điện ảnh

Căn bản, cách làm phim của Trung Hoa đại lục và Hồng Kông, Đài Loan rất khác nhau. Với Đài Loan, HK, diễn viên thường được chọn từ các cuộc thi sắc đẹp, dĩ nhiên là có ngoại hình. Còn ở Đại lục, đa số diễn viên, nhất là các thế hệ đầu, và đến tận bây giờ, thường chọn ở các đoàn ca kịch: Kinh kịch, Bình kịch, Xuyên kịch, Tương kịch… Các thể loại Kịch đại lục có bề dày lịch sử lâu đời, công phu đáng nể, diễn viên không chỉ học diễn xuất, mà còn học vũ đạo, võ thuật, nhiều trò tạp kỹ, và nhất là văn thơ cổ. Nên về ấn tượng ngoại hình, trang phục thì HK, Đài Loan có thể có chút ưu thế, nhưng về chiều sâu văn hoá, tâm lý, thì không thể qua mặt Đại lục.

Thế nên mới có chuyện “diễn vai nào là chết vai đó”, nhiều diễn viên cả đời chỉ đóng một vai: Hoàng hậu (độc ác), Hoàng thượng (lăng nhăng), Phi tần (hiền từ), Hoàng thái hậu (ba phải), Công chúa (nghịch ngợm), etc… Đó là mô thức truyền thống của Kịch nghệ, vốn đã chuyên sâu như thế, có giỏi đến đâu cũng khó lòng vượt qua. Làm phim hiện đại căn bản là nhiều chiêu trò nhảm nhí để lôi kéo khán giả. Nhưng đại lục làm phim, luôn luôn lồng ghép trong đó nhiều văn hoá cổ, phải là người dụng tâm tinh tế mới nhận ra và thưởng thức được, đôi khi là những chi tiết rất nhỏ, ví dụ như nghệ thuật cắt giấy trang trí cổ truyền TQ trong hình dưới đây.

ban chỉ

班指

Xem phim kiếm hiệp, cổ trang thường thấy một loại nhẫn khá lớn, đeo ở ngón tay cái, thoạt tiên nghĩ đó là một loại trang sức, nhưng thấy có điểm không ổn, vì ngón tay cái làm rất nhiều việc, đeo chiếc nhẫn lớn như thế rất vướng víu. Suy nghĩ và “google” một lúc thì biết đó không phải là chiếc nhẫn, tiếng Trung gọi là: ban chỉ – 扳指. Nguyên thuỷ là dụng cụ để kéo cung, bảo vệ ngón tay khi phải giương những chiếc cung to và nặng, nhất là khi phải bắn nhiều phát liên tục.

Dần dà, với những nhà quyền quý, công cụ này trở thành vật mang tính chất trang sức, biểu tượng, không còn tính thực dụng ban đầu, và được làm bằng những vật liệu quý như vàng, ngọc. Trích đoạn phim: Kỷ Hiểu Lam kiến nghị mắt đã khỏi bệnh, có thể phục chức làm quan, Càn Long chưa muốn KHL trở lại, làm bộ kiểm tra mắt, đưa bàn tay ra hỏi có bao nhiêu ngón (指-chỉ-ngón tay). Dĩ nhiên là câu đố mẹo này lừa được KHL vì CL đếm có 6 ngón (chỉ), kể cả cái “ban chỉ”!

