gởi người em gái miền nam

Đọc ca từ này, có thêm “chứng cứ” để nghĩ rằng người trong mộng của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn chính là ca sĩ Mộc Lan, người hát trên sóng radio miền Nam: Đêm hôm nao, ngồi nghe qua không gian, em tôi mơ miền xưa qua hương lan. Trời Bắc lóa ánh đèn, một người trên đất Bắc chờ em.

Gửi người em gái miền Nam – 1956 . Bài hát đáng yêu được viết bởi Đoàn công tử – Đoàn Dự, ý quên, Đoàn Chuẩn! Phải đọc lời đầy đủ thì mới hiểu ngữ cảnh của bài nhạc. Nhạc Đoàn Chuẩn, trong khẩu vị của tôi, có phần hơi đơn giản, nhưng vẫn bàng bạc trong đó một sắc mầu đã phai của dân ca cổ Việt Nam, một chút “lục – bát” cố hữu còn vương vấn lại: đường xưa lối ngập lá vàng, đường nay thong thả bao nàng đón xuân…

thói rất xấu của người Việt, tuỳ tiện thay đổi, diễn dịch khác đi ý tứ sáng tác của người khác, dù là vô ý hay cố tình! Một tâm sự rất đặc biệt đến như thế lại bị sửa đổi thành một lời ca chung chung, chẳng có ý vị gì! Không những chỉ diễn dịch sai ý của tác giả mà còn tách rời bài hát ra khỏi bối cảnh lịch sử của nó! Ngay ca sĩ Hồng Nhung hát bài này vẫn cắt bớt lời. Hãy đọc kỹ phần bên dưới để biết rõ ca từ gốc!

Gởi người em gái miền Nam - Hồng Nhung 

Cành hoa tim tím bé xinh xinh báo xuân nồng. Rừng đào phong kín cánh mong manh hé hoa lòng. Hà Nội mừng đón tết, hoa chen người đi, liễu rũ mà chi. Đêm tân xuân, hồ Gươm như say mê. Chuông reo ngân, Ngọc Sơn sao uy nghi. Ngàn phía đến lễ đền, chạnh lòng tôi nhớ tới người em.

Tôi có người em gái, tuổi chớm dâng hương, mắt nồng rộn ý yêu thương. Đôi mắt em nói nhiều, tha thiết như dáng kiều, hoa tình yêu! Nhưng một sớm mùa thu khép giữa trời tím ngắt. Nàng đi gót hài xanh, người đi trong dạ sao đành, đường quen lối cũ ân tình nghĩa xưa.

Rồi từ ngày ấy sống trong Nam nơi kim tiền. Ngục trần giam hãm tấm thân xinh, đôi mắt huyền. Đời nghèo không lối thoát, em tôi đành thôi, cúi đầu mà đi. Xuân năm nay, đường đêm Catinat, hoa mai rơi, rủ nhau nơi phương xa. Dần trắng xóa mặt đường, một người em gái nhớ người thương!

Rồi ngày thống nhất đến rất nhanh không ai ngờ, cầu chia giới tuyến đến mai đây san đất bằng. Nụ cười trong gió sớm, anh đến chờ em giữa cầu Hiền Lương. Em tôi đi, màu son lên đôi môi, khăn san bay, lả lơi trên vai ai. Trời thắm gió trăng hiền, Hà Nội thêm bóng dáng nàng tiên.

Em, tháp Rùa yêu dấu, còn đó như thơ, lớp người đổi mới khác xưa. Thu đã qua những chiều, song ý thơ rất nhiều, cả tình yêu. Em, nhẹ bước mà đi, giữa khung trời bát ngát, tình ta hết dở dang. Đường xưa lối ngập lá vàng, đường nay thong thả bao nàng đón xuân.

Lòng anh như giấy trắng thanh tân ép hoa tàn. Thời gian vẫn giữ nét yêu đương nơi hoa vàng. Dịu lòng đàn dẫn phím, ý thơ trào dâng, viết gửi về Nam. Đêm hôm nao, ngồi nghe qua không gian, em tôi mơ, miền xưa qua hương lan. Trời Bắc lóa ánh đèn, một người trên đất Bắc chờ em.

Một vài bìa nhạc Đoàn Chuẩn – Từ Linh:

operation frankton

Một tượng đài đẹp… để tưởng nhó chiến dịch được xem là can đảm và liều lĩnh nhất Thế chiến II của Thuỷ quân lục chiến Hoàng gia Anh, 10 biệt kích được thả từ tàu ngầm, chèo 5 chiếc kayak đôi trong 4 ngày để tiếp cận cảng Bordeaux, Pháp, đặt mìn và đánh chìm tàu Đức.

Mỗi chiếc kayak chở theo 50 kg thuốc nổ, lương thực nước uống cho 6 ngày, chưa kể súng đạn và các trang thiết bị khác. Thời tiết tháng 12 năm 1942 lạnh cóng, sóng lớn và dòng chảy ngược có lúc đến 14 knot. Chỉ 2 trong số 10 người tham gia chiến dịch sống sót trở về…

nam quốc sơn hà

Đã đọc nhiều hoành phi ca tụng công đức nghe sến, nhàm… Riêng tại miếu Lam Sơn động chủ (Lê Thái Tổ – Lê Lợi), Lam Kinh, bức hoành đề 6 chữ rất hay: 南國山河自此Nam quốc sơn hà tự thử – Sông núi nước Nam… từ đó… Kiểu như bây giờ hiện đại viết phải có dấu 3 chấm lửng, muốn ngắt câu thế nào, muốn điền gì vào chỗ trống thì điền.

hội thề lũng nhai

Nhân dịp đi thăm khu di tích Lam Kinh vừa rồi, tám chơi một vài chuyện lịch sử vặt vãnh. Nguyễn Trãi, như lịch sử kể lại, là bậc anh hùng dân tộc, là danh nhân văn hoá lớn của Việt Nam, người đã giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, xây nên triều đại nhà Lê. Kháng chiến thành công, Lê Thái Tổ xuống chiếu ban thưởng cho các vị khai quốc công thần, gồm 2 đợt: Đợt 1 (1428): ban thưởng cho 121 người, không có tên Nguyễn Trãi. Đợt 2 (1429): ban thưởng cho 93 người, cũng không có tên Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi làm quan dưới các triều vua Lê, chức: Nhập nội hành khiển, tước: Triều liệt đại phu, hàm: Tam phẩm, vẫn còn dưới nhiều quan to khác (Nhất phẩm, Nhị phẩm). Tại sao thế!? Muốn hiểu tại sao, phải truy nguyên về Hội thề Lũng Nhai, năm 1416. Lịch sử chép về hội thề Lũng Nhai có nhiều phiên bản khác nhau chút ít, nhưng đại để: Lê Lợi, Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Bùi Quốc Hưng, Trịnh Khả, Trương Lôi, Vũ Uy, Đinh Liệt… cả thảy 19 người thề cùng ra sức chống giặc ngoại xâm.

