cổ.
Hoàng Dung bèn đáp lại cũng bằng một bài theo điệu Sơn pha dương – Đạo tình. Phải hiểu cổ văn thì mới cảm nhận hết được cái hay tuyệt diệu của trường đoạn phim này, hai người đối đáp với nhau chỉ toàn dùng thơ và nhạc, trích dẫn ba bài thơ đời Nguyên và một điệu nhạc “Sơn pha dương”. Đồng thời cũng thấy rõ dụng tâm, công phu dàn dựng đoạn phim, giới thiệu đồng thời cả cổ văn và cổ nhạc Trung Quốc!
ngũ bách niên tang điền thương hải
Lại nói về phim Tây Du Ký. Những năm 80, xã hội TQ bắt đầu có chút cởi mở, người làm phim mượn hình ảnh Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành suốt 500 năm để khéo léo phản đối nhà cầm quyền: Ròng rã năm trăm năm, Ruộng dâu hoá bể xanh, Đá mòn rêu xanh bám, Nhưng trái tim vẫn lành. Vẫn hướng về tự do, Ngại chi ngày lửa đỏ…
May mắn đây đã là những năm của “Lão Đặng” với cái lý luận “mèo đen, mèo trắng”…
Đá vô tri cũng ngậm ngùi rêu xanh.
Năm trăm năm! năm trăm năm!
Ngũ Hành Sơn nặng, giam cầm thân ta.
Bao ngày tuyết nổi, sương sa,
Cuối trời hút bóng, mắt nhoà cánh chim.
Còn đây rạo rực trái tim,
Thương về chốn cũ, mãi tìm tiêu dao.
Anh hùng ngang dọc trời cao,
Sá chi lửa đốt, sợ nào giá băng.
Vẫn nguyên chí hướng tung hoành,
Lòng tin ở lẽ công bằng vẫn nguyên.
Tiếc thay năm tháng triền miên,
Trách ta, thành kẻ than phiền, vô công.
Vì sao, vì sao? Chí tang bồng,
Thành thân cá chậu, chim lồng hỡi ai!?
thanh mai trúc mã
Đọc truyện, xem phim thường thấy sử dụng thành ngữ “thanh mai trúc mã”, nhưng không để ý lắm đến xuất xứ của nó, hôm nay chợt nghĩ ra, “bụng đầy thơ” như mình sao bây giờ mới nhận ra chính là từ trong bài Trường Can hành của Lý Bạch hay đọc hồi nhỏ: Thiếp phát sơ phú ngạch, Chiết hoa môn tiền kịch, Lang kỵ trúc mã lai, Nhiễu sàng lộng thanh mai, Đồng cư Trường Can lý, Lưỡng tiểu vô hiềm sai, Thập tứ vi quân phụ…
Dịch nghĩa: Tóc em khi mới xoã ngang trán, Bẻ hoa trước cửa nhà chơi, Chàng cưỡi ngựa tre lại, Chạy quanh giường nghịch ném quả mơ xanh. “Trúc mã” chính là cây gậy trúc mà mấy cậu nhóc hay đóng giả làm ngựa, “thanh mai” là quả mơ chế biến thành món ô mai mà các cô bé hay ăn. Bài thơ mô tả chuyện tình của 2 đứa bé lớn lên bên nhau, từ nhỏ đến khi thành niên. Haizza, ai xui ngày xưa cụ Lý Bạch viết “ngôn tình” vậy ta!?
Trường Can hành – Lý Bạch
Trán em tóc mới chấm ngang,
Bẻ hoa trước ngõ, ngoài đàng đứng chơi.
Ngựa tre, chàng cỡi tới nơi,
Vui đùa ném trái mơ chơi quanh giường.
Trường Can, cùng chỗ náu nương,
Trẻ thơ chẳng có vấn vương ý gì.
Lấy chàng, mười bốn, biết chi!
Thẹn thùng, nên chẳng mấy khi ra ngoài.
