chủ nghĩa xã hội

Phần lớn những tuyến đường sắt cao tốc ở TQ đến tận ngày nay đều lỗ, chính phủ bù lỗ và đây chính là ý nghĩa của cụm từ… “chủ nghĩa xã hội” !!! Chấp nhận lỗ, chi tiền ở mặt này để xã hội đạt được sự tiện lợi, tiến bộ trên nhiều mặt khác! Chấp nhận một giải pháp lỗ về tiền bạc ở một lĩnh vực nhất định, để giải quyết bài toán giao thông manh mún, phân tán, tự phát và cuối cùng rồi sẽ… gây ra nhiều tốn kém hơn nữa, nếu không có một giải pháp tập trung, triệt để, áp từ trên xuống cho toàn xã hội!

Nói cách khác là lấy tiền thuế của người dân chi vào những việc công ích theo một cách rất hiệu quả và lâu dài! Bài toán “cao tốc” này, mới nghe thì có vẻ đơn giản, nhưng thực sự là đặt cược vào dân trí, là phép thử khả năng phân chia và phối hợp lao động của toàn xã hội. Đây thực chất là một dạng bài toán “tối ưu toàn cục”… VN sẽ không bao giờ làm được chuyện này, mỗi người VN, ai cũng cố gắng “tối ưu cục bộ” cho riêng mình, tầng tầng lớp lớp cục bộ theo những kiểu vô cùng quái đản!

Kết quả hiển nhiên là toàn xã hội trở thành… chậm (tiến) !!! Chiều đi ngang qua chụp được cái hình, lấp con kênh tự nhiên rộng hơn 10m rồi đặt cái ống cống bé tí đường kính chưa đầy 1m, về sau ngập nước lênh láng lại đổ… tại trời! Rồi rất lâu sau đó nữa, sau khi đã hợp pháp hóa “từ công trở thành tư” thành công, sẽ lại vòi một đống tiền để “giải tỏa”, nói cách khác chính là tìm cách đẩy hậu quả đến ngày sau! Chỉ cần là ai đó khác, toàn cộng đồng chịu cũng được, chỉ cần không phải “tôi” là được!

hạo hạo càn khôn

Nhìn lại những phim TQ thập niên 80, dù là Hương Cảng hay Đại lục, đều thấy trang phục, bối cảnh rất sơ sài, giống như kiểu diễn tuồng, hát bội vậy! 50 năm sau, phim TQ tiến bộ không ngừng, trở nên vô cùng chi tiết, tinh xảo. Ví dụ như để tạo ra một kiểu áo cho nhân vật, họ sẽ phục chế toàn bộ quá trình làm lụa, gấm, tái tạo đúng chất liệu đó, có như thế mới thấy được hết sự sống động của lịch sử. Duy chỉ có một phương diện mà phim TQ vẫn không đạt được bao nhiêu tiến bộ, đó là… nhạc phim.

Âm nhạc, đó là thể hiện của “chất”, dù có góp bao nhiêu “lượng” cũng chưa chắc thay đổi được “chất”! Chuyện những năm đầu 90, truyền hình chiếu phim TVB – Lâm Xung, 1986. Hồi đó tôi có một ông thầy dạy Toán cấp 2, giảng bài rất sinh động, đám học sinh chúng tôi rất thích. Thầy cũng nổi tiếng là nóng tính và nói nhiều, lớp nào vi phạm kỷ luật, ổng có thể “thuyết giảng” 3~4h liên tục không nghỉ! Đến tận giờ tôi vẫn không hiểu, ổng lấy đâu ra chừng đó ngôn từ để nói suốt 3, 4 tiếng như thế!

Như tôi chỉ nói nhiều trên internet thôi, chứ ngoài đời rất kiệm lời, nói đến câu thứ 2 mà người khác không hiểu là tôi không nói nữa. Nhưng… con người mà, vẫn luôn có những khía cạnh mà ta không biết đến, cho đến một hôm, tôi thấy ổng say sưa hát bài nhạc trong phim Lâm Xung đó. Trời ạ, không cần phải nói, thần tượng phút chốc sụp đổ tan tành, không ngờ người như thế lại đi nghe loại nhạc như thế! :D Bài nhạc yêu thích một thời, Hạo hạo càn khôn, nhạc phim Thái Bình thiên quốc – 1998.

quảng châu thập tam hành

Nhà Thanh đã sụp đổ như thế nào!? Có một thời Thanh quốc được mệnh danh là… “Bạch ngân đế quốc”, số lượng bạc tập trung về nước này chiếm phần lớn của thế giới! Hiểu theo một nghĩa nào đó, Thanh quốc từng là một quốc gia giàu có vào loại bậc nhất. Số bạc này có được từ buôn bán trà, lụa, gốm sứ và nhiều mặt hàng khác, thông qua “Quảng Châu thập tam hành” (cũng là tên phim sắp chiếu), mười ba “hành – hàng – hãng buôn” lớn được triều đình ủy quyền mua bán với phương Tây. Người TQ có rất nhiều bạc, trong hơn 100 năm của TK19 sang đầu TK20, hầu như lúc nào cũng đạt được thặng dư thương mại, bạc liên tục chảy vào TQ.

Tuy vẫn là một quốc gia nông nghiệp lạc hậu nhưng khả năng sản xuất của TQ đã lớn đến nỗi toàn bộ phương Tây không thể nào đấu lại nếu không công nghiệp hóa triệt để. Phải lý giải sự thặng dư và năng lực sản xuất này như thế nào? Đó là do người TQ có một sự siêng năng, chịu khó gần như vô hạn. Theo như chính người Anh đánh giá, hiệu suất làm việc của một người TQ cao gấp 7 ~ 8 lần so với một người Đông Nam Á lúc bấy giờ. Cái loại sau là suốt ngày chỉ giở trò đĩ miệng và lưu manh vặt, còn chưa tự luận ra được mình kém chỗ nào! Để cân bằng cán cân thương mại, người Anh đã xài đến chiêu bẩn là bán thuốc phiện vào TQ!

Kết quả là có một số thời gian, bạc chảy ngược từ TQ ra nước ngoài (để mua thuốc phiện), nhưng khi TQ kiểm soát được phần nào thuốc phiện, thì bạc lại… tự nhiên chảy vào TQ. Hết cách, người Anh đành đem… tàu to, súng lớn ra để cướp lại cái khoản thâm hụt thương mại khổng lồ này! Đứng trước “tàu to, súng lớn”, sự vượt trội của phương Tây về sức mạnh KHKT & công nghiệp, thì toàn bộ “trí tuệ phương Đông” không đáng một xu, đó là sự thật phũ phàng của lịch sử. Nền sản xuất lớn, lúc nào cũng đạt được thặng dư thương mại, cộng với một chế độ thuế khóa rất nhẹ, những điều này giúp Thanh triều tiếp tục tồn tại!

Thậm chí có những giai đoạn, triều đình tăng thuế từ 40 triệu lượng bạc lên hơn 100 triệu lượng bạc mỗi năm mà xã hội vẫn chịu đựng được, không có dấu hiệu gì là quá sức! Chính cảm giác an toàn về tài chính này khiến cho triều Thanh không cảm thấy có nhu cầu phải thay đổi, họ cảm thấy như vậy vẫn ổn! Nói theo một cách nào đó thì mọi quyết định của triều đình đều… đúng đắn, chỉ có điều là: cộng nhiều cái đúng nhỏ lại thành… một cái sai lớn. Kể từ khi nhập quan, người Mãn cai trị TQ, nhưng họ bị đồng hóa triệt để đến mức không còn nói tiếng Mãn! Hàng ngũ Bát kỳ, qua nhiều thế hệ thế tập đã không còn sức chiến đấu.