Trong danh sách này không có Nguyễn Trãi! Thực tế, hội thề diễn ra vào năm 1416, thì mãi 4 năm sau, Nguyễn Trãi mới gia nhập phong trào Lam Sơn, mặc dù vai trò của ông trong cuộc kháng chiến dài 11 năm này không ai có thể phủ nhận. Phong trào Lam Sơn thời gian đầu nhiều gian khó, bản thân Lê Lợi từng 2 lần phải chui vào bụi cây trốn chó săn của quân Minh lùng sục. Hai lần chui vào bụi rậm trốn, cả 2 lần đều xuất hiện một con cáo (hồ ly) ở đâu ra, đánh lạc hướng chó săn của quân Minh.

Những chi tiết này là thật, các sử quan vài thế kỷ sau, khi vào điện chầu thời Lê, vẫn còn thấy bức tượng đầu là thiếu nữ xinh đẹp, thân là cáo, thờ trong điện, ấy là Lê Lợi nhớ “ơn cứu mạng” ngày xưa mà tạc tượng thờ. Các vị họ Lê, đa số là con cháu, họ hàng trong gia tộc Lê Lợi, kẻ chết vì sự truy đuổi của quân thù, người hy sinh vì mũi tên hòn đạn nơi trận tiền, nhiều không sao kể xiết. Không chỉ có Lê Lai hy sinh cứu chúa, cả 3 người con trai của Lê Lai đều lần lượt bỏ mình trong chiến trận.

Lam Sơn không chỉ phải đấu tranh với một mình quân Minh, còn có cả quân Ai Lao, Chămpa cũng vây đánh Lam Sơn theo sự điều động của Bắc triều, ấy là chưa kể bao nhiêu nội gian, nội phản. Thế nên, máu đã đổ, đổ rất nhiều. Nói theo ngôn từ của quốc ca Pháp ấy là: L’étendard sanglant est levé, tiêu chí chọn lựa được đo… bằng máu! Thế nên, tuy là người tham mưu, hoạch định sách lược, công lao vô kể như Nguyễn Trãi, nhưng trong 2 đợt “phong thần” đầu tiên đều không có tên ông.

Ấy là vì ông không nằm trong số những người phải “đổ máu” những ngày đầu gian khó! Nguyễn Trãi là bậc Nho học uyên thâm, để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị, tên tuổi lưu vào sử sách, còn những người dẫn quân xông pha trận mạc như Lê Ê, Lê Văn Lễ, Ngô Kinh, Nguyễn Xí… đa phần còn không biết chữ! Kể chuyện vặt vãnh để thấy rằng, trong “lý lịch cán bộ” của giai đoạn lịch sử gần đây, cái chi tiết “năm vào Đảng”, trước / sau 45, trước / sau 54, trước / sau 75 là tối quan trọng!

thuyền buồm ba vát

Những ngày lang thang ở thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh… thăm bãi cọc sông Bạch Đằng mà khi xưa Hưng Đạo Vương đã đánh bại quân Nguyên Mông. Lại có dịp thăm chiếc thuyền buồm “ba vát” dài khoảng 11 mét do nghệ nhân Lê Đức Chắn đóng sắp hoàn thiện. “Ba vát” là mẫu thuyền cổ truyền đặc trưng của vịnh Bắc bộ, sử dụng hai buồm cánh dơi.

Một “trãi nghiệm” rất lý thú khi trực tiếp tham quan chiếc thuyền buồm gỗ đang đóng còn nằm trên đà. Bác nghệ nhân Lê Đức Chắn ngoài 70 tuổi là một trong số những người cuối cùng còn lưu giữ được các kiến thức và kỹ năng đóng thuyền cổ truyền. Ít nhất, ta được biết rằng những kiến thức, kinh nghiệm này đã được bảo tồn được dưới dạng hiện vật và bản vẽ.

côn sơn ca

阮廌 – 昆山歌

Ngỡ đã quên từ lâu, đứng nơi đây, nhẩm lại được toàn bộ nguyên bản Hán văn của Côn Sơn ca – Nguyễn Trãi: Côn sơn hữu tuyền, Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên, Ngô dĩ vi cầm huyền… Trích bản dịch tiếng Việt:

Trăm năm trong cuộc nhân sinh,
Người như cây cỏ thân hình nát tan.
Hết ưu lạc đến bi hoan,
Tốt tươi khô héo, tuần hoàn đổi thay.

Núi gò đài các đó đây,
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh.
Sào, Do bằng có tái sinh,

Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.

đình làng Trà Cổ



Giây phút sững sờ bên đình làng Trà Cổ… Phường (đảo) Trà Cổ, tp. Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, ngay sát biên giới với TQ, là một khu định cư rất lâu đời của người Việt. Đình xây năm 1461, về kiến trúc có nhiều điểm tương đồng với đình Mông Phụ (Đường Lâm, Sơn Tây), đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh)… đã viếng thăm trong các chuyến xuyên Việt trước. Tuy không đẹp bằng nhưng tuổi đời nhiều hơn đến 2, 3 thế kỷ! Đình do một nhóm lính gốc Đồ Sơn, vâng lệnh triều đình ra trấn thủ biên cương xây dựng nên.

Ngồi nói chuyện với một cụ bà ngoài 70 sống ngay bên cạnh đình làng (và cũng nói chuyện thêm với một vài cư dân địa phương nữa), thoảng qua vài câu đầu đã thấy cụ bà rõ ràng không nói giọng miền Bắc! Thêm vài câu nữa thì tôi sững sờ nhận ra cái ngữ âm ấy, cái ngữ âm của chính mình, khó có thể mô tả một cách chính xác, nhưng có chút gì thô ráp kiểu Bắc và Trung Trung Bộ. Trà Cổ như quan sát hiện cũng đang dùng một loại thuyền đi biển dạng bè tre y như vùng Sầm Sơn, Thanh Hoá.