quy khứ lai, 4

爱与恨的边际聚与散的别离
问你为何会在意 直到现在还惦记
归去你还在我依赖身分开心回来
记得这份爱我们明白 这就是爱

每当感觉自己受了伤
不辞而别逃去了远方
躲多久走多远算疗伤
不如回到相爱的地方

没有告别静默的离场
房间冰冷不再有暖阳
多想留住你我的时光
念念不忘等待爱回响





Nhiều khán giả xem phim sẽ nhận định, nhân vật như Ninh Minh căn bản là rất khó có thể có thực. Yêu đơn phương một người suốt 4 năm đại học, âm thầm dõi theo người ấy suốt nhiều năm sau đó, không hề có một lời bày tỏ, không trông mong hồi đáp. Vì với anh ta, tình yêu là một hành động “self – completion”, yêu để tự hoàn thiện mình, yêu tự nó đã là hạnh phúc, không cần phải có một kết cục rõ ràng nào. Nhưng tôi biết Ninh Minh là hoàn toàn có thật, trong số những người bạn của tôi, cũng đã có những mối tình câm lặng suốt 4 năm đại học, rồi lại tiếp tục đau khổ, trăn trở cả chục năm tiếp theo. Mậu Doanh, Ninh Minh làm tôi sống lại những năm tháng tuổi trẻ của mình, vì chính tôi cũng đã từng như thế!

念念不忘 - Niệm niệm bất vong 

Tiêu Thanh, người cùng học tại Đại học Stanford với các nhân vật nêu trên, có xuất thân gia đình cũng không mấy khá giả. Bố Tiêu Thanh là một công tố viên liêm chính, luôn nói không với những món tiền hối lộ, hoàn cảnh bắt buộc Tiêu Thanh phải làm rất nhiều việc để tự kiếm tiền trang trải cuộc sống. Đã có rất nhiều tai nạn cũng như hiểu lầm xảy ra, cũng như khoảng cách giàu nghèo làm cho tình bạn giữa Tiêu Thanh, Mậu Danh và Thư Triệt phát triển rất chậm chạp. Tuy vậy, qua nhiều ngã rẽ khó khăn của cuộc sống, họ dần nhận ra giá trị trong nhau và phát triển những tình bạn bền vững. Tiêu Thanh mơ mộng về một tình cảm với Thư Triệt những không dám thổ lộ, vì vẫn còn đó tình bạn với Mậu Doanh.

Một cá tính có phần nguyên tắc thường thấy ở những người học luật, Tiêu Thanh không muốn phải sứt mẻ tình cảm dành cho cả hai người, mãi cho đến khi những biến động của cuộc sống tách Mậu Doanh và Thư Triệt rời xa nhau và đưa Mậu Doanh lại gần Ninh Minh và đưa Tiêu Thanh lại gần tình yêu của mình. Thư Triệt nhận Tiêu Thanh vào làm cố vấn pháp lý cho công ty của mình, công việc giúp họ có cơ hội hiểu nhau hơn, hiểu những toan tính ngấm ngầm của 2 ông bố Thư Vọng và Thành Vĩ. Ninh Minh sống một cuộc sống trôi nổi vô định, cho đến khi số phận trớ trêu xui khiến anh quen biết Thành Nhiên, em trai của Mậu Doanh. Phải mất rất lâu, Thành Nhiên mới biết được vì sao Ninh Minh lang thang ở Mỹ.

Nhưng những oái ăm của cuộc sống chưa dừng lại ở đó. Tiêu Thanh lại nhận một công việc trong một công ty luật phụ trách điều tra tham nhũng cho chính phủ Mỹ, và qua đó, biết rất rõ từng chi tiết điều tra nhắm vào hai gia đình Mậu Doanh và Thư Triệt. Lại thêm rất nhiều mâu thuẫn, dằn xé giữa tình bạn, tình yêu và lương tâm, đạo đức nghề nghiệp, Tiêu Thanh không thể tiết lộ bất kỳ bí mật điều tra nào cho cả hai người, cô ấy cảm thấy mình phải sống một cuộc sống “hai mặt”. Qua nhiều chuyện sóng gió, cuối cùng Ninh Minh nhận được học bổng cho phép anh theo học cao học ở Mỹ, và do đó có thể tiếp tục ở bên cạnh tình yêu của đời mình là Mậu Doanh, người sau nhiều đau khổ, đã đón nhận anh!