Triều đình đơn thuần điều hành mọi thứ dựa trên… bạc! Dùng bạc để làm động lực cho các vận động xã hội, hoàn toàn không có một sức mạnh thể chất, tinh thần khác nào khác. Khi loạn Thái Bình thiên quốc xảy ra, quân đội chỉ chăm chăm… vòi vĩnh bạc! Dùng hết lý do này lý do khác để đòi triều đình phải cấp ngân lượng, bòn rút chán chê rồi mới chịu tiến quân! Để thua cả hai cuộc chiến tranh Nha phiến, phải bồi thường hàng chục triệu lượng bạc! Rồi lại để thua cuộc chiến Trung – Nhật 1894 ~ 1895, mất Đài Loan, phải bồi thường thêm 200 triệu lượng bạc cho Nhật! Tuy nói rằng “con sâu trăm chân, chết vẫn không ngã”…

Về cơ bản xã hội TQ vẫn còn năng lực sản xuất khổng lồ, nhưng triều Thanh đã không còn khả năng huy động lực lượng của quốc gia, và trên hết là người dân đã chọn phải thay đổi, phải loại bỏ chế độ phong kiến! Nguyên nhân sụp đổ của Thanh triều về sâu xa đó là sự suy bại đến cùng cực của một xã hội “kim tiền”! Lúc nào cũng chỉ chực văng ra cái câu: “đầu tiên là tiền đâu”. Thiếu đi sức mạnh thể chất và tinh thần để chống lưng, những cái “thùng phuy” chỉ biết tích trữ, “vinh thân phì gia”, đến khi có sự biến lớn xảy ra thì có bao nhiêu tiền bạc cũng vô nghĩa! Dù cũng có một giai đoạn ngắn chủ trương “Dương vụ vận động”…

Nhưng thành phần bảo thủ trong triều đình quá lớn, có “vận động” bao nhiêu cũng không cứu được, cơ bản là đã quá muộn! Đó cũng là lý do những cuốn sách hiện đại mới xuất bản gần đây ở TQ như “Tô-tem sói” gây ra hiệu ứng độc giả mạnh mẽ. Cá nhân tôi cho rằng “Tô-tem sói” là rất đáng đọc, ít nhất là về mặt cảm hứng văn học, khi nhắc nhở chúng ta không được quên những sức mạnh cơ bản của con người, khi nhấn mạnh tìm kiếm sự thay đổi về chất, chứ không phải chỉ đơn thuần phát triển về lượng. Làm nghĩ đến một Việt Nam hiện tại, mọi “vận động” được tiến hành cũng bằng tiền, và hơn nữa là loại tiền đi vay…

công huân

Loạt phim truyền hình 50 tập nói về những người TQ được nhận “Cộng hòa quốc Huân chương”, danh hiệu cao quý nhất ở TQ. Cuộc đời mỗi người được viết thành một vài tập phim. Vu Mẫn: người thiết kế bom nguyên tử; Thân Kỷ Lan: chính trị gia, nhà hoạt động nữ quyền; Tôn Gia Đống: chuyên gia thiết kế vệ tinh; Lý Duyên Niên, Trương Phú Thanh: sĩ quan quân đội; Hoàng Húc Hoa: người thiết kế tàu ngầm hạt nhân; Đồ U U: đoạt giải Nobel Y-Sinh, chế tạo thuốc chống sốt rét từ thảo dược; Viên Long Bình: phát triển giống lúa lai, tăng sản lượng lên 10 tấn, rồi 17 tấn / hecta.

Còn có rất nhiều người (như Tiền Học Sâm, Tiền Tam Cường, Đặng Gia Tiên, etc…) thành tích, đóng góp của họ lớn hơn nhiều, nhưng đến nay vẫn chưa được tặng Cộng hòa quốc Huân chương này, có lẽ vì thành tích, công lao đã ở mức… không thể đong đếm bằng Huân chương được! Xem những tình tiết trong phim để thấy rằng, họ đã bắt đầu từ một quốc gia đói ăn, lạc hậu, đã đi một chặng đường dài gian khổ đến ngày nay! Ví dụ như Hoàng Húc Hoa đã bắt đầu tính toán thiết kế tàu ngầm hạt nhân bằng… bàn tính, dùng hàng chục con người ngồi gảy bàn tính!

Đương nhiên nếu cứ gảy bàn tính như thế sẽ mất cả nhiều ngàn năm vẫn chưa tính xong. Nhưng việc gì cũng có… khởi đầu gian nan như vậy! Họ đã bắt tay vào làm rất nhiều việc từ con số không, đôi khi là làm theo kiểu: “kỵ lư trảo mã – 骑驴找马 – cưỡi lừa tìm ngựa”, lừa tuy chậm không thể đuổi kịp ngựa, nhưng có vẫn còn hơn không, vấn đề là có quyết tâm làm! Nhiều câu chuyện, nhiều chi tiết đời sống thực được diễn tả rất sâu sắc và xúc động, ví dụ như Viên Long Bình trong phim có một câu nói giản dị mà lớn lao: tôi sẽ thay đổi thế giới bằng một hạt giống!

Thiên hạ vi công

Đôi khi tôi nghĩ, thế mạnh của TQ xuyên suốt các giai đoạn lịch sử là có một thế lực có thể đối chọi lại sức mạnh của tiền bạc. Tiền bạc dĩ nhiên là có vai trò quan trọng của nó, nhưng cũng luôn có mặt trái, nếu để nó khuynh loát, lũng đoạn xã hội thì hậu quả không lường hết được. Như thời phong kiến thì Nho giáo của Khổng tử được dùng để định hướng, kìm chế từ phương diện tư tưởng, luân lý cho đến định chế xã hội. Đến thời hiện đại thì đó là CNXH mang màu sắc TQ! Nói cho đúng thì, chỉ cần 4 chữ: “Thiên hạ vi công – 天下為公” trong Lễ ký là đủ xác lập lý luận của CNXH rồi!

Bất luận gọi tên là gì, chủ nghĩa này, chủ nghĩa kia không quan trọng, quan trọng là sự thể hiện ý chí con người, muốn vươn lên kiểm soát những “mặt trái”, để hướng xã hội tới những điều tốt đẹp hơn. Những nỗ lực cải cách xã hội của TQ là vô cùng sâu rộng, bền bỉ. Đương nhiên, bản thân chính cái “mặt phải” cũng có những… “mặt trái” của riêng nó. Ví dụ Nho giáo phát triển cực thịnh thời Tống với Lý học, rồi suy bại dần ở các thời đại sau, quá trình suy đồi này thể hiện rất rõ qua Nho lâm ngoại sử (đã được dịch sang tiếng Việt dưới tựa đề Chuyện làng Nho).