Rồi chợt nhận ra mình đang trò chuyện với một thứ tiếng Việt cổ, rất cổ, rất… Vietic! Một vết tích của sự di dân bằng đường biển, phân tán và rải rác nhiều nơi suốt chiều dài bờ biển Việt Nam, một di sản truyền đời với rất ít thay đổi, mang tính chất cực kỳ “phụ hệ và bảo thủ” được duy trì trong suốt hơn 500, 600 năm lịch sử. Một thứ tiếng Việt cổ thô ráp, cứng cáp của… chàng Lạc Long Quân trước khi nên duyên với nàng Âu Cơ, và trở nên mềm mại, êm dịu như giọng đồng bằng Bắc bộ bây giờ!

once upon a time in odessa

Ngày xửa ngày xưa ở Odessa, một film Nga mới làm sau này, hình ảnh, ánh sáng cực đẹp, nhiều sound – track nhạc Nga & Ukraina siêu hay. Film về một tướng cướp, trùm giang hồ Odessa, về sau là một chỉ huy Hồng quân, tất cả đều là sự thật lịch sử. Việt Nam cũng có nhiều hình tượng giống y như thế: Trung tướng Nguyễn Bình, Thiếu tướng Dương Văn Dương, Đại tá Mai Văn Vĩnh, .v.v…

Russian Victory Day Parade 2018

Như thông lệ, ngày này hàng năm, gấu Nga lại khoe cơ bắp! Năm nay đặc biệt khoe người ít, khoe vũ khí nhiều. Quảng trường Đỏ với 2 nhà thờ Kazan và Basil nằm ở 2 đầu dường như đã trở nên quá chật hẹp để khoe những dàn vũ khí, khí tài “khủng”, một số là những loại “sử dụng các nguyên tắc vật lý mới”, “độc nhất vô nhị trên toàn cầu”. Stalin từng ra lệnh phá dỡ cả 2 nhà thờ Kazan & Basil, lấy chỗ rộng rãi để duyệt binh. Các kiến trúc sư thời đó đã cố gắng hết sức nhưng chỉ cứu được 1 trong 2, bằng cách biến Basil thành viện bảo tàng…

Cách duy nhất có thể cứu một công trình tôn giáo khỏi bị phá huỹ trong cái thời khắc nghiệt đó. Kazan mới được xây dựng lại như cũ sau này. Phần lễ, nhạc đã được rút ngắn đáng kể so với thời Sô-viết. Nhưng cũng là cái giọng đọc “basso profondo” (giọng nam siêu trầm) đó, giống y như của Yuri Levitan, phát thanh viên radio nổi tiếng thời WW2, chất giọng đầy uy lực, dể dàng khiến người ta lạnh gáy: “Vnimanie, vnimanie, govorit Moskva…” – “Chú ý, chú ý, Mát-cơ-va đang nói…”

river sailboats

Sail boats in the 60s, cut from a Vietnamese documentary. Bamboo mast, sail of a simplistic design, diagonally mounted rectangular – shape canvas, possibly river – only transportation, sail and oar boats.

xa – thư

讀萬卷書
行萬里路

Hoàng thành Huế, điện Thái Hoà, ngay bên dưới chiếc biển đề ba chữ “Thái Hoà điện” có khắc một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt: Văn hiến thiên niên quốc, Xa thư vạn lý đồ. Hồng Bàng khai tịch hậu, Nam phục nhất Đường Ngu. Tạm dịch: Đất nước ngàn năm văn hiến, Cơ đồ “xe và sách” vạn dặm, Từ sau họ Hồng Bàng dựng nước, Trời Nam lại thịnh trị như thời Đường, Ngu. Khái niệm “xa & thư” được sử dụng rất phổ biến trong văn thư chính trị cổ. Nhưng như thế nào là “xa & thư” – “xe và sách”!?

Xe (xa): dĩ nhiên ngày xưa là chiếc xe ngựa, dùng để chờ người, đồ vật, đồng thời cũng là chiếc chiến xa (chariot). Xem phim về thời cổ đại ở cả Đông lẫn Tây, cả ở La Mã lẫn Trung Quốc đều thấy một điểm chung là chiến xa phổ biến hơn chiến mã. Tại sao lại đi dùng một thứ phức tạp là xe ngựa, mà không đơn giản trực tiếp cỡi ngựa!? Có người lý luận một cách hoàn toàn sai lầm rằng văn minh nhân loại đã đi thụt lùi, từ việc sử dụng chiến xa thời cổ đại, sang dùng chiến mã thời trung đại.

Trong việc cỡi ngựa, phát minh quan trọng nhất là cái bàn đạp, đây được xem là một phát minh tuy đơn giản, nhưng làm thay đổi lịch sử nhân loại! Bộ yên cương, có thêm cái bàn đạp mới khiến kỵ sĩ có thể ngồi vững vàng trên lưng ngựa, điều khiển được ngựa một cách khéo léo, và quan trọng nhất là nhờ có cái bàn đạp mới có điểm tựa để sử dụng vũ khí: gươm, đao, thương… và nhất là có thể bắn cung một cách chính xác. Từ khi phát minh ra cái bàn đạp, nhân loại mới bỏ chiến xa mà dùng chiến mã.

Nhưng quay trở lại thời cổ đại, thì chiến xa vẫn phổ biến hơn là chiến mã, đơn giản là vì không có bàn đạp, kỵ sĩ chưa thể ngồi vững trên lưng ngựa. Thời cổ đại ở Trung Quốc, vua một nước nhỏ có thể có một ngàn cỗ xe, vua một nước lớn có thể có đến vạn cỗ xe. Chiến xa là thứ thể hiện sức mạnh và quyền lực của một vương triều. Người ta đánh giá sức mạnh của một vương quốc thông qua số chiến xa mà nước đó sở hữu, cũng giống như bây giờ chúng ta dùng các đại lượng GDP, GNP, etc… vậy.

Lại nó thêm về xe ở Trung Quốc, thời cổ đại, có hàng trăm vương quốc lớn, nhỏ, mỗi nước dùng một loại xe riêng, đóng theo những quy cách riêng: kích thước bánh xe, độ rộng trục bánh xe. Ở các cổng thành, người ta xây các trụ đá nhỏ làm vật cản, khiến cho xe của một nước có thể đi lọt qua cổng thành nước đó, mà qua nước khác lại không thể đi lọt. Việc mỗi quốc gia sử dụng “quy chuẩn” xe khác nhau thực ra là một cách phòng thủ, không cho xe đối phương đi vào nước mình quá dễ dàng.