Một cộng đồng bạn bè Trung Quốc sống chung một thành phố, luôn có rất nhiều mâu thuẫn chồng chéo trong tình bạn, tình yêu, nhưng bằng một cách nào đó, họ vẫn tìm cách ở bên nhau, giúp đỡ tương trợ lẫn nhau những khi cần thiết. Cha của Tiêu Thanh là công tố viên điều tra tham nhũng, phụ trách vụ án của Thư Vọng và Thành Vĩ. Ông phát hiện ra một điều, Lưu Thái Kỳ là “bồ nhí” của Thư Vọng, do mang thai với vị thị trưởng này, nên được thu xếp để sinh sống ở Mỹ nhằm dấu nhẹm sự việc. Nếu tin tức một quan chức có con ngoài giá thú lộ ra ngoài thì sự nghiệp chính trị của ông ta xem như chấm dứt. Sự việc lại tiếp tục phát triển khi Lưu Thái Kỳ muốn tố cáo mối quan hệ bất chính của Thư Vọng.

Ông chủ Thành Vĩ như thường lệ, lại nhận chỉ thị từ Thư Vọng, lại giở các thủ đoạn hắc ám để giết người diệt khẩu. Lưu Thái Kỳ chết, nhưng kịp để lại những bằng chứng tố cáo liên minh ma quỷ Thư Vọng – Thành Vĩ. Đỉnh điểm của sự đau khổ đến khi Tiêu Thanh, dưới áp lực của cha mình, phải ra toà làm chứng trong hai vụ án: một là vụ Thư Vọng nhận hối lộ từ Thành Vĩ, và một nữa là vụ Thành Vĩ nhận lệnh giết người diệt khẩu từ Thư Vọng. Điều mà Thư Triệt lo sợ cuối cùng cũng đã tới, khi áp – phe chính trị – kinh doanh Thư Vọng và Thành Vĩ cuối cùng cũng phải đã đối diện pháp luật, và cả hai người đều phải nhận bản án chung thân, một cái kết rất đắng cay cho cả hai gia đình Thư Vọng và Thành Vĩ.

quy khứ lai, 3

爱与恨的边际聚与散的别离
问你为何会在意 直到现在还惦记
归去你还在我依赖身分开心回来
记得这份爱我们明白 这就是爱

每当感觉自己受了伤
不辞而别逃去了远方
躲多久走多远算疗伤
不如回到相爱的地方

没有告别静默的离场
房间冰冷不再有暖阳
多想留住你我的时光
念念不忘等待爱回响





Quan hệ giữa hai nhà không chỉ là lợi ích mà còn là tình yêu của hai đứa trẻ. Một lúc nào đó, cả hai nhà đều chân thành mong muốn tác thành cho tình yêu đó, nhưng rồi nhận ra một đám cưới công khai có thể “tố cáo” mối quan hệ ngầm giữa hai bên, và ảnh hưởng đến con đường thăng tiến chính trị của Thư Vọng cũng như việc kinh doanh của Thành Vĩ. Họ tìm đến một giải pháp trì hoãn, không tổ chức đám cưới cho đến khi dự án xe điện ngầm thành công. Mậu Doanh và Thư Triệt ban đầu không thể hiểu được căn nguyên mọi việc, không thể hiểu tại sao cả hai nhà đều phản đối tổ chức đám cưới. Cả hai đều chưa hiểu hết những liên hệ ngầm giữa hai bên, giữa giới chính trị và kinh doanh Trung Quốc.