Và tuy thi cử cũng có những “mặt trái” của nó, nhưng ít ra muốn trở thành công chức TQ là cũng phải “ôn thi” vô số kiến thức: luật, logic, toán, lý, sinh, lý luận chính trị… tỷ lệ chọi cao kinh khủng: 1 – 100. Nếu đống kiến thức này được đào luyện cho sâu sắc, kỹ càng thì cũng tuyển được người tương đối có chất lượng chứ không đùa. Nếu quả thực học hành mà chữ dính được vào đầu, thì đương nhiên sẽ hiểu ra được rất nhiều chuyện, đã không dẫn đến việc suốt ngày ngồi nghĩ ra một mớ ngôn từ nhiễu sự, nhảm nhí, không có nội dung thực chất gì như VN hiện tại!

nhân gian yên hỏa

Vài năm trước, Trung Quốc có một đợt tuyên truyền phòng chống thiên tai, nhân tai… Lệnh trên truyền xuống, thế là các diễn viên từ Trương Tịnh Nghi, Trương Tuệ Văn, Vương Sở Nhiên, Mã Tư Thuần, và nhiều người khác đều đôn đáo chạy đi… đóng phim: Hỏa diễm lam, Anh ấy bước ra từ ánh lửa, Khói lửa nhân gian của tôi, Em là thành trì doanh lũy của anh .v.v… Đa số đều là những phim khá hay, dù một số người sẽ có chỗ không thích vì chúng… nặng tính tuyên truyền. Các motif lặp đi lặp lại trong những phim này rất dễ thấy: con người chúng ta là khác biệt, ngành nghề là khác biệt, và xã hội vận động, phát triển được chính là nhờ sự khác biệt.

Vừa vào đầu phim là đạo diễn đã bắt phải hô khẩu hiệu rồi: “Đao sơn cảm thượng, Hỏa hải cảm sấm, Triệu chi tức lai – 刀山敢上火海敢闯召之即来“… nôm na tức là: “Dám lên núi đao, Dám vào biển lửa, Cứ gọi là đến…” Haiza, đương nhiên đây cũng chỉ là khẩu hiệu thôi, nhưng cũng nói lên được rất nhiều điều. Ở Việt Nam, “cứ gọi là đến” thì chỉ có 2 loại thôi, một là taxi, và hai… là gái! Cả xã hội khinh thường, không ai muốn làm cái nghề được xem là trâu bò, luôn phải xông pha “núi đao, biển lửa” này. Và các phim đều lặp đi lặp lại thông điệp rằng: dù “cứ gọi là đến”, nhưng nguồn lực công ích “miễn phí” này cần phải sử dụng một cách cân nhắc, thận trọng!

Khi tai họa xảy ra (hoả hoạn, động đất, etc…) phần lớn trường hợp không thể vận chuyển nạn nhân tới bệnh viện kịp thời. Do đó cần thành lập các đội cứu hộ, cứu nạn liên hợp, đa ngành: những người lính làm nhiệm vụ cứu hộ, các y bác sĩ làm nhiệm vụ sơ cấp cứu ngay tại hiện trường. Và thế là xuất hiện những chuyện tình lãng mạn bên trong các đội nhóm này, đơn giản vì người ta thích cái mình không có, các anh lính cứu hộ không có kỹ năng y tế, còn các y bác sĩ thì không đủ sức mạnh đảm đương công việc nguy hiểm. Ngay bên trong từng nhóm ngành nghề riêng biệt thì con người cũng không giống nhau, đều có cách suy nghĩ khác biệt!

Cùng là 2 sĩ quan cứu hỏa, một người thì chú trọng rèn luyện kỹ năng, thể lực để xông pha chiến đấu với ngọn lửa, người còn lại thì chủ trương: sức chịu đựng của con người có hạn, cần phát triển, ứng dụng các công nghệ mới nhằm hỗ trợ cho việc cứu hộ cứu nạn được hiệu quả, an toàn. Hai người này thường xuyên mâu thuẫn với nhau, nhưng thực chất cả hai đều là những nhân vật không thể thiếu trong đội cứu hộ… Đều là 2 bác sĩ học chung với nhau, một người về mặt học hành, nghiên cứu giỏi giang hơn, nhưng người kia được các thầy cô đánh giá cao hơn, vì có sự nhiệt tình, tận tụy với bệnh nhân, mà đây là điểm trọng yếu của ngành Y.

Cả hai đều được gởi tới… Khoa cấp cứu, đây thường không phải là khoa có học thuật cao nhất trong một bệnh viện, công việc có tính chất căng thẳng, vừa phải đối phó với bệnh nhân lẫn người nhà, đủ các loại người khác nhau từ tử tế cho tới lưu manh, tội phạm. Thời gian ở Khoa cấp cứu, họ học được cách áp dụng kiến thức, cách xử lý các tình huống, và cả cách để đối xử với đủ loại người khác nhau này. Sau đó, các thầy cô mới rút 2 người này về các Chuyên khoa để tiếp tục phát triển chuyên môn, xem đó như một thời gian rèn luyện! Sự khác biệt giữa các ngành nghề, giữa con người với nhau… là không cách nào nói cho tường tận được.

Tuy rằng đều gọi là: cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, etc… nhưng mỗi ngành nghề mỗi khác, mỗi lĩnh vực đều có những quy chuẩn riêng sinh ra từ thực tế cuộc sống. Và ngay cả bên trong cùng một lĩnh vực chuyên môn, cũng luôn có nhiều phương hướng không thể trực tiếp so sánh với nhau được! Những thang giá trị không thể trực tiếp so sánh với nhau, đó chính là cách xã hội vận hành, là cách con người tồn tại qua muôn ngàn biến động! Chỉ có thiển cận mới nghĩ rằng tất cả đều có thể quy về một “barème” chung để tự thoả mãn cái tính cạnh khóe hơn người của mình. Người Việt vẫn luôn có cái gì đó thực sự vô cùng bất ổn trong cái so đo này!

Hạ Vũ

Vài năm trước, trên Wikipedia tiếng Việt có một “cuộc chiến sửa đổi” dữ dội, các bên tranh nhau sửa nội dung theo ý mình: mục Hạ Vũ, vị “hoàng đế” đầu tiên của triều đại đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Giai đoạn này, dân tộc Hoa Hạ có dân số ước tính khoảng 2.5 ~ 4 triệu người, sống quanh đồng bằng sông Vị, sông Hoài, Hoàng hà! Chưa hình thành chế độ phong kiến tập trung mà mới chỉ là nhiều thị tộc tìm cách liên minh lại với nhau để hợp sức… trị thủy! Vì dân cư sống định cư với hình thức canh tác nông nghiệp, mà lũ lụt hàng năm tàn phá mùa màng! Lúc này tên nhân vật lịch sử chỉ đơn giản gồm 1 hoặc 2 chữ: Vũ, Cổn .v.v… vì xã hội còn chưa có họ.

Cổn theo lệnh của Nghiêu làm công tác trị thủy suốt 9 năm, be bờ đắp đập, xây dựng các tuyến đê lớn, nhưng cuối cùng vẫn thất bại, vẫn không khống chế được dòng nước lũ. Vì lý do đó, Nghiêu giết Cổn, và sai con của Cổn là Vũ tiếp tục sự nghiệp trị thủy. Vũ làm việc liên tục suốt 13 năm, đào nhiều kênh giúp phân tán, giảm bớt sức mạnh của dòng nước lũ, nhờ đó mà trị thủy thành công. Ở một thời đại còn chưa có chữ viết, nhưng người TQ đã tổ chức làm những công trình vĩ đại, với tinh thần trách nhiệm lớn lao, làm không được việc là sẽ có vài án tử hình rơi xuống, phải có ai đó chịu trách nhiệm, không có chuyện “trách nhiệm suông” được!