Sách (thư): nếu như xe có hàng trăm quy chuẩn khác nhau, thì sách vở, chữ viết cũng vậy. Tuy đều là chữ tượng hình, nhưng mỗi nước lại có cách viết khác nhau, ví dụ cùng một chữ “kiếm” nhưng có đến hàng chục cách viết, tuỳ theo quốc gia, vùng miền. Đến khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc mới thống nhất tất cả các quy chuẩn: xe đóng theo cùng một kích cỡ, chữ viết theo cùng một lề thói, tất cả các đơn vị đo lường, các hình thức nghi lễ, áo mũ, âm nhạc cũng được thống nhất.

Nên có thể xem: Thư là kiến thức, Xa là kinh nghiệm, Thư là lý thuyết, Xa là thực hành, Thư là trừu tượng, Xa là hiện thực, Thư là tâm hồn, Xa là thể xác, Thư là tinh thần, Xa là vật chất, Thư là sức mạnh mềm, Xa là sức mạnh cứng… “Xa dữ thư – xe và sách” là hai mặt của một đồng xu, hai yếu tố chính yếu nhất để đại diện cho một nền văn minh. Chẳng phải xưa có câu: Độc vạn quyển thư, Hành vạn lý lộ – 讀萬卷書行萬里路 – Sách: đọc ngàn chương, Đường: đi vạn dặm đó sao!?

đoạn trường tân thanh

Haizzaa… ngày xưa, cụ Nguyễn Du chỉ vì say mê cuốn tiểu thuyết “ngôn tình” Đoạn trường tân thanh, loại “dâm thư” có tiếng của Tàu, mà viết nên Truyện Kiều, hậu bối ngày nay xem là áng văn chương tuyệt tác. Khá khen cho biết bao nhiêu thế hệ tài tử, văn nhân, cũng vì trí lực, ngôn năng có hạn mà đành phải vin vào loại thi ca nhàm chán đó. Chữ nghĩa tuy có đôi phần tài hoa, bay bướm, nhưng ý tưởng, thần thái, tựu trung than thân trách phận, yếm thế não tình, quả thật bỏ thì thương, vương thì tội!

cossacks – 1

Giống như khi phái đoàn ngoại giao Grand Embassy của Sa Hoàng Peter the Great lần đầu tiên sang châu Âu, những ban nhạc cung đình châu Âu biểu diễn âm nhạc cổ điển sang trọng, lịch sự, từ tốn. Để đáp lại, dàn nhạc của Peter biểu diễn một thứ âm nhạc với huýt sáo và hò hét. “Cũng tương tự”, muốn nghe hò hét, huýt sáo trong không gian âm nhạc thính phòng, hãy xem Alexandrov Ensemble biểu diễn tại Anh năm 88, một trong những bài dân ca Slavơ nổi tiếng nhất…

Cossack không phải là một dân tộc riêng biệt, mà chỉ là một sub – culture trong không gian văn hoá Slavơ chung: Nga, Ucraina, Belarus… Từ thời xa xưa, họ sống trên các thảo nguyên, lối sống trồng trọt, chăn thả, giỏi về chiến đấu trên lưng ngựa. Trong tất cả các thời đại, từ thời các Sa hoàng đến thời Sô – viết, và hiện đang thấy rất rõ trong giai đoạn nước Nga Putin hiện đại, Cossack vẫn luôn luôn là “cơ bắp” của chế độ: giữ gìn, mở rộng biên cương, trấn áp nội gian, nội loạn.

nguyễn văn minh

Chuyện về thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn (PXA) thì nhiều người đã biết và biết khá nhiều rồi. Nhưng có 1 câu chuyện khác, 1 nhân vật khác cũng ly kỳ không kém, theo một đường hướng hoàn toàn khác.

PXA là 1 điệp viên hạng nhất, điều đó không có gì phải bàn cãi. Sinh ra trong 1 gia đình công chức thuộc địa cao cấp, 1 địa chủ giàu có, được ăn học đàng hoàng. Tham gia CM năm 45, kết nạp Đảng năm 53 bởi chính Lê Đức Thọ, ông trùm nội chính VN, được hướng dẫn bởi bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, 1 nhân sĩ được ông Hồ hết sức yêu mến và tin tưởng, được hỗ trợ và chỉ đạo từ Mười Hương, Tư Cang… những nhân vật tình báo chuyên nghiệp (chuyên nghiệp hiểu trong ngữ cảnh VN, chứ chưa thể so với CIA hay KGB được). PXA là 1 điệp viên hạng nhất trên mọi phương diện, định hướng hoạt động tình báo chiến lược từ sớm, được tổ chức gởi đi Mỹ học, làm việc cho những thông tấn xã hàng đầu thế giới như Time và Reuter, có quan hệ với tất cả những nhân vật tinh hoa, chóp bu của giới quân sự và chính quyền miền Nam, các nhân vật tình báo hàng đầu của tất cả các bên như William Colby, Edward Lansdale, Lucien Conein, Bs. Trần Kim Tuyến…

Còn Nguyễn Văn Minh (Ba Minh – NVM) sinh ra trong một gia đình nghèo khó đông con, chỉ mới học hết lớp 5, gia cảnh khó khăn và sức khoẻ kém, đã từng muốn vào chiến khu tham gia CM nhưng không thực hiện được (cũng vì lý do sức khoẻ). Cho đến năm 54, cái gọi là “hoạt động CM” của ông chỉ dừng lại ở mức “cảm tình viên” ở cấp quận, huyện, chủ yếu là cung cấp những tin tức thuộc loại làng nhàng. Hoạt động tố Cộng, diệt Cộng của Ngô Đình Diệm những năm 55, 56 làm nhiều tổ chức, đường dây bị vỡ, NVM mất liên lạc suốt gần 10 năm. Một số lần đường dây được nối lại, nhưng rồi lại đứt. Những hoạt động của ông giai đoạn đầu chưa thể xem là tình báo, chỉ mới ở mức độ thông tin cấp thấp. Năm 55, ông học đánh máy chữ, chủ động bán nhà lấy tiền hối lộ để được vào làm nhân viên đánh máy ở Bộ tổng tham mưu chế độ cũ, hàm “thượng sĩ nhất”. Đây là bước đi đầu tiên chứng tỏ ông có một kế hoạch, một bài bản để làm tình báo chuyên nghiệp.

