khát vọng mùa xuân

Nghe bài này khoảng chừng cấp 1, còn nhỏ lắm, và dĩ nhiên là nghe bằng tiếng Việt, có lời Việt đặt riêng cho bài nhạc Mozart này, nhưng ngay từ lúc đó đã cảm thấy rằng nhạc này… “không đến từ VN” nhưng dĩ nhiên về sau lớn lên rồi mới biết đích xác từ đâu…

Tiếng hát người chiến sĩ biên thuỳ

Le chant du garde frontière – Tiếng hát người chiến sĩ biên thuỳ – Tô Hải… Một bản nhạc chưa bao giờ được trình diễn một cách chính thức và đầy đủ suốt mấy chục năm qua, nhưng từng phần, từng khúc nhỏ của nó vẫn được trích dẫn rải rác đây đó…

neo classicism

Loại âm nhạc “hiện đại” tại thời điểm 20 năm trước, Nữ tử thập nhị nhạc phường – 女子十二樂坊 – Ban nhạc 12 cô gái – The twelve girls band! 30 năm trước, Giao hưởng #40 được sử dụng làm nhạc hiệu chương trình Phim truyện, THVN. Khó có bản nhạc nào vừa tươi sáng, lại vừa u tối, vừa lạc quan, vừa yếm thế, tất cả trong một như là #40!

NOSTALGY

Quelques doux morceaux de musique composés par Paul de Senneville et interprétés par Richard Clayderman, de temps en temps, reviennent de la mémoire de mon enfance: Nostalgy, Ballade pour Adeline, Mariage d’amour, Souvernir d’enfance, Dolannes melodie, Concerto pour une jeune fille nommee Je t’aime, A comme amour, Lady D, Lettre A Ma Mère, Murmures, Rondo pour un tout petit enfant

Tumbalalaika

Có lúc, tôi đã nghĩ rằng, tất cả những gì đầy sức sống, sinh động trong âm nhạc, thảy đều xuất phát từ nước Nga! Có thể đó chỉ là một kiểu bias – định kiên thiên lệch. Xưa rất thích bài “Over and over”, mà nhạc sĩ Phạm Duy đã đặt một cái lời Việt rất dễ thương: Em không mơ hoang, kiếp sống nơi cung hằng, Em không tham lam diễm phúc nơi thiên đàng… Và nhiều người Việt cũng biết bài này qua trình bày tiếng Anh của D.Fannel, hay tiếng Pháp Roule s’enroule – Nana Mouskouri, nhưng về sau mới biết đó nguyên gốc là 1 bài dân ca Nga – Do thái: Tumbalalaika…

tia nắng

Có giai đoạn nào đó, các sáng tác của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu bổng trở nên “cao” lạ thường, có lẽ vì viết riêng cho NS Quốc Hương vừa đi tu nghiệp về (kỹ thuật hát có nhiều tiến bộ), điển hình như bài “Những ánh sao đêm”, trước mỗi lần karaoke, đến đoạn ấy là tôi phải leo lên bàn, hát cho nó đủ cao: “xây cho nhà cao, cao mãi…” Bài dưới, tuy không nhiều người biết, cũng là điển hình cho cái xu hướng “cao” ấy…

walrus pull

Ngày xưa, khi kayak hãy còn là công cụ “săn bắt hái lượm” ở đảo Greenland. Nói kayak xuất phát từ Greenland không hoàn toàn đúng, nhưng để đơn giản hoá vấn đề, tạm chấp nhận như thế. Ngày xưa, những người đàn ông “da đỏ” dùng kayak đi săn hải cẩu (seal), hải mã (walrus). Đây là những loài động vật lớn, nặng từ vài tạ cho đến vài… tấn. Họ ngồi trên xuồng, phóng lao vào những con vật khổng lồ ấy, chúng sẽ không chết ngay đâu, và sẽ kéo mũi lao cùng chiếc xuồng đi cho đến khi kiệt sức, không cần phải nói, đó là một cuộc chiến sinh tồn thật sự.

Những “kayaker” sẽ xoay ngang chiếc xuồng lại, tìm cách dìm xuồng xuống nước để làm tăng sức cản, làm con vật mau kiệt sức. Đôi khi, những con vật sẽ kéo chiếc xuồng lật, xoay, lòng vòng như chiếc lá… trong khi người chèo vẫn phải ngồi vững trong xuồng. Ngày nay, người ta không còn săn hải cẩu, hải mã nữa, 5 người đàn ông khoẻ mạnh đứng trên bờ, dùng một sợi dây để “giả lập” lực kéo của con hải mã, thử thách người chèo làm sao vẫn giữ vững được trên xuồng. Haiza, xem ra kỹ năng của kayaker hiện đại chẳng là cái gì so với ngày xưa, xem video dưới đây sẽ rõ.