Theo Sử ký, Thuấn đã “thiện nhượng” – truyền ngôi cho người trị thủy thành công là Vũ. Nhưng ngày nay, qua những nguồn tư liệu khác, chúng ta biết Vũ đã ép Thuấn phải nhượng vị, đơn giản là người chỉ huy đại công trình trị thủy tức là nắm trong tay quyền huy động nhân lực / vật chất lớn nhất quốc gia lúc bấy giờ. Bài học rút ra là: đắp đê tuy vẫn cần thiết ở một vài khu vực xung yếu, nhưng căn bản không giải quyết được vấn đề. Để trị thủy thành công, cần tạo ra nhiều chỗ trống để chứa nước, cần có các kênh rạch giúp dòng nước mau chóng phân tán, thoát ra biển. Đó là cách đây khoảng 4300 năm, người ta đã làm được những việc như vậy!

4300 năm sau, ở cái xứ Vịt kia, rất nhiều người vẫn chưa thể hiểu / nói cho cho đúng đắn! Chuyện rất đơn giản trên nguyên lý: cái chén dùng được là nhớ có chỗ trống bên trong để chứa nước, cái cửa dùng được là nhờ có chỗ trống bên trong cho người đi qua, cái thuyền dùng được là vì bên trong nó trống rỗng nên mới nổi trên mặt nước. Muôn vật dùng được là nhờ đến… “tính không”! Một xã hội toàn những “cái tôi” quá lớn, vừa to lớn vật vã, vừa méo mó đến mức biến dạng, ai cũng cố lấn ra một chút, ai cũng cố dành thêm một chút về phần mình, rút cuộc chiếm dụng hết sự “không”, thế rồi tự mình hại mình, tự biến thành nơi không ai sống được!

vi tích phân, p2

SGK VN có một cái bệnh là chỉ toàn công thức, gần như không có một lời giải thích bằng “bạch văn – ngôn ngữ tự nhiên” nào. Đưa ra một mớ công thức, định lý, hệ quả theo kiểu … kiến thức chết mà không đưa ra được ví dụ để làm rõ chúng rút cuộc có ý nghĩa gì? Thế rồi, thảy ra một đống bài tập, đẩy học sinh vào trò chơi “ký hiệu, biểu tượng” hoàn toàn chỉ mang tính chất đánh đố, vô hồn, vô nghĩa. Có lần tôi đọc một cuốn Giải tích tiếng Anh rất hay, hơn 500 trang khổ lớn (lớn hơn khổ A4). Mỗi khi đưa ra một công thức, định nghĩa, họ đều đưa ra vô số ví dụ minh họa!

Họ tìm cách giải thích bằng “bạch văn – ngôn ngữ phổ thông của cuộc sống hàng ngày”: ví dụ, dẫn chứng từ thế giới thực, các câu chuyện lịch sử, thông tin “bên lề”, hình ảnh, biểu đồ, nhiều đến mức HS không thể đọc hết. Nếu chỉ để hiểu những điểm cốt yếu, hay để đi thi, thì chỉ cần đọc một số trang nhất định! Còn phần thông tin thêm, lớn hơn nhiều lần, là dành cho những cho những ai thực sự muốn hiểu sâu! Phần này, e là đến chính người viết SGK VN, chứ chưa nói giáo viên, vẫn còn chưa hiểu tường tận! Hệ quả là: đi thi thì được, nhưng làm thật… không được!

Cách trình bày thuần túy Toán học, toàn công thức… chỉ dùng được với những người đã có kinh nghiệm làm Toán lâu năm, không phù hợp với HS cấp phổ thông (thậm chí là cả cấp ĐH). Một công thức Toán có thể rất ngắn gọn, nhưng ý nghĩa và tính áp dụng thực tế của nó thì… thiên hình vạn trạng. Cách dạy Toán theo kiểu thuần túy công thức là chỉ phù hợp để… đi thi mà thôi! Muốn kiến thức đó trở nên hữu ích trong cuộc sống, đi vào thực tiễn nghiên cứu, sản xuất… thì đầu tiên phải nhìn cuộc sống thực theo cách đa chiều, muôn màu muôn vẻ đã!

Cũng như học võ vậy, cơ bản gồm 2 phần: “Hình – – kata – các bài quyền” và “Phân giải – 分解 – Bunkai – ứng dụng thực tế”. Hình là một tập hợp các động tác có tính trừu tượng cao, có quá trình phát triển lâu đời nên uyên áo, khó hiểu, còn Phân giải là muôn ngàn cách biến hóa triển khai, ứng dụng Hình vào thực tế chiến đấu! Mà Võ học (cũng như Toán) không phải chỉ bao gồm: Hình & Phân giải! Trừ khi bạn đi theo ngành Toán lý thuyết thuần túy, còn đa số chúng ta nếu chỉ học các bài quyền thì vẫn mới chỉ là làm màu, chưa phải là học võ thực sự!

Nên không phải là Toán cao cấp không có ích, không cần thiết trong cuộc sống, nghiên cứu, sản xuất, etc… Vấn đề là bản thân người làm SGK, người dạy Toán và người học Toán vẫn còn đang ở một trình độ… chưa thể hiểu hết ý nghĩa, khả năng biến hóa và tính ứng dụng thực tiễn của nó, và do đó, còn xem nó là vô dụng, là kiến thức chết! Thêm nữa là yêu cầu của cuộc sống, của nền kinh tế, sản xuất chỉ mới đang ở mức cộng trừ nhân chia, sơ khai đơn giản, chỉ một cái bảng tính Excel là đã đáp ứng đủ tất cả yêu cầu, còn chưa cần dùng đến Toán cao cấp!

Để sửa cách dạy và học Toán này thì không phải bắt đầu từ Toán, mà phải bắt đầu từ… Văn và Sử! Đa số người Việt, HS VN, ngoài miệng thì hoa ngôn xảo ngữ, nhưng kỳ thực là che giấu bệnh “sợ chữ”, không đọc nổi một đoạn văn 10 dòng, hay cũng có đọc nhưng lười, không suy nghĩ sâu xa! Đầu tiên phải có chút công phu đọc hiểu, tìm tòi đã, không tìm tòi thì làm sao hiểu được: Toán chẳng qua cũng chỉ là kết quả của những nỗ lực giải quyết các vấn đề thực của cuộc sống! Đào bới lại lịch sử, nhìn lại những gì nhân loại đã làm… là tự khắc sẽ hiểu rõ thôi!

vi tích phân, p1

Có một vài nguyên nhân khiến cho việc học Vi tích phân trở nên “khó nhằn”. Đầu tiên là từ nguyên: “nguyên hàm – hàm nguyên gốc” và “đạo hàm – hàm dẫn hướng – 导函“! Chữ “đạo – ” ở đây nghĩa là chỉ đường, dẫn hướng (tiếng Trung hiện đại dùng chữ “đạo hàng – 导航” để chỉ khái niệm định hướng, tìm đường – navigation). Giải thích cho HS tại sao vận tốc lại là hàm “chỉ hướng” của quãng đường, gia tốc là “chỉ hướng” của vận tốc, có thể dùng ví dụ trực quan là “vector tiếp tuyến”. Hay là dùng luôn chữ “hướng lượng – 向量” để chỉ khái niệm “vector” cho nó đồng bộ!?