Trong suốt 18 năm, từ 1955 đến 1973, NVM tìm cách nối lại đường dây liên lạc với tổ chức, nhiều lần không thành công. Một số lần thành công thì cái vị trí, cấp bậc quá thấp của những người trong đường dây làm cho những tin tức của ông không được đánh giá đúng, mặc dù theo như lời NVM, ông đang “ngồi trên một núi vàng”, vì rõ ràng cái vị trí dù chỉ là nhân viên đánh máy trong Bộ tổng Tham mưu cho phép NVM tiếp cận với những thông tin thuộc loại tối mật. Không mất kiên nhẫn, trong suốt 18 năm đằng đẵng, NVM tìm cách liên hệ và chờ đợi cái ngày mà người ta đánh giá đúng những thông tin mà ông có thể cung cấp! Không biết chắc là vì những lý do gì, nhưng mãi cho đến cuối năm 1973, mạng lưới điệp báo A.3 mới chính thức được thành lập, và 1 dòng chảy thông tin trực tiếp từ Bộ tổng Tham mưu được hình thành. Người ta bắt đầu đánh giá đúng về giá trị của tình báo viên NVM, dù chỉ trong khoảng 1 năm rưỡi cuối cùng của cuộc chiến.

Nhà nghèo với 10 đứa con, lương của một “thượng sĩ nhất” không đủ nuôi chừng đó miệng ăn. Nhưng ngày nào ông cũng làm việc 15, 16 tiếng chép tay lại toàn bộ thông tin để đưa ra ngoài. NVM học thêm tiếng Anh chừng 1 năm để có thể copy được tài liệu tiếng Anh, và như ông có nói: tôi ít học, không đủ trình độ để phân tích, đánh giá thông tin, tôi chỉ làm 1 việc nhỏ nhoi, nhưng làm rất tốt! Có lần, tổ chức đưa 200 000 để ông mua chiếc xe máy để tiện cho việc đi lại, liên lạc. NVM mua chiếc xe Honda 67 hết hơn 100 000, trả phần còn lại! Sau này được hỏi về hành động đó, sao không giữ lại tiền mà nuôi 10 đứa con, ông trả lời: “tôi không bán tin, tôi cũng làm CM như các anh thôi!” Cách trả lời cho thấy ông ấy hoàn toàn ý thức về vai trò cũng như giá trị của một điệp viên hạng nhất! Chất lượng của những thông tin ông ấy cung cấp không phải bàn cãi, khi sau 75, người ta thăng anh “thượng sĩ” lên đại tá, và trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Tóm tắt về nhân vật, để thấy rằng NVM không có những gì PXA có: không sinh ra trong 1 gia đình truyền thống giàu có, không được học hành đầy đủ, thậm chí không có được sức khoẻ tốt! Không được “giác ngộ cách mạng” với những nhân vật lão thành hàng đầu như Lê Đức Thọ, Phạm Ngọc Thạch, không được hỗ trợ bởi 1 đội ngũ điệp báo hạng nhất như Mười Hương, Tư Cang, không được định hướng và đào tạo về hoạt động tình báo bài bản từ sớm như PXA. NVM khởi đầu chỉ là một “cảm tình viên” cấp quận, huyện, và hầu như không có một tiếp xúc, định hướng, huấn luyện nào về nghiệp vụ tình báo! Đôi lúc có cảm tưởng rằng, mọi đường đi nước bước là tự ông ấy tính toán lấy, từ việc vào làm ở Bộ Tổng tham mưu, cho đến việc móc nối, chờ đợi 18 năm để người ta có thể hiểu đúng giá trị của mình! Và thậm chí có cảm giác rằng, trong nhiều năm, người ta không tin tưởng NVM, có thể vì ông ấy không nằm trong diện được đào tạo, được “quy hoạch”.

Sự thực là suốt 20 năm hoạt động tình báo, NVM chưa bao giờ là Đảng viên, ông chỉ gia nhập đảng CS sau 1975, 1 bước “thủ tục” cần thiết để có thể thăng ông ấy lên đại tá và trao tặng danh hiệu Anh hùng. Nhiều sự việc nằm ngoài hiểu biết của tôi, hay có điều gì “một nửa sự thật” mà ngành tình báo đến giờ vẫn không thể nói ra!? Trong suy nghĩ của tôi, điều đó gần như là không thể, khi con 1 nhà lao động nghèo ít học, không có được bất kỳ tiếp xúc gì với các thành phần “lý tưởng”, “tinh hoa CM”, gần như không được hướng dẫn, hỗ trợ bởi một tổ chức! Gần như là đơn phương, đơn tuyến, tự mình vạch ra đường đi nước bước, tự mình liên hệ và chờ đợi để người ta hiểu đúng về giá trị của những thông tin mà mình cung cấp! Lòng yêu nước “thuần thành” hay còn điều gì khác!? PXA đã là 1 câu chuyện ly kỳ, NVM là 1 điều kỳ diệu! Dân tộc VN tồn tại được qua nhiều biến động của lịch sử vì có những điều kỳ diệu chưa thể được lý giải đầy đủ như thế!

CMT10

Vài trăm năm trước, Marx đã vẽ ra một cơn “ác mộng” về cuộc sống dưới chế độ TBCN, nơi mọi thứ sản xuất ra là để mua bán, đổi chác. Năng lực sáng tạo của con người bị biến thành một thứ hàng hoá. Sản phẩm và người làm ra sản phẩm rút cuộc cũng đều là một thứ hàng hoá, và cuộc sống hàng ngày bị biến thành một vòng xoáy bất tận.

Vòng xoáy của những zombie – xác sống, vật chất trở nên nửa – sống, còn con người trở nên nửa – chết! Thị trường chứng khoán vận hành như một thế lực độc lập, tự nó quyết định nhà máy nào sẽ mở/đóng cửa, người nào sẽ đi làm/nghỉ ngơi. Tiền thì sống, người thì chết, sắt thép mềm như da, còn da mặt cứng hơn sắt thép! Một vài suy nghĩ của ông ấy vẫn còn tính thời sự!

the final count down

Ai cũng biết bài hát xưa như trái đất này, nhưng mấy người biết nó nói về cái gì!? “The final count down” – lệnh đếm ngược: 9, 8, 7… 3, 2, 1… Preliminary stage, Intermediate, Main, Lift – off… đọc lời bài hát sẽ rõ, ngồi trên hàng trăm tấn thuốc nổ, trong một tích tắc là đi vào lịch sử (hoặc trở về với cát bụi)!