Alexei Leonov

Phim tài liệu dài 1h về Alexei Leonov, không phải là người đầu tiên bay vào vũ trụ như Gagarin, nhưng là người thực hiện chuyến đi bộ trong không gian đầu tiên. Trong số những phi hành gia Sô viết, Leonov có lẽ là người sống một cuộc đời đầy đủ nhất, viên mãn nhất, đa tài, đa nghệ, về sau trở thành phó giám đốc của một ngân hàng lớn.

Con người ấy toát ra sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt, sự khôn ngoan và điềm tĩnh. Sống qua tất cả những giai đoạn tồi tệ nhất của lịch sử, xuất thân từng là thành phần “kẻ thù của nhân dân”, 2 ngôi sao vàng trên ngực áo (2 lần Anh hùng Sô viết). 80 tuổi, người ta thấy ông khiêu vũ với những nhịp điệu sôi động như một chàng trai trẻ.

Xem thêm bộ phim Nga – 2017 về Alexei Leonov, The spacewalker – The Age of Pioneers

march of the Preobrazhensky regiment

Hành khúc trung đoàn Preobrazhensky, đội ngự lâm quân đầu tiên của Peter – the Great. Lời bài hát nói rõ lịch sử hình thành trung đoàn, từ ngày còn là những cậu bé chơi trận giả đến khi trưởng thành. Một dân tộc mạnh khoẻ phải có thứ âm nhạc khoẻ mạnh. Haiza, nghĩ đến những thứ “nhẽo” Việt đương đại, haiza, lại thở dài, ko thể gọi là “nhạc” được, chỉ có thể gọi là “nhẽo”!!!

áo bà ba

Chuyện hơn 20 năm trước, suốt đêm viết luận văn tốt nghiệp, là LVTN điểm 10 tuyệt đối, không làm tròn, duy nhất trong suốt lịch sử ĐH KHTN hai mươi mấy năm, tính đến thời điểm đó. Ngày nào cũng “thắp hương cầu nguyện” sao cho đừng cúp điện, chương trình chạy trên cái máy Pentium 5, liên tục hơn 10 ngày mà vẫn chưa tính toán ra được kết quả, cần phải có số liệu để bỏ vào luận văn đem in.

Điếu thuốc Bastos xanh rẻ tiền luôn có trên tay, viết mãi, viết mãi mà chỉ có 40 trang, mà mình thì nhất quyết không xài các chiêu “gian lận” như phóng to cỡ chữ, giãn chữ, giãn dòng… để cho văn bản in ra được nhiều trang hơn. Sáng mệt quá, ra quán trước ngõ, gọi ly cafe, ngồi một mình, nghe được bài này, lần đầu tiên… Tôi nhớ ai bên dòng nước xanh, người áo trắng đi bên hàng dừa, người yêu tôi mong chờ…

What is a youth?

What is a youth? Impetuous fire. What is a maid? Ice and desire. The world wags on! A rose will bloom, it then will fade, so does a youth, so does the fairest maid. Comes a time when one sweet smile, has its season for awhile, then Love’s in love with me. Some may think only to marry, others will tease and tarry, mine is the very best parry, Cupid he rules us all. Caper the caper; sing me the song. Death will come soon to hush us along. Sweeter than honey and bitter as gall. Love is a past time that never will pall. Sweeter than honey and bitter as gall. Cupid he rules us all!

csardas

Csardas (vũ khúc Hungary), nhạc khúc tuổi thanh xuân, một thời mà bạn đọc ra trên gương mặt cô ấy, cùng một lúc, nhiều loại cảm xúc khác nhau. Nàng đang ở đó, mà cũng vừa ko có ở đó, cô gái… đến từ hôm qua!

Le temps du muguet

Il est revenu le temps du muguet, comme un vieil ami retrouvé. Il est revenu flâner le long des quais, jusqu’au banc où je t’attendais. Et j’ai vu refleurir, l’éclat de ton sourire, aujourd’hui plus beau que jamais.

Le temps du muguet ne dure jamais, plus longtemps que le mois de mai, quand tous ses bouquets déjà seront fanés. Pour nous deux rien n’aura changé, aussi belle qu’avant, notre chanson d’amour, chantera comme au premier jour.