念念不忘 - Niệm niệm bất vong 

Mậu Doanh là một cô gái rất thông minh, nhận định vấn đề nhanh nhạy và chính xác, cô ấy nhanh chóng nhận ra một điều: trực tiếp là bố mình – Thành Vĩ, và gián tiếp là “bố chồng” – Thư Vọng chỉ đạo, dàn xếp mọi việc. Tuy thông minh, nhưng cô ấy không phải là một mẫu người theo đuổi giá trị cá nhân, nên dễ dàng chấp nhận cái cách mà hệ thống kinh doanh, chính trị Trung Quốc đã và đang vận hành. Tình yêu của cô ấy là một tình cảm không cần quá nhiều lý trí, có thể thoả hiệp để cho mọi việc được yên ổn. Ngược lại, Thư Triệt lại là một người cực kỳ tôn trọng các giá trị cá nhân, các nguyên tắc lý trí cũng như pháp luật, một lúc nào đó, phim cũng thể hiện anh ta có cái tôi lớn giống như bố của mình.

Đây là một điểm quan trọng mà người xem phim như tôi sẽ rất chú ý quan sát! Việc xây dựng các nguyên tắc và giá trị cá nhân của Thư Triệt, dĩ nhiên phản ánh “cái tôi” của anh ấy, nhưng phải vượt lên được chính “cái tôi” ấy thì anh ta mới có thể trở nên khác biệt với người cha của mình, và mới thực sự biến các giá trị ấy thành lý tưởng sống phổ quát. Bằng không thì cũng giống như cha mình, đó chỉ là một cách nguỵ biện vụng về cho cái ích kỷ cá nhân mà thôi. Dần dà, Thư Triệt, đúng như mong đợi, quay lưng lại với các lề thói xấu rất “Trung Quốc”, anh ta trả lại tiền mà người “bố vợ tương lai” đầu tư, hay nói chính xác hơn là “hối lộ” một cách khéo léo, anh ta muốn kinh doanh bằng thực lực của mình.

Tình cảm giữa Mậu Doanh và Thư Triệt, trong suy nghĩ của nhiều người xem phim, là vẫn còn có thể dàn xếp. Nhưng một hệ thống cộng sinh chính trị – kinh doanh đã vận hành hàng chục năm ở Trung Quốc không thể thay đổi một sớm một chiều, lề thói, cách suy nghĩ của những con người ấy không thể thay đổi. Hai đứa trẻ bị kẹp giữa hai thái cực, hai phương châm sống khác nhau. Mậu Doanh có thể thoả hiệp một chút, nhưng Thư Triệt kiên quyết đi theo con đường kinh doanh minh bạch theo đúng pháp luật, theo đúng tinh thần “pháp trị” mà anh ta đang theo học tại khoa Luật, Đại học Stanford. Anh ta ly khai, cắt quan hệ với người cha của mình, tự mình sống không cần sự hỗ trợ và giám sát của gia đình.

Nếu Thư Triệt chỉ bị kẹp giữa một gọng kìm là hai phương châm sống khác nhau, Mỹ & Trung Quốc, thì Mậu Doanh, đau khổ hơn, còn bị kẹp thêm bởi một gọng kìm nữa, đó là hai người đàn ông: bố mình và người yêu. Thành Vĩ yêu thương con gái, nhưng ông không muốn làm điều gì có hại cho việc kinh doanh của tập đoàn mà con gái ông là người thừa kế, ông cũng không thể làm gì khác nếu các “sếp” trong bóng tối như Thư Vọng đã có “ý kiến chỉ đạo”. Còn Thư Triệt, mối mâu thuẫn rất sâu sắc với cha mình đã biến thành một cuộc chiến “ý thức hệ”, vì trong suy nghĩ của anh ta (thực sự anh ta nghĩ đúng), những con người như thế, những nguyên tắc đạo đức như thế (hai người bố) sẽ có một kết cục tất định.