Đồng thời cũng giải thích cho học sinh hiểu vì sao quá trình từ “nguyên hàm” tính ra “đạo hàm” lại gọi là “vi phân”. Chữ “phân” ở đây có thể hiểu là phân tích, cũng có thể tạm hiểu là phân chia, là cách nói gọn của “Giải tích – phân tích – analysis”! Vì sao quá trình ngược lại, từ “đạo hàm” tính ra “nguyên hàm” gọi là “tích phân – tính tổng”. Tôi dám cá nhiều HS còn chưa hiểu tại sao tích chính là tổng, phép cộng nhiều lần chính là phép nhân! Nên chăng phải có một chương “dẫn nhập”, giải thích ý nghĩa của các thuật ngữ, các lĩnh vực, nhánh con của ngành Giải tích…

Và giới thiệu sơ lược lịch sử của toán Giải tích: Newton, Fourier đã tìm cách giải bài toán Dự đoán thủy triều thế nào? Máy tính cơ học dùng để tính tích phân đã được chế tạo ra sao!? Tại sao lịch sử vi tích phân lại quy về 2 người là Newton và Leibniz!? Tôi nghĩ, cách tốt nhất để học Toán phổ thông chính là học “Lịch sử Toán”, học để biết nguyên cả một quá trình phát triển! Cũng tương tự, cách tốt nhất để học Văn chính là học… Văn học sử! Nếu đã học Nguyễn Du thì ít nhất cũng nên biết sơ qua ông ta thân thế làm sao, sống trong bối cảnh thế nào!?

Khối lượng kiến thức “bên lề” này là… bao la, rộng hơn rất nhiều so với phần được trình bày trong SGK, nhiều điều ngay cả giáo viên giảng dạy còn chưa biết đến! Ngày xưa đi học, tôi sợ nhất là bản thân nổi hứng trích dẫn vài câu thơ “lạ lạ”, khả năng cao là sẽ bị phê: “Lạc đề”, cho 2, 3 điểm! Nói không phải chứ tôi biết rất rõ, ngoại trừ một vài trường hợp, phần lớn giáo viên Văn cũng chẳng biết được bao nhiêu văn, họ chỉ dò câu chữ xem học sinh có làm đúng “đáp án” hay không, chứ không có khả năng hiểu, bình phẩm và tán thưởng những ý tưởng mới lạ!

Hệ thống kiến thức là phát triển tuần tự theo dòng thời gian, và có lịch sử phát triển đôi khi còn phức tạp hơn cả bản thân cái kiến thức đó! Không thể chấp nhận kiến thức theo kiểu “từ trên trời rơi xuống”! Học theo kiểu “từ trên trời rơi xuống” rồi cũng sẽ sinh ra những loại người… “từ trên trời rơi xuống” mà thôi! Vấn đề thứ hai là đừng sa đà vào công thức và bài tập khô khan! Ngay từ các khái niệm gốc, sử dụng nhiều ví dụ minh họa để HS hiểu rõ chúng có ý nghĩa gì trong thực tế, được dùng để giải quyết những vấn đề thiết thực nào trong cuộc sống.

Vội vàng đi sâu vào các bài toán vi tích phân quá trừu tượng và phức tạp mà không giải thích rõ ràng những khái niệm cơ bản ngay từ gốc, không hiểu các kiến thức đó dùng để làm gì thì cũng giống như tự cưa cành cây mình đang ngồi trên đó vậy, cũng giống như học đủ các chiêu thức võ công, cái gì cũng biết mà… đứng tấn không vững vậy! Sau đó, nếu còn không hiểu nữa thì chỉ có thể đổ lỗi cho… cái bản tính nó “đoản – đoảng – ngắn” vậy thôi, ưa vung vít những chuyện tào lao trên trời dưới đất, nhưng không chịu hiểu những điều sơ đẳng, thiết thực!

thôi kỷ cập nhân

Ngữ nghĩa trong phim Trung Quốc đôi khi rất thú vị… Hai người bạn cấp 3, một nam một nữ ngồi uống với nhau vài lon bia, những lon bia “hợp pháp” đầu tiên sau tốt nghiệp! Bên trong từ lâu đã có tình ý, nhưng ngoài mặt vẫn đóng vai “anh em, huynh đệ”: Cậu xem, sau này thành công rồi nhớ chiếu cố đến tớ nhé! Người kia đáp: Yên tâm, sau này, chỉ cần tớ có bát cơm để ăn thì cậu sẽ có bát để… rửa! Nghe là biết tỏng kịch bản phim rồi, đây chính là câu để nói với… ông chồng tương lai ngày ngày rửa bát cho vợ!

以己度人 – 推己及人 – hai thành ngữ này hơi khó dịch ra tiếng Việt, “Dĩ kỷ độ nhân – 以己度人” có thể dịch là “suy bụng ta ra bụng người”, cũng hiểu là: “dùng tiêu chuẩn của bản thân bắt người khác phải thấp như mình”, nhưng “Thôi kỷ cập nhân – 推己及人” thì phải hiểu là: “thúc đẩy bản thân cho cao bằng (tiêu chuẩn của) người khác”, đây là 2 cách diễn đạt, 2 ý tứ hoàn toàn khác biệt! Trong nguyên bản thì mỗi thành ngữ đều 4 chữ, nhưng dịch trọn vẹn ý nghĩa ra tiếng Việt thì lại rất dài dòng!

điện khí hóa

Trung Quốc đã đạt được nhiều tiến bộ trong rất nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ, nhất là trong các lĩnh vực có liên quan đến điện: tàu điện cao tốc, điện mặt trời, điện gió, truyền tải điện một chiều trên khoảng cách xa, các loại động cơ điện tiên tiến, máy phóng điện từ trên tàu sân bay, các loại pin tích năng, etc… Về các loại xe động cơ đốt trong, dù Trung Quốc hoàn toàn có thể chế tạo ra những chiếc xe hơi tốt, nhưng chắc chắn không thể thương mại hóa nó thành công! Vì lĩnh vực động cơ nổ trên xe bị… kiểm soát hoàn toàn bởi phương Tây thông qua hàng trăm ngàn patent (bằng phát minh sáng chế). Dù có sản xuất được xe tốt thì cũng chỉ bán qua được những nước kém phát triển, nơi không tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ, mà những dạng thị trường này thì lại chẳng đáng bao nhiêu.

Nên họ phải tìm ra một nhánh thị trường mới để vươn lên, đó là xe điện (và các phương tiện dùng điện khác), thực sự vươn lên chiếm lĩnh bằng cách đăng ký hàng trăm ngàn patent, tìm cách đi trước phương Tây! Nên mới nói, khoa học, kỹ thuật chẳng qua cũng chỉ là cách để đào tạo, thay đổi con người & xã hội, cơ bản từ gốc là do người có muốn thay đổi hay không mà thôi, không có công nghệ này, ta có thể tìm công nghệ khác! Kể từ lúc Tesla tranh luận với Edison về điện một chiều và xoay chiều đến nay đã hơn 120 năm, nhưng tiến bộ nhân loại đạt được nhờ điện vẫn xem như… chỉ mới bắt đầu! Câu nói của Lê-nin: “Chủ nghĩa Cộng sản = Chính quyền Xô-viết + Điện khí hóa” vẫn còn ý nghĩa, hơn nữa từ công thức đó ta có thể suy ra: Chính quyền Xô-viết = CNCS – Điện khí hóa!!! :D :D

triều Minh dưới kính hiển vi

Hiển vi kính hạ đích Đại Minh – triều Minh dưới kính hiển vi, là một bộ phim lấy chủ đề… Toán học! Triều Minh, thoạt nhìn thì là một triều đại “ổn định, thịnh trị”, nhưng bên trong lại có vô số vấn đề “nho nhỏ” về mâu thuẫn lợi ích và thủ đoạn chính trị! Soái Gia Mặc, ngay từ nhỏ đã là một thiên tài toán học, tính tình có chút cá biệt, suốt đời bị ám ảnh bởi các con số. Anh đã dùng kỹ năng Toán của mình để kiểm tra, hiệu đính các vấn đề đo đạc ruộng đất, tính toán thuế khóa, tham gia giải quyết nhiều vụ án chấn động đương thời. Phim quy tụ nhiều diễn viên thực lực, diễn xuất ấn tượng! Đó là triều Minh, hơn 600 năm về trước, bây giờ ta hãy quay lại VN của ngày nay…