Cúi đầu, quay mặt vách hoài,
Nghìn lần chàng gọi, không quay một lần.
Mười lăm, mày mới nở dần,
Nguyện cùng gian khổ quây quần bên nhau.
Tin nhau từ thuở ban đầu,
Có đâu nghĩ chuyện lên lầu ngóng trông.
Mới năm mười sáu, xa chồng,
Cù Đường, Diễm Dự, xót trông xa vời.
Tháng năm, chẳng đến được nơi,
Mãi nghe tiếng vượn bên trời bi ai.
Trước sân, dấu bước in dài,
Giờ rêu xanh phủ, đều phai mờ rồi.
Rêu dầy, khó quét, đành thôi,
Gió thu sớm thổi, lá rơi rụng đầy.
Bướm vàng tháng tám, lượn bay,
Từng đôi trên cỏ vườn tây chập chờn.
Lòng em chua xót, cô đơn,
Má hồng thấy đã già hơn trước rồi.
Tam Ba, chàng sẽ xuống thôi,
Gửi thư báo trước về nơi quê nhà.
Đón chàng chẳng quản đường xa,
Trường Phong Sa đến, thế là gặp nhau.
tỉnh để chi oa
張三豐
無根樹
道法流傳有正邪
入邪背正遍天涯
飛騰罕見穿雲鳳
陷溺多成落井蛙
Về thành ngữ “ếch ngồi đáy giếng”… hôm nay đọc được một bài thơ rất hay của Trương Tam Phong đạo trưởng, đề ở đầu tập thơ Vô căn thụ (Cây không gốc). Ai đọc Kim Dung hay xem kiếm hiệp Hồng Kông thì hẳn biết Trương chân nhân Quân Bảo là tổ sư của Võ Đang, nhưng cũng là một nhân vật lịch sử có thật, để lại nhiều tác phẩm văn thơ Đạo giáo.
Trương Tam Phong – Vô căn thụ
Đạo pháp lưu truyền hữu chính tà,
Nhập tà bội chính biến thiên nhai.
Phi đằng hãn kiến xuyên vân phụng,
Hãm nịch đa thành lạc tỉnh oa…
Dịch nghĩa: Đạo học lưu truyền có chính, có tà, Theo tà phản bội lại chính đâu đâu cũng có. Bay lên trời xuyên qua mây như chim phượng thì rất ít thấy, Mà rơi xuống thành con ếch ngồi đáy giếng thì lại rất nhiều. Chú thích: “Lạc tỉnh oa” – 落井蛙, lạc là rơi xuống, tỉnh là cái giếng, oa là con ếch, “lạc tỉnh oa” hay “tỉnh để chi oa” tức là “ếch ngồi đáy giếng” vậy.
miền sâu khói sóng
Thế sự thăng trầm người chớ hỏi, Miền sâu khói sóng chiếc thuyền câu. Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu, So giấc mộng với thân ta… y hệt! Duy chỉ có thanh phong, minh nguyệt,
Của trời chung mà vô tận riêng mình.
Sự bại thành để mặc u linh,
Người đô hội, kẻ vui miền rừng rú.
Tay gõ nhịp, hát câu Tương tiến tửu:
Anh có thấy dòng Hoàng hà?
Con sông vĩ đại nước sa lưng trời!
Làm chi cho mệt một đời!?
chơi xuân kẻo hết
Gẫm cho kỹ đến bất nhân là tạo vật, Ðã sinh người lại hạn lấy năm. Kể chi thằng lên bảy, đứa lên năm, Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc! Lại mang lấy lợi danh vinh nhục,
Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan.
E đến khi hoa rữa trăng tàn,
Xuân một khắc dễ nghìn vàng đổi chác!
Tế suy vật lý tu hành lạc,
An dụng phù danh bạn thử thân.
Song bất nhân mà lại chí nhân,
Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy.
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy!
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù?
Nghề chơi cũng lắm công phu…