Ngày tổ chức đám cưới, chưa phải là đám cưới chính thức, chỉ đăng ký ở Toà thị chính, cô dâu Mậu Doanh, vì những áp lực ngấm ngầm, bí mật của hai gia đình, đã bỏ đi phút cuối cùng. Mậu Doanh bỏ đi lang thang trong đau khổ và tuyệt vọng. Nhưng vì là một “công chúa”, chuyện cổ tích luôn xảy đến, cô ấy luôn có một “quý nhân” đi theo phù trợ, không ai khác chính là Ninh Minh, mối tình không thổ lộ từ thời ở Đại học Thanh Hoa. Được tin Mậu Doanh làm đám cưới, Ninh Minh bí mật đến Mỹ, như lời anh ta, là để chứng kiến đám cưới ấy bằng chính mắt mình, “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”, anh ta chỉ muốn chính thức đóng chiếc đinh cuối cùng lên chiếc quan tài là mối tình đơn phương của chính mình!

quy khứ lai, 2

爱与恨的边际聚与散的别离
问你为何会在意 直到现在还惦记
归去你还在我依赖身分开心回来
记得这份爱我们明白 这就是爱

每当感觉自己受了伤
不辞而别逃去了远方
躲多久走多远算疗伤
不如回到相爱的地方

没有告别静默的离场
房间冰冷不再有暖阳
多想留住你我的时光
念念不忘等待爱回响





Nhưng cũng phải nói là phim có một kịch bản rất tốt, phản ánh được sự khác biệt của văn hoá, xã hội Á Đông và phương Tây, những tình tiết câu chuyện xảy ra trong phim cũng phản ánh khá trung thực bản chất, thực tế xã hội Trung Quốc. Dĩ nhiên cách thể hiện tình cảm yêu đương giữa các nhân vật cũng phải “sướt mướt”, “lãng mạn đến mức lãng xẹt” một tí, cốt để thu hút đông đảo khán giả xem phim. Nhưng căn bản, phim tôn trọng thế giới hiện thực của các thành phần tham gia: những du học sinh đến từ mọi miền của Trung Quốc, thuộc đủ các tầng lớp, xuất thân, có những người sinh ra đã là “hoàng tử, công chúa”, cũng có những người phải chật vật làm thêm để tự chu cấp cho việc học hành của mình.

念念不忘 - Niệm niệm bất vong 

Thư Triệt, con trai của Thư Vọng, một phó thị trưởng, một quan chức đang trên đà thăng tiến và nắm giữ quyền lực chính trị lớn. Anh được gởi đi Mỹ học đại học, rồi tiếp tục cao học. Mậu Doanh, như đã nói, là con gái của Thành Vĩ, ông chủ của một tập đoàn kinh doanh đang tham gia đấu thầu xây dựng hệ thống xe điện ngầm, và dĩ nhiên có mối liên hệ bí mật và mật thiết với quan chức chính trị chống lưng cho mình là Thư Vọng. Tình yêu của hai người, Thư Triệt và Mậu Doanh có thể xem là “thanh mai trúc mã”, họ quen biết và yêu nhau từ sớm, những năm nàng lớp 7, chàng lớp 9, hai gia đình cũng có thể xem là môn đăng hộ đối, và tưởng chừng như chẳng có gì có thể ngăn cản, phá vỡ tình yêu đó.

Thoạt tiên, cả hai gia đình đều ủng hộ cuộc hôn nhân giữa hai đứa trẻ này. Thành Vĩ là một ông bố rất yêu thương con gái, nhưng ông có phần không hiểu được những người con của mình. Ông là một mẫu điển hình cho các ông chủ kinh doanh Đại lục, thành công và giàu có, rất khôn ngoan, lão luyện trên thương trường, rất nhẫn nại, kiên trì để đạt được mục đích, sẵn sàng sử dụng các biện pháp hắc ám khi cần thiết! Thành Vĩ thừa hiểu các giá trị Mỹ và cách mà hệ thống pháp luật ở đây vận hành, nhưng ông cũng thường xuyên dùng đến các thủ đoạn rất chi Trung Quốc: vận động ngầm, mua chuộc, hối lộ, đe doạ, và khi không còn cách nào khác, cũng sẵn sàng sử dụng đến các biện pháp xã hội đen.