We’re leaving together, but still it’s farewell. And maybe we’ll come back to earth, who can tell? I guess there is no one to blame. We’re leaving ground. Will things ever be the same again? It’s the final countdown! We’re heading for Venus and still we stand tall. Cause maybe they’ve seen us and welcome us all, yeah. With so many light years to go and things to be found. I’m sure that we’ll all miss her so. It’s the final countdown!

sputnik

Ngày này, cách đây 60 năm… Từ một động cơ “kép”, vừa để thể hiện sức mạnh khoa học kỹ thuật của “Moguchiy Sovetskiy Soyuz – Liên bang Xô viết hùng mạnh”, vừa phát triển công nghệ quốc phòng; đã khởi đầu cho kỷ nguyên không gian, nhờ đó mà bây giờ chúng ta có GPS, có điện thoại vệ tinh, có vệ tinh thời tiết, và vô số những thành tựu khác. Đưa được vệ tinh vào quỹ đạo cũng có nghĩa là người Nga đã có loại tên lửa đưa được đầu đạn hạt nhân đến bất kỳ nơi đâu trên toàn cầu! Nước Mỹ không còn an toàn như trước!

Nó cũng tạo ra “ấn tượng” rằng, trình độ KHKT của Liên bang Xô viết đã vượt qua phương Tây! Chiến tranh lạnh cũng có mặt tích cực của nó, KHKT được ưu tiên phát triển! Cuộc chạy đua vào không gian bắt đầu! Một năm sau, bố tôi về nhà thông báo với ông nội rằng người Mỹ vừa đặt chân lên mặt trăng! Ông nội lắc đầu hoài nghi, hoàn toàn không tin, kiên quyết phản đối. Không thể nào cái vầng trăng tuyệt mỹ, thiêng liêng như trong thơ Đường của ông lại có thể bị “xâm hại” như thế được! Chuyện ấy đơn giản là không thể, tuyệt đối không thể…

usa vs ussr

Khủng hoảng con tin ở Beirut, 1985. Năm 1985, một tổ chức Hồi giáo cực đoan, một nhánh nhỏ của phong trào Hezbollah tại Ly-băng bắt cóc 4 nhà ngoại giao Liên Xô tại thủ đô Beirut. Khi đội đặc nhiệm Alpha của KGB được gởi sang hai ngày sau đó thì một nhà ngoại giao đã bị khủng bố sát hại. Sứ quán Liên Xô tiến hành đàm phán bí mật, đưa ra các lời đe doạ từ nhẹ tới nặng:

+ Anh biết ko, các siêu cường không thích chờ đợi. Chúng tôi nói thả người, thì các anh phải thả! => khủng bố im lặng

+ Chúng tôi đang tập trận, tên lửa nhiều khi cũng bay nhầm, trục trặc kỹ thuật vẫn hay xảy ra! => khủng bố cũng im lặng

Ngay sau đó, nhóm Alpha bắt cóc một người cháu của kẻ chủ mưu, cắt đầu và thiến anh ta, gởi hai bộ phận đó đến trong một cái hộp. 3 nhà ngoại giao Liên Xô còn lại được thả ngay lập tức sau đó! Từ đó, trong suốt 20 năm, khắp cả vùng Trung Đông, không ai dám bắt cóc các công dân Liên Xô nữa. Mãi hơn 20 năm sau, sự kiện 5 nhà ngoại giao Nga bị bắt cóc và sát hại tại Iraq năm 2006 (trước khi có thể tiến hành đàm phán). Putin ra lệnh “loại trừ’ những kẻ khủng bố bằng mọi cách, mọi giá.

Giới bình luận phương Tây nghi ngờ khả năng thực hiện lệnh này, vì Iraq năm 2006 không còn nằm trong vòng ảnh hưởng của Nga như trước. Thế nhưng bằng cách này hay cách khác, đến năm 2010, tất cả những ai có liên quan đến vụ sát hại các nhà ngoại giao Nga đều đã chết: bị bắt và xét xử, hay bị ám sát trong những hoàn cảnh không rõ ràng khác. Những sự kiện thực tế – facts, minh chứng cho những gì có thể làm bởi các cơ quan tình báo đối ngoại, không riêng gì nước nào.

Có những luồng ý kiến khác nhau về cách hành xử như thế. Một ý kiến cho rằng: như thế quá tàn bạo, quá khát máu, đánh khủng bố bằng những biện pháp tương tự, hay còn sắt máu hơn cả khủng bố. Đa số các cơ quan tình báo Tây phương đều cho rằng, đó chỉ có thể là Liên Xô và Nga, chứ phương Tây khó có thể làm như thế. Họ (phương Tây), trên một mặt nào đó, vẫn bị những “tiêu chuẩn lương tâm, đạo đức” chi phối và không thích tay mình dính quá nhiều máu (theo nghĩa đen).

Một ý kiến ngược lại: anh giết của tôi một người, tôi giết của anh một người, dù sao vẫn “công bằng”, và để ngõ khả năng hoá giải hận thù. Phương Tây không thích tay dính máu, họ thích dùng UAV bắn tên lửa từ xa hơn. Việc giết quá nhiều người vô tội, mà không có một đối tượng gây án cụ thể “có thể nhìn thấy” nào, dẫn tới việc các tổ chức khủng bố sẵn sàng hướng đến bất kỳ ai, dùng bất kỳ biện pháp nào để báo thù, và ngày càng trở nên điên cuồng hơn trong việc lựa chọn mục tiêu của chúng.

Peter the Great

Hàng năm, vào ngày 30 tháng 7, sinh nhật của Sa hoàng Peter I (vừa qua), chiếc thuyền buồm nhỏ 400 năm tuổi này lại dẫn đầu đoàn diễu hành kỷ niệm Ngày thành lập Hải quân Nga trên sông Neva. Sau 400 năm, con thuyền 7m đóng bằng gỗ sồi này cỡi trên boong một con tàu khác chứ không thể tự bơi như trước. Tất cả chiến hạm của Hải quân Nga đều phải nghiêm chào khi con thuyền này đi qua. Peter I tìm thấy chiếc thuyền buồm trong nhà kho của ông nội, và học cách điều khiển nó năm 14 tuổi. Vài năm sau, ông tự tay đóng những chiếc thuyền buồm khác, “from keel to mast” – từ đáy lên tới đỉnh, và sau đó giong thuyền hàng trăm cây số trong bão tố trên vịnh Baltic, mặc cho bà mẹ của ông sợ hãi can ngăn.