Giả sử bạn đi vay nóng 20 triệu, người cho vay sẽ “cắt phế” 2tr, chỉ đưa bạn 18tr! “Cắt phế” là dùng đúng từ của đám cho vay nặng lãi hiện nay, xem như đã lấy trước phần lãi 10%, một tháng sau phải trả đủ 20 triệu! Cái “cắt phế” này là hoàn toàn sai, vì thực ra bạn chỉ vay có 18 triệu mà thôi, nếu lãi suất 10% thì sau một tháng, bạn chỉ phải trả 19.8 triệu, nếu nhân lên nhiều tháng (lãi mẹ đẻ lãi con) sẽ là một khác biệt rất lớn! Đây là một tình tiết ngay tập đầu phim, tính toán sơ đẳng có thể thấy đám cho vay nặng lãi đã gian manh như thế nào! Ấy thế mà ở Việt Nam, hơn 600 năm sau, dân trí vẫn còn đang ở mức không thể nói cho đúng đắn được!

hữu sở vi, hữu sở bất vi

Dân trí, đó không phải là “trí”, mà là… “tâm”! Không phải làm được điều gì, mà là… không làm những gì! Quân tử hữu sở vi, hữu sở bất vi… 君子有所为有所不为 – người quân tử có chuyện cần phải làm, có chuyện không được làm. Nôm na tức là nếu không loại trừ được những thành phần lưu manh, phá hoại, đĩ điếm… thì có làm được bao nhiêu cũng “của thiên trả địa” mà thôi. Có những loại suốt đời chỉ âm mưu phá hoại, muốn ăn mà không muốn làm, những loại này nếu không kìm hãm, loại trừ thì cả xã hội sẽ khốn khổ vì chúng! Em xem phim cổ trang Trung Quốc đủ nhiều để biết rằng: dân trí của xã hội sẽ phát triển qua rất nhiều giai đoạn khác nhau!

Giai đoạn đầu tiên chính là đấu đá, đâm chém nhau để dành ăn, dành lợi, trắng trợn không kiêng dè! Giai đoạn thứ nhì là âm mưu: hạ độc, dàn cảnh, gài bẫy, đặt điều, vu vạ. Sau những giai đoạn “sơ khai” đó mới dần tiến đến có ý thức về hành động của mình, dần trở nên “biết người, biết ta”, biết kìm “cái tôi” lại, bớt dần những chuyện lưu manh vặt vãnh, rồi dần biết tôn trọng người khác, tìm cách hợp tác phát triển. Cái “biết người biết ta” này, nói đơn giản như vậy, nhưng không biết phải mấy trăm năm nữa mới làm được!? Rồi dần trở mới nên thông minh hơn, nhìn rõ được bản thân, thấy được thế giới xung quanh như thế nào mà tính chuyện lâu dài hơn!

Văn hóa VN như hiện tại, chỉ mới đang ở giai đoạn 2 đã nói ở trên! Có vô số thành phần lưu manh tìm cách hạ độc người khác, bỏ độc vào đồ ăn thức uống, tìm cách bỏ thuốc kích thích, hay các loại hóa chất, tìm cách làm ô nhiễm không gian bằng âm thanh và bằng đủ thứ rác rưởi khác! Nhưng điều này đều hoàn toàn hiểu theo nghĩa đen chứ chẳng phải nghĩa bóng, ám chỉ, phiếm chỉ gì! Tôi đoán rằng, trong nhiều năm tới, rất cần tăng cường quản lý an toàn thực phẩm, dược phẩm, tăng cường năng lực xét nghiệm hóa chất, kiểm định môi trường… Đây không phải là “miệt thị dân tộc” đâu, chính là dân trí chỉ mới ở giai đoạn mông muội như vậy mà thôi!

cấu trúc ngôn ngữ

Tại sao nói các cấu trúc logic nhỏ trong ngôn ngữ là tối quan trọng trong việc hình thành nên tư duy!? Những ngôn ngữ có tính cấu trúc cao buộc người đọc/nghe phải chờ hết câu, đảo tới đảo lui trật tự để tìm ra các quan hệ logic và suy xét ngữ nghĩa muốn diễn đạt. Nó tạo ra một thói quen cẩn thận cho người dùng ngôn ngữ! Các ngôn ngữ có cấu trúc yếu như tiếng Việt không khuyến khích áp đặt những cấu trúc tư duy này! Cá biệt, à không phải cá biệt, mà là rất phổ biến, rất nhiều ngươi Việt chưa chờ người ta nói hết câu, mới nghe được 3 chữ là đã… nhảy vào miệng người khác ngồi rồi!

Gặp những loại cứ chăm chăm nhảy vào miệng người khác là tôi lập tức… không nói chuyện, loại này nói vô ích! Lúc nào cũng ta biết, ta đúng, ta hơn người… dần dần tạo ra một môi trường văn hóa xã hội như ngày nay! Xem ngôn từ như kiểu một trò chơi, đuổi hình bắt chữ vô cùng thiểu năng, vừa không hiểu hết chiều sâu ngữ nghĩa, lại không không dám làm đến tận cùng sức nặng ngôn từ! Ai nói điều gì đều tìm cách léo lận, bẻ cong đi! Rút cuộc chỉ xem ngôn từ như một dạng lòe người, bịp nhau mà thôi! Khi đến một vài câu chữ nhỏ nhoi cũng không hiểu được tức là xã hội đại loạn!

Tự tạo nghiệp thì đành chỉ có cách để cho nhân – quả quyết định mà thôi! Tôi nhớ một thời, khoảng những năm 80, phim TQ hoàn toàn mang đầy đủ tính “chính kịch”, xem từng đoạn, từng đoạn mà cứ tưởng như là đang đọc Shakespeare vậy! Nhưng càng ngày, phim ảnh TQ càng mang tính giải trí, đủ thể loại thượng vàng hạ cám khác nhau! Nhưng dù là cao hay thấp thì phim TQ đa phần đều có kịch bản tương đối ổn, ngôn từ, ngữ nghĩa đều có chiều sâu nhất định! Đừng vì không lãnh hội được ý nghĩa của người khác mà cho rằng ai cũng “thiểu năng, rỗng tuếch” giống như mình như vậy!

giày

Trước có xem một clip cách người TQ xưa làm giày… Chí ít là từ thời Minh, hơn 600 năm trước, giày của họ có đế làm từ tre: thanh tre được đập đến tơi nhuyễn, tước thành sợi, bện lại thành dây thừng dẹt! Những sợi thừng tre được quấn lại làm đế giày, cấu tạo rất thông minh, vô cùng bền chắc, phần thân giày may bằng vải dày, gần giống như giày bata thể thao ngày nay!