Thư Vọng là một chính trị gia cứng nhắc, với một tính cách cực kỳ gia trưởng. Ông tìm cách áp đặt mọi thứ lên người con trai Thư Triệt của mình, tin rằng tất cả những điều mình làm là để nâng đỡ, bảo vệ con. Dĩ nhiên cha mẹ nào cũng mong muốn nâng đỡ con cái, cho nó một xuất phát điểm tốt hơn trong xã hội. Nhưng phim cũng không ngần ngại thể hiện rõ ràng một điều rằng, tất cả những gì ông ta làm cũng chỉ thể hiện cái tôi quá lớn của ông ấy, muốn bao trùm, kiểm soát tất cả, muốn thể hiện uy quyền của mình. Thư Triệt du học ở Mỹ từ rất sớm, anh ta “thẩm thấu” các giá trị Mỹ, anh ta mâu thuẫn sâu sắc với cha mình, ban đầu chỉ là vì cảm giác khó chịu khi bị kiểm tra, áp đặt dưới nhiều hình thức.

Nhưng dần dà mâu thuẫn đó trở nên lớn hơn thế, trở thành sự khác biệt giá trị sống, khác biệt suy nghĩ và hành động. Thư Vọng và Thành Vĩ đại diện cho một hệ thống xã hội như nó đã và đang vận hành ở Trung Quốc, một hệ thống dựa rất nhiều vào quan hệ cá nhân, các phương pháp không minh bạch, và nhiều thủ đoạn hắc ám khác! Thư Triệt lại hoàn toàn trái ngược, anh ta thấu hiểu và áp dụng các giá trị Mỹ, những nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Đến một lúc, người xem phim chợt nhận ra ông bố Thư Vọng là một cá tính hoàn toàn không thể thay đổi, một kiểu bệnh mãn tính, bất di bất dịch, một cái tôi quá lớn, lớn đến mức mù quáng, dĩ nhiên là luôn nhân danh “tình yêu” và những điều “tốt đẹp” khác.

Là những thành phần cộng sinh trong cùng một hệ thống, Thành Vĩ cũng chia sẻ những lề lối giống như chính trị gia Thư Vọng. Nhưng là một doanh nhân, ông ta mềm mỏng, khéo léo hơn. Để nhận được quyền xây dựng hệ thống xe điện ngầm, Thành Vĩ khéo léo hối lộ người cha Thư Vọng bằng cách “đầu tư” những món tiền hậu hĩ vào công ty riêng của người con Thư Triệt tại Mỹ. Thư Triệt ban đầu rất ngạc nhiên vì công ty của mình lại nhận được những hợp đồng béo bở một cách quá dễ dàng, nhưng nhanh chóng nhận ra, đó là những “món quà” của “ông bố vợ tương lai”, người nhận chỉ thị từ Thư Vọng, ông trùm đứng trong bóng tối chỉ đạo mọi việc, kể cả việc thông qua Thành Vĩ để giám sát con mình.

quy khứ lai, 1

爱与恨的边际聚与散的别离
问你为何会在意 直到现在还惦记
归去你还在我依赖身分开心回来
记得这份爱我们明白 这就是爱

每当感觉自己受了伤
不辞而别逃去了远方
躲多久走多远算疗伤
不如回到相爱的地方

没有告别静默的离场
房间冰冷不再有暖阳
多想留住你我的时光
念念不忘等待爱回响





Mới nghe tựa đề (tiếng Trung) của phim là đã biết được mượn trong bài “Quy khứ lai từ” của Đào Tiềm đời Đông Tấn: 歸去來兮,田園將蕪,胡不歸! 既自以心為形役,奚惆悵而獨悲? – Quy khứ lai hề, điền viên tương vu, hồ bất quy! Ký tự dĩ tâm vi hình dịch, hề trù trướng nhi độc bi? – Về đi nào, về đi nào! Ruộng vườn bỏ rậm làm sao không về? Tâm để thân dễ bề sai khiến, Sao lại còn quyến luyến thương đau? Phải nói rằng tôi rất ít khi xem phim truyền hình, cảm thấy đa phần đều quá dài dòng và nhàm chán, lại càng không thích các thể loại có xu hướng “ngôn tình” và “đam mỹ”, viển vông không thực. Nhưng Quy khứ lai này là ngoại lệ, nó đề cập đến cuộc sống đầy thực tế, và đồng thời cũng rất thơ mộng!