Một cậu bé siêu tò mò và hiếu động, lập ra những “đại đội” đầu tiên từ các gia nhân, những người hầu cận của mình để chơi đánh trận giả. Hơn 3000 thiếu niên được huy động để lập nên hai trung đoàn: một đóng vai quân xanh, một đóng vai quân đỏ, và để xây dựng những pháo đài gỗ cho các trò chơi của cậu bé này. Ngày qua ngày, các chàng trai đó lớn dần lên, trò chơi trận giả ngày càng trở nên thật hơn. Đến một lúc, họ tập trận với gươm thật, súng thật, và từ đó trở thành 2 trung đoàn PreobrazhenskySemenovsky, đội ngự lâm quân của các Sa hoàng sau này. Những cậu bé chơi trận giả với Peter, về sau, đa số đều trở thành những sĩ quan thành danh trong các đơn vị quân đội khác nhau của vương quốc.

Không quan tâm nhiều đến sách vở, chỉ ham mê các trò chơi vận động. Nhưng ham thích thuyền buồm, nên đã học toán, học thiên văn để biết cách dùng kính lục phân (sextant), đã học nghề mộc, học cách tự may buồm, học cách rèn đúc đại bác, vũ khí, và tất cả những nghề nghiệp có liên quan khác. Năm 1697, lúc 25 tuổi, Peter du hành ẩn danh (incognito) qua nhiều quốc gia châu Âu, dừng chân 4 tháng ở Amsterdam để học nghề mộc đóng thuyền. Trong suốt thời gian 4 tháng này, ai gọi Peter là “bác cả” (thợ mộc) thì ông trả lời, còn ai gọi là “điện hạ”, “hoàng thượng” thì ông làm lơ không đáp. Peter đến Đức, Anh, Áo và nhiều quốc gia châu Âu khác, học hỏi mọi thứ có thể trên đường đi, nhất là những tiến bộ kỹ thuật!

Bản thân Peter thành thạo hơn 16 nghề, thành thạo thật sự chứ không phải chỉ làm cho có. Cuộc hành trình 2 năm ở châu Âu đã đem về Nga hàng chục ngàn đầu sách, đích thân Peter phỏng vấn và tuyển chọn gần 1000 chuyên gia nước ngoài để phục vụ cho việc đóng tàu, khai khoáng, luyện kim, chế tạo vũ khí, huấn luyện binh lính, etc… Họ được trả một mức lương hậu hĩnh để phục vụ trong quân đội, hải quân, trong chính quyền và các ngành nghề công nghiệp khác của Nga. Nên biết rằng lúc này châu Âu đã qua kỷ nguyên Ánh sáng và chuẩn bị bước vào kỷ nguyên Công nghiệp hoá, trong khi nước Nga vẫn còn là một quốc gia trung cổ cực kỳ lạc hậu, đơn thuần nông nghiệp dựa trên chế độ “nông nô” (serfdom).

Để mở mang bờ cõi, phía Nam, Peter xây dựng hạm đội biển Đen và gây chiến với Thổ Nhĩ Kỳ. Phía Bắc, ông lập nên hạm đội biển Baltic và tuyên chiến với Thuỵ Điển, quốc gia hùng mạnh nhất châu Âu lúc bấy giờ. Hai hạm đội này, lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga, mở được đường ra biển, giao thương với châu Âu và thế giới. Trước đó, người Nga hầu như chưa biết biển là gì! Peter khởi đầu với vị trí bombardier – pháo thủ, tự tay kéo pháo, tự tay nhồi đạn. Ông làm việc trên công trường đóng tàu như một người thợ mộc bình thường khác. Suốt mấy chục năm chinh chiến, ông được “thăng chức” bởi… chính các tướng lĩnh của ông, dần dần sau mỗi trận chiến, từ đại uý, đại tá và cuối cùng là đại tướng.

Mặc dù hiển nhiên, Sa hoàng mới thực sự là người chỉ huy cao nhất. Tất cả giống như là một vở kịch lớn, một trò chơi lớn, tiếp nối những trò chơi trận giả lúc nhỏ. Lúc đang xây dựng thành phố mới St. Peterburg, dự tính sẽ là thủ đô mới của nước Nga bên bờ vịnh Baltic, Peter sống trong một ngôi nhà gỗ 3 gian tạm bợ, với người vợ, sau này là nữ hoàng Catherine. Trong suốt nhiều năm, Catherine tự tay nấu ăn và giặt giũ, chăm sóc con cái, còn Peter tự tay làm vườn, họ sống như một cặp vợ chồng nông dân bình thường khác, trong căn nhà gỗ nhỏ thậm chí không có ống khói. Thư từ gởi đến và đi, đề tên là Peter Mikhailov, chứ không phải là Sa hoàng. Căn nhà này bây giờ trở thành một viện bảo tàng ở thành phố St. Peterburg.

Catherine, một phụ nữ gốc gác nông dân, “xuất thân hèn kém”, cả đời không biết đọc và viết, nhưng theo chồng Nam chinh Bắc chiến, chia xẻ mọi khó khăn, cực khổ, hiểm nguy trên chiến trường, nhiều khi còn tự tay nấu ăn cho lính tráng. Bà cứu mạng chồng mình trong một lần thua trận, bị quân Thổ Nhĩ Kỳ bao vây, bằng sự thông minh khôn khéo và can đảm của mình. Còn những khi chiến thắng trở về, Sa hoàng Peter, trong quân phục một đại uý, diễu hành qua cổng Khải hoàn môn ở Mát-cơ-va, đi phía sau những tướng lĩnh chỉ huy của ông như một người lính bình thường nhất. Giới quý tộc truyền thống Nga nhìn vào Hoàng đế của họ với tất cả những sự ngỡ ngàng, khó hiểu, xen lẫn với tức tối và bất mãn.

Công cuộc lột xác của nước Nga từ một nước nông nghiệp trung cổ lạc hậu, bước sang công nghiệp hoá trải qua nhiều đau đớn. Bản thân giới quý tộc không muốn từ bỏ các đặc quyền đặc lợi. Bản thân Nhà thờ Chính thống giáo không muốn mất đi các đất đai sở hữu và những quyền lợi khác. Peter đã ra lệnh tháo tất cả chuông của tất cả Nhà thờ trên toàn thể lãnh thổ Nga xuống để lấy đồng đúc súng đại bác, một hành động mà sau đó ông bị xem là “anti – Christ”. Giới quý tộc được lệnh phải văn minh hoá, phải học theo kiểu cách Tây phương. Áo choàng dài bị cắt ngắn, những hàm râu quai nón rậm rạp đặc trưng của quý tộc Nga bị cạo sạch, ai còn muốn để râu phải đóng “thuế râu”, phải trả một khoản tiền lớn.