Il s’en est allé le temps du muguet, comme un vieil ami fatigué, pour toute une année pour se faire oublier. En partant il nous a laissé, un peu de son printemps, un peu de ses vingt ans, pour s’aimer pour s’aimer longtemps.

lý tử thất – tiêu sầu

Lý Tử Thất, nàng ngồi đấy, ôm đàn và hát: …Một ly này kính cố hương, một ly này kính viễn phương, xin giữ cho tâm hồn này được thiện lương, xin cho tôi được trưởng thành… Cái gì mà “niệm niệm bất vong”, cái gì mà “cao sơn thuỷ trường”? Đến trời sáng, ai bảo mình không say thì thật đúng hoang đường.

carnival night – 2

Không ngờ nước Nga hiện đại cũng có The voice, Idol, Got talents các kiểu, không hiểu sao những thứ “tạp nham, tào lao” như vậy mà vẫn tổ chức được. Thế rồi lại đem bài này ra trình diễn, so với bản gốc hoàn toàn là… phiên bản lỗi! Ai mà còn nhớ phim này thì hẳn cũng ko còn trẻ nữa rồi…

Phim “Vũ hội hoá trang đêm giao thừa”. Bài hát “quatre minutes – 5 phút”, nữ chính tuyệt vời! “Một nụ cười ấm áp, ko nghi ngờ gì nữa, đánh thẳng vào anh ở chính giữa 2 mắt”. Phát hành 1956, phim trở thành kinh điển của điện ảnh Xô-viết, được xem mỗi độ năm mới cho đến tận ngày nay!

quê em miền trung du

Bao là gươm, bao la súng,
rừng lưỡi lê đi chiếm lại làng quê xưa…

Điệu valse nhẹ nhàng cho buổi sáng, vẫn là giọng cả Thái Thanh… Face lại nhắc những hình ảnh về biết bao vùng đất tươi đẹp mà ta đã đi qua! Bài này có 1001 lời chế, kiểu như: “ba em trồng khoai lang, đào lên thấy khoai mì, thiệt là điều vô lý” hay là: “quê em miền Sơn Tây, em gọi bố bằng thầy, em còn bé tí, em còn chưa có ti…”

17 moments of spring – parody

Coi cái parody này mấy năm trước, cười đến tận giờ! Phải hiểu bối cảnh một chút thì mới thấy hay: bộ phim đen trắng “17 khoảnh khắc mùa xuân”, 1973, một trong những phim thành công nhất của điện ảnh LX. Về sau, truyền hình Nga đem phim đen trắng cũ ra tô màu. Nói cho công bằng thì “tô màu” không tệ, nhưng nó đánh vào kỷ niệm của những người từng yêu thích bản đen trắng, vậy mới có cái parody dưới đây!

gde-to daleko

Я прошу, хоть, не надолго, Боль моя, ты покинь меня. Облаком, сизым облаком Ты полети к родному дому, Отсюда к родному дому. Берег мой, покажись вдали Краешком, тонкой линией. Берег мой, берег ласковый, Ах, до тебя, родной, доплыть бы, Доплыть бы, хотя б когда-нибудь. Где-то далеко, очень далеко Идут грибные дожди. Прямо у реки в маленьком саду Созрели вишни, наклонясь до земли.

Где-то далеко в памяти моей Сейчас, как в детстве, тепло Хоть, память укрыта Такими большими снегами. Ты, гроза, напои меня Допьяна, да не до смерти. Вот опять, как в последний раз, Я всё гляжу куда-то в небо, Как будто ищу ответа. Я прошу, хоть, не надолго, Боль моя, ты покинь меня. Облаком, сизым облаком Ты полети к родному дому, Отсюда к родному дому.

Moscow nights

Hôm nay vào mood hơi cổ điển, hơi operetta một tí… trên sân khấu là một baritone – Dmitri Hvorostovsky và một soprano – Anna Netrebko và một bài hát phổ biến nhiều người biết. Một số người vẫn còn ngần ngại khi bầu chọn Anna Netrebko vào vị trí soprano hay nhất mọi nơi, mọi thời đại, vì dù sao “hay nhất” vẫn là một đánh giá rất rất chủ quan. Cuộc đời Anna Netrebko cũng là một kiểu công chúa Lọ Lem, từ người lau sàn nhà hát Mariinsky ở Saint Petersburg trở thành soprano tầm cỡ…

bumble bee

Trích đoạn phim “Thiềm quang thiếu nữ”, phim lấy bối cảnh một trường âm nhạc TQ, nơi nhánh nhạc Tây phương và nhánh nhạc cổ truyền thường xuyên mâu thuẫn với nhau. Như thường lệ, cuộc chiến âm nhạc – music battle, dùng bài “The flight of bumble bee”, như đã được sử dụng trong rất rất nhiều phim khác, trích từ trong một vở opera của tác giả Nga, Nikolai Korsakov! Muốn biết tại sao gọi là “Ong bay”, nghe rồi sẽ rõ!