念念不忘 - Niệm niệm bất vong 

Cái tựa đề tiếng Anh của phim “The way we were” có vẻ như lại phản ánh tốt hơn nội dung phim, trong cái nhìn của các du học sinh, về những khác biệt văn hoá của người Trung Quốc và người Mỹ, giữa Đông và Tây, cách mọi người hành xử, cách các hệ thống tổ chức, xã hội khác nhau vận hành, tất cả đều được biểu hiện rất rõ qua các tập phim. Dĩ nhiên phải xem qua vài tập đầu trong số 50 tập mới bắt đầu hiểu rõ, câu chuyện chủ yếu xoay quanh một nhóm các thanh niên trẻ tuổi du học ở Mỹ, và cái tâm sự “quy khứ lai – về hay ở lại” sẽ theo họ suốt một thời gian dài, từ những năm đi học đến khi ra trường, đi làm, cho tới khi bắt đầu định cư, lập nghiệp, cái câu hỏi “về hay ở lại” sẽ vẫn còn trở đi trở lại.

Nhưng đó vẫn là những điều chưa tới, đầu phim lấy bối cảnh tại Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, hai nhân vật Ninh Minh và Mậu Doanh học chung một lớp, những giây phút của tình yêu tuổi trẻ, lãng mạn đầy nhiệt huyết. Một tình yêu đơn phương của chàng trai nhà nghèo Ninh Minh với cô gái cực kỳ xinh đẹp Mậu Doanh, một tiểu thư con nhà “đại tư sản”, người thừa kế của một tập đoàn kinh doanh lớn. Với cô ấy, hiển nhiên cuộc sống phía trước dường như đã được trải sẵn thảm đỏ, với tất cả những điều tốt đẹp nhất đang chờ đợi. Cô gái đã có bạn trai, một “người yêu lý tưởng”, Thư Triệt, đang theo học ở Mỹ, mặc cho một hàng dài những người theo đuổi cuồng nhiệt trong thời gian tại Thanh Hoa.

Còn chàng trai, có vẻ như chỉ là một người rất bình thường, con một nhà lao động nghèo, tiền đồ hãy còn rất mờ mịt. Sự tự ti về điều kiện xuất thân, về địa vị xã hội của Ninh Minh sẽ còn đi theo anh ta suốt nhiều năm dài, khiến cho anh ta thường xuyên cảm thấy mình không xứng đáng, mình không đủ khả năng đem lại hạnh phúc cho cô gái, và do đó chưa bao giờ dám thổ lộ tình cảm của mình. Một tình yêu câm lặng kéo dài suốt 4 năm Đại học sẽ có thể thừa đủ để làm nội dung cho một phim khác, nhưng với phim này, đó chỉ mới là màn khởi đầu. Một khởi đầu ngắn ngủi, một ký ức rất đẹp nhưng cũng chỉ thoáng qua, cũng như chặng đường cuộc sống đầy chông gai, sóng gió hãy còn rất dài ở phía trước!

Xem tập đầu phim, tôi như thấy lại những tháng năm tuổi trẻ của mình, thấy lại những người bạn của chính mình trong đó! Tuổi trẻ của tôi có đầy đủ tất cả những điều đó, những mối tình thầm lặng kéo dài suốt 4 năm đại học, những theo đuổi điên cuồng sẽ còn tiếp tục suốt mười năm tiếp theo, cho đến những năm khoảng trước sau 30 tuổi. Những tình cảm không tên, không thổ lộ, cũng dự đoán là không có một kết cục tốt đẹp rõ ràng nào, những điều mà trong tâm hồn của những thanh niên, thanh nữ chưa đầy 20 tuổi đó, chỉ là những điều tự nó sinh ra, tự nó tồn tại, một tình yêu không cần sự hồi đáp, những trăn trở, khát vọng chúng ta có chỉ để khiến chúng ta trở nên trưởng thành hơn, hoàn thiện hơn.