Con em các nhà quý tộc và thơ lại được gởi đi châu Âu, học ngoại ngữ, học toán, học luyện kim, đóng tàu, kiến trúc, xây dựng, etc… và tất cả những ngành nghề cần thiết khác. Thể chế dựa trên đặc quyền, đặc lợi xa xưa dần dần bị bãi bỏ, tất cả được xây dựng lại trong một hệ thống dựa trên tài năng và công trạng. Thăng tiến trong chính quyền hoàn toàn dựa trên những thành quả đạt được. Và những đổi thay đó rất đau đớn, ở đây thể hiện một mặt khác trong cá tính con người Peter, một sự tàn bạo đến khát máu, sẵn sàng ra lệnh treo cổ hàng ngàn người chỉ trong một ngày, tất cả những ai dám chống đối, dám cản đường ông, tất cả chỉ để thực hiện cho bằng được chính sách “Duy tân” của mình.

Lịch sử nước Nga từ đó bước sang một trang khác, một kỷ nguyên khác, nổi lên như một siêu cường ở châu Âu. Cả châu Âu run sợ trước một thế lực mới, vừa văn minh hiện đại, vừa dã man tàn bạo! Không một ai có được vai trò như của Peter đối với nước Nga, trên tất cả các phương diện: khoa học, kỹ thuật, quân sự, văn hoá, thể chế luật pháp, chính quyền, kiến trúc, xây dựng, etc… Và cũng chỉ duy nhất một mình Peter được sử sách Nga chính thức gọi bằng cái tên: Piotr Veliki – Peter the Great – Peter vĩ đại. Tất cả được kể lại một cách hết sức chi tiết và sống động trong cuốn sách đồ sộ Peter the Great của Alexei Tolstoy, bản dịch tiếng Việt: Pie đệ nhất, một trong những cuốn sách yêu thích nhất của tôi lúc nhỏ.

ngày này năm xưa

Kháng chiến 9 năm bùng nổ, Hồ Chủ tịch chỉ định Luật sư Phan Anh làm bộ trưởng quốc phòng. Ông Phan Anh lấy lý do tuổi trẻ, không có kinh nghiệm quân sự thoái thác. HCT bảo: việc đánh đấm cứ để cho Giáp nó lo (sic – nguyên văn). Cái con mắt dùng người ấy có cái gì đó rất bài bản, rất Tây, nó khác xa những mô hình quân sự cứng nhắc của khối XHCN sau này.

Đánh đấm là việc của Tổng tham mưu trưởng (Chief of the General Staff), là một quân nhân, còn Bộ trưởng QP là một chính khách, lo những công việc như: di dân làng nghề đúc đồng Ngũ Xá ven Hà Nội lên chiến khu, đúc đạn cho quân đội lâu dài, vận chuyển 2 vạn tấn muối từ Nam Định lên rừng, số muối này dự tính đủ ăn trong 10 năm, và vô số những công việc tương tự.

Trong con mắt HCT, vào cái thời gian mà chiến sự hãy còn chưa ác liệt và kéo dài nhiều thập kỷ như sau này, thì ông Giáp có thể là một vị tướng cấp cao nhất, đủ tài năng để chỉ huy binh sĩ đánh đấm trên chiến trường, nhưng chưa phải là một người có tầm suy nghĩ rộng, đủ bao quát để có thể hoạch định sách lược, kế hoạch quốc phòng với tầm nhìn dài hạn.

Trong cái giai đoạn mà ông Giáp hãy còn rất trẻ ấy, nhiều điều sâu xa ông chưa thể hiểu hết về HCT, quyết tâm đánh đấm có thừa, nhưng kinh nghiệm ông chưa có. Nhất là giai đoạn ngay sau tháng 8, 1945, tướng Giáp thường xuyên tỏ ra khó hiểu hay phản đối, không hài lòng trước những chính sách mềm mỏng đến mức đáng ngạc nhiên của ông Hồ.

Giai đoạn 45 ~ 47 ngay sau đó là những chuỗi đại bại, những đơn vị cấp sư đoàn của tướng Giáp liên tục thua trận và chịu tổn thất, cơ bản là vì tướng Giáp muốn ngay lập tức đánh lớn, đánh tay đôi với một quân đội chuyên nghiệp, hiện đại như của thực dân Pháp. Các sử gia nước ngoài đánh giá ông Giáp “nướng quân” chủ yếu là vì giai đoạn đầu này.

Sau đó phải chuyển sang mô hình “đại đội độc lập – tiểu đoàn tập trung”, phân tán nhỏ lực lượng đánh du kích. Lúc đó mới thấy những tính toán ban đầu về đường lối, đạn dược, lương thực, muối ăn… của ông Hồ có cái chiều sâu của nó. HCT mặc dù tin tưởng vào quyết tâm của ông Giáp, nhưng không tin hoàn toàn vào những tính toán của ông ấy.

Nên một lúc nào đó, HCT buộc lòng phải đưa một ông đại tướng thứ hai là ông Nguyễn Chí Thanh lên như một phương án bổ sung, dự phòng, phòng khi biết đâu ông Giáp tính toán sai lầm. Ông Thanh thì đánh đấm rất ít, nhưng viết lách, nói năng, lý luận rất hay, có sức thuyết phục quần chúng, suy nghĩ có tầm bao quát, hay ít ra cũng có vẻ là như thế!

Có giai đoạn, hầu như tuần nào tướng Thanh cũng được ăn tối chung với ông Hồ một bữa, một vinh dự mà ngay cả ông Giáp cũng không thường xuyên có được. Chính trị VN nó thế, người ta sẽ đếm số lần ăn tối này để dự đoán ai lên ai xuống. Rất may là ông Giáp đã nhanh chóng học được từ kinh nghiệm thực tế, để mà 9 năm sau đó, chúng ta có được trận Điện Biên Phủ.

Nhiều điều sau này tướng Giáp thừa nhận thẳng thắn trong hồi ký của mình: “chúng tôi là một đội ngũ trẻ, làm những công việc vượt quá sức của mình, nên gặp sai sót là điều không thể tránh khỏi…” Ai đó công tâm sẽ nhận thấy vai trò của một người thầy, người mà kinh nghiệm, sự từng trãi trong cuộc sống vượt xa tầm nhận thức của rất nhiều người..