Và họ đã sản xuất ở quy mô lớn, có thể trang bị cho hàng chục vạn quân cùng một loại giày như thế. Xem rất nhiều những hình ảnh VN xưa cũ, mãi đến tận những năm 194x, phần lớn vẫn là đi chân đất. Chỉ một số ít quan lại cấp cao mới có giày đi, và số giày này cũng không tự sản xuất được, đều là mua từ TQ. Vì còn mãi ngồi đó bốc phét làm tàu hơi nước mà…

trung quốc mộng

Tuấn mã kiêu hành đạp lạc hoa,
Thuỳ tiên trực phất ngũ vân xa.
Mỹ nhân nhất tiếu khiên châu bạc,
Dao chỉ hồng lâu thị thiếp gia.

Giới phê bình phương văn học phương Tây thường chê cười rằng, hơn 50 năm qua, từ sau Lỗ Tấn, văn học Trung Quốc không xuất hiện tư tưởng gì mới. Phê bình đó, nói theo một cách nào đó, cũng tương đối đúng! Văn học TQ, ngay từ xa xưa, Tam Quốc diễn nghĩa, cho đến Hồng lâu mộng, cho đến mãi sau này, đều… không có tư tưởng mới lạ, đột xuất. Họ chỉ tập trung hoàn toàn, gần như là một dạng sa đà đến mức thái quá vào chi tiết, những điều ta xem là những tiểu tiết nhỏ nhoi, lặt vặt của cuộc sống!

Mức độ kỹ càng, chi tiết này thật sự là đáng kinh ngạc, khi các nhà văn TQ có xu hướng xem trãi nghiệm cuộc sống, sự từng trãi, lăn lộn qua đủ các góc cạnh nhân sinh còn… cao hơn giá trị tư tưởng. Đúng ra, thuộc tính của văn học TQ là như thế, điểm yếu của họ ở đó, mà điểm mạnh cũng là đó, chẳng cần phải “triết học”, “tư tưởng” cao siêu gì, cứ làm những điều bình thường cho kỹ lưỡng, làm đến mức sâu xa là được! Khởi nguyên, đó là do điểm yếu của ngôn ngữ, rồi dần dần trở thành một sự… lựa chọn!

Giấc mộng Trung Hoa, theo kiểu họ thường nghĩ tới, đó chính là… Hồng lâu mộng! Nhắc lại lịch sử đầu thời Minh, Từ Đạt, người đã thu hồi Đại Đô (Bắc Kinh) và đánh vào Thượng Đô (Karakorum), loại trừ hoàn toàn thế lực Nguyên – Mông ra khỏi TQ. Là đệ nhất công thần của Minh Thái tổ, may mắn thoát khỏi cuộc đại thanh trừng! Công lao vô cùng lớn nhưng không thể phong vương (tước vương chỉ dành riêng cho Hoàng tộc), nên đành phong Quốc Công, mà Quốc Công thì hơi nhỏ, không tương xứng…

Nên phải phong 2 tước Quốc công, một nhà được lập 2 tước Quốc công, chuyện chưa từng có trong lịch sử TQ. Hai tước Quốc công này là nguồn cảm hứng của Ninh quốc công và Vinh quốc công trong tiểu thuyết Hồng lâu mộng. Giấc mộng Trung Hoa không gì khác hơn là đạt được: “Ninh & Vinh”, sức mạnh quyền thế và kinh tế! Đương nhiên thời đại đã khác, không nên hình dung cuộc sống chỉ đóng khung như thời phong kiến. Khoa học, kỹ thuật, tư tưởng sẽ mở ra vô số khả năng biến động mới…

như một tách trà

Một trong những phim thanh xuân TQ tôi xem thích vô cùng… Phim cân bằng tốt giữa tính thực và tính kịch, giữa hiện trạng, hiện thực và sáng tạo, vị lai! Cũng giống như Tề Bạch Thạch khi nói về tranh vẽ vậy: “vẽ tranh vi diệu ở chỗ vừa giống vừa không giống, nếu quá giống tức là chiều theo thế tục, mà không giống thì là nhạo báng nhân gian…” Phim ảnh mà chỉ chăm chăm đi phản ánh thực tế một cách trần trụi, sống sượng, thô bỉ… thì chả khác nào những kiểu: giả gái, giả pede, giả tiếng, bắt chước, etc… giống như hài HL, kiểu hài mà tôi phải lấy ngón tay tự thọc lét thì mới cười được!

Sự phản ánh thực tế một cách thô bỉ, sống sượng cho thấy cái mà người Việt rất lạm xưng, gọi là “nghệ sĩ” phần lớn chẳng có tư duy thẩm mỹ, sáng tạo gì, chỉ copy lại thực tại một cách thiểu năng, giống như tâm trí của đứa con nít 3 tuổi vậy! Sự sáng tạo, nếu hợp lý, vừa đủ, tinh tế sẽ cho thấy những chiều hướng phát triển của tâm lý, tâm hồn con người, qua đó phác họa nên đường hướng phát triển văn hóa xã hội, khi đó thể hiện được sự nhạy cảm, tài năng của người làm nghệ thuật! Đương nhiên cũng có loại “sáng tạo” quá đà, vẽ ra những thứ ngôn tình, hư ảo, không thực!

Phim có một trường đoạn rất hay: thằng con chơi thể thao gặp tai nạn, bị chấn thương, được các bạn cùng lớp đưa đến bệnh viện, trực tiếp phẫu thuật cấp cứu lại là… mẹ của thằng bé, làm bác sĩ tại bệnh viện đó! Bước ra từ phòng phẫu thuật, bà mẹ nói để trấn an những đứa trẻ đang lo lắng chờ đợi ở bên ngoài: “Lúc này, chúng ta nên tin tưởng vào khả năng hồi phục của bệnh nhân!” Và rồi, dường như chợt bừng tỉnh, thoát ra khỏi cái vai làm bác sĩ, trở về với cái vai làm mẹ, bà nói tiếp: “Ah, cô nói thế chỉ là do bệnh nghề nghiệp mà thôi!” Một trường đoạn thực sự rất hấp dẫn…

Phim thanh xuân hay ở chỗ, chính từ trong sự mơ hồ, không chắc chắn của lứa tuổi, cho phép người ta tạm đóng nhiều vai như một hình thức tự vấn, nhìn vấn đề từ nhiều hướng. Sự vận động nội tâm này làm nhân vật trở nên phong phú, trưởng thành! Nhiều người Việt cũng luân phiên “diễn” nhiều “vai” như vậy, nhưng thay vì suy nghĩ cho sâu xa để cho bản thân trở nên có chiều sâu, họ đã cố gắng tối đa mà chỉ đạt được một mớ ngôn từ hàm hồ, xàm xí, động cơ tối hậu chỉ là diễn để bịp người, TQ còn tế nhị gọi là “tiểu thông minh”, chứ nói thẳng ra chính là… lưu manh vặt, ngu xuẩn!

từ nguyên: cam sành

Cam – là một từ Hán Việt đã mượn từ rất xa xưa, thế còn “cam sành” thì sao?! Sành chính là âm đọc mới sau này của – âm Hán Việt xưa đọc là tranh – chanh! Từ này, ngay từ gốc là đã có sự nhập nhằng về nghĩa: vừa dùng để chỉ loại cam vỏ dày, vừa dùng để chỉ trái chanh! Để phân biệt thì người ta hay dùng 香橙 – hương tranh để chỉ trái chanh! Như thế cùng một mặt chữ là: , nhưng tiếng Việt mượn đến 2 lần, một lần đầu để chỉ quả chanh, và một lần sau để chỉ một giống cam vỏ dày gọi là (cam) sành!

Còn để chỉ loại chanh Tây quả to, màu vàng mới sau này, tiếng Trung hiện đại dùng chữ 柠檬, phiên âm trực tiếp từ tiếng Anh “lemon”, nhưng âm Hán Việt đọc là… “ninh mông”! Có thể thấy cái nhập nhằng ninh-linh, N và L đã có gốc gác xa xưa, không phải là chuyện đơn giản! Qua nhiều ví dụ khác có thể thấy rõ, những dạng phát âm tiếng Việt “không chuẩn”, như “N-L” ở miền Bắc, và “V-D” ở miền Nam, đều là do ảnh hưởng trực tiếp từ tiếng Trung (hoặc các phương ngữ TQ) tại nhiều thời điểm khác nhau!

“thuần việt”

Các nhà ngôn ngữ học đã tìm ra các quy luật biến âm dựa trên Phiên thiết, có thể truy nguyên một số từ tiếng Việt. Nhưng vẫn có rất, rất nhiều từ không nằm trong những quy tắc đó, không thể truy nguyên được nếu chỉ đứng từ góc độ sách vở thuần túy. Nhưng, những từ này lại có thể truy gốc dễ dàng nếu chịu khó xem kỹ các phim Trung Quốc. Vấn đề là tiếng Việt mượn từ tiếng Trung theo kiểu… “mua sỉ – wholesale”, nhập nguyên lô, nguyên kiện một số lượng từ ngữ vô cùng lớn, lại nhập tại rất nhiều thời điểm khác nhau! Nhiều từ, nếu chỉ tra từ điển thường là không có!

Ví dụ như từ… “ví dụ – 比如“, từ này, âm Hán–Việt đọc là: tỉ như, nhưng âm Bắc Kinh hiện đại đọc là… ví dụ. Một ví dụ cũng rất đặc sắc nữa là: đủ – (đầy đủ, no đủ)! Để ghi từ “đủ”, những người làm ra chữ Nôm đã bịa ra hơn 5, 6 cách khác nhau, nhưng không ai biết rằng, “đủ” đã âm thầm du nhập tại một lúc nào đó, là âm đọc của – âm Hán Việt là: câu, cú, mặt chữ vừa có tính hội – ý, vừa có tính hài – thanh như thế! Nếu đã biến âm nhiều đến mức như thế thì không cách nào truy ra gốc được, nhưng cứ xem phim là thấy rõ: từ âm đọc cho đến ngữ nghĩa đều giống y hệt.

Vài ví dụ khác: được – – đắc, cả – – cách, cút – – cổn, sốt – – thiêu, cùn – – độn, quýt – – quất, trễ – – trệ, thử – – thí, nung – – dong, khéo – – xảo v.v… Sự vay mượn tại nhiều thời điểm này, kỳ lạ thay, có xu hướng không mượn từ Quảng Đông, nơi gần VN hơn, mà mượn trực tiếp từ Quan thoại (hoặc Quan hỏa), mà Quan thoại thì, theo dòng lịch sử biến động, ngày càng khác Phiên thiết! Các từ điển Nôm hiện – có có những thiếu sót rất lớn khi không giải thích, truy nguyên được rất nhiều từ vay mượn, từ đó dễ dẫn đến suy nghĩ rằng chúng “thuần Việt”!

cổ trang

Có lần xem phim cổ trang TQ làm về Khang Hy đế, khi còn là một đứa trẻ 8 tuổi: “sau này, khi chấp chính, để thay đổi xã hội, ta sẽ bắt tất cả những kẻ làm nông trong thiên hạ đi học chữ, và bắt tất cả những kẻ học chữ đi cày ruộng…” Xem đến đoạn đó mà ôm bụng cười lăn lộn, tuy chỉ là lời của một đứa trẻ 8 tuổi mà mang hàm ý sâu xa. Phim cổ trang TQ không phải lúc nào cũng chỉ có ngôn tình, trai xinh, gái đẹp… rất nhiều phim lồng ghép vào đó những yếu tố văn hóa, những vấn đề kinh tế, xã hội sâu xa! Nhưng có nhìn thấy hay không, có hiểu được hay không còn tùy vào người xem, suy cho cùng, người ta chỉ nhìn thấy cái mà người ta muốn thấy mà thôi!

Cổ trang, đó là một không gian “giả sử” để… mặc sức tưởng tượng. Nên nhớ ngày xưa không giống ngày nay, chiến tranh, đói kém, dịch bệnh liên miên. Khi Doanh Chính lên ngôi Tần vương lúc 12 tuổi (tức Tần Thủy hoàng sau này), việc đầu tiên ông ta làm là… ra lệnh đi xây lăng! Ở một thời mà tuổi thọ trung bình của con người không quá 40, vòng đời ngắn ngủi như thế, lên ngôi vương là lập tức nghĩ đến hậu sự! Nên tâm lý con người và phong tục tập quán của xã hội ngày xưa khác xa ngày nay, chính từ trong những khó khăn, khốn cùng của cuộc sống đó mà con người có những cách phản ứng, có những kiểu mẫu diễn biến tâm lý phức tạp khác nhau!

Thêm vào đó là sự khác biệt nam – nữ, già – trẻ, khác biệt giữa các giai tầng, tất cả đều được đem ra mổ xẻ, phân tích vô cùng kỹ lưỡng! Cái phân tích kỹ lưỡng về tâm lý trong phim TQ đó, thực chất chỉ là mượn chuyện xưa mà nói chuyện nay, mượn một không gian “giả sử” để phân tích về tâm lý của con người, từ đó rút ra những kiểu mẫu, những bài học để ngày nay trông vào mà tự phản tỉnh, mục đích sau cùng cũng chỉ là vì… tiến bộ xã hội mà thôi! Xem người rồi nghĩ đến ta, xã hội vẫn là một kiểu “công xã nguyên thủy”, ngây ngô như thủa hồng hoang, không tự luận ra được, nhìn thì có vẻ sáng sủa văn minh đó, nhưng nội tâm vô cùng tăm tối, u muội! :(

Nhiều người bảo chuyện cổ tích Tấm và Cám là đã quá lạc hậu, không còn phù hợp với thời hiện đại, không có tính nhân văn này nọ. Tôi nói nó chưa lạc hậu đâu, xã hội VN như hiện tại vẫn có một bộ phận rất lớn cũng chỉ ngang cỡ đó thôi! Khả năng thông hiểu người khác, khả năng phối hợp lao động xã hội gần như không có, tâm địa gian dối, lưu manh vặt vẫn sờ sờ ở đó, toàn bộ lý trí, nhận thức bị “cái tôi” thấp kém lấn át, nên lúc nào đó xảy ra những chuyện cực đoan như trong Tấm và Cám thì cũng không phải là chuyện gì lạ đâu! Chỉ là giả vờ văn minh, hiện đại, khoác lên người quần áo sạch sẽ thế thôi, chứ bên trong thì… vẫn cứ như hàng ngàn năm trước!