Nhưng trước hết, cần phải “phê bình” phim một tí. Đầu tiên là tôi không thích những phim truyền hình quá dài, và cách làm phim cũng khá “công nghiệp”. Có vẻ như các tập phim được phân chia cho nhiều đạo diễn khác nhau, mỗi người làm một đoạn, khiến cho việc xây dựng hình tượng, cá tính nhân vật đôi khi có phần thiếu nhất quán. Thứ đến nữa là những kiểu tuyên truyền chính trị, văn hoá “đại Trung Hoa” cũng có, dù không nhiều lắm. Đáng chán nhất vẫn là phim kéo dài lê thê, rất nhiều đoạn chi li quá mức cần thiết, rất dể gây nhàm ra chán. Cách xây dựng cá tính nhân vật, lời thoại trong phim đôi khi có phần “công thức”, nhưng đôi khi cũng rất thông minh, sâu sắc, gây bất ngờ cho người xem!

lồng tiếng

Từ nhỏ đã “lập thệ”: cả đời không coi phim Hong Kong, Đài Loan, không coi “phim chưởng”. Nhưng cái “Anh hùng xạ điêu – 2003” này là do CCTV Bắc Kinh làm, không phải Hong Kong. Lời thoại kỹ càng, sâu sắc, tính cách nhân vật xây dựng công phu, đặc sắc, nhất là các vai Hoàng Dung và Hồng Thất Công, không có bừa bãi, hời hợt như kiểu phim Hong Kong.

Không nên xem phim lồng tiếng, nên xem phụ đề, vốn dĩ đám người Việt gốc Hoa thường lồng tiếng cho “phim chưởng” đó thực ra chẳng hiểu mấy về văn hoá Trung Quốc, “cổ văn” đọc ko thông, dịch 10 sai đến 8, 9 phần, lao nhao như 1 đám “chợ búa”, mất cả hứng thú, chẳng ích lợi gì! Xét về ngôn ngữ, văn hoá, phương Bắc vẫn luôn cao hơn phương Nam 1 bậc vậy!

the blue lagoon

The 80s again, another film that I’d seen when I was a young boy, and liked it very much: The Blue Lagoon. Broadcasted on Vietnamese (analog) TV under the title: Eo biển xanh, the film was a strange phenomena, in an extremely closed and strictly censored environment as Vietnam as of the 80s. It’s the 1980 adaptation from the book of the same name, there’re many other adaptations as well: 1923, 1949, 1991, 2012…

The Victorian era, two children shipwrecked alone on a tropical island. They thrive on the bounty of jungle and lagoon, the boy grows tall, the girl beautiful. When their love happens, it is as natural as the sea, and as powerful. Despite its extreme nudity, negative reviews, quite low rating etc… (which I only know by now), back then, I simply did (and still do) just love it! To know why, see the movie screenshots below!

all the rivers run

Anyone still remember this famous Australian television series (1983) ?! I can’t remember exactly when, but the series was broadcasted on Vietnam TV some time in the late 80s, under the title: Tất cả những dòng sông đều chảy. It created deep impressions in me, even though many years have passed, and now, I can’t really remember all film’s details, but the silhouette of the paddle steamer Philadelphia, the protagonist Philadelphia Gordon (Sigrid Thornton), after whom the boat is named, and captain Brenton Edwards (John Waters), their struggles for life and happiness… raised in me lots of inspirations about life on rivers (and life as rivers), with all its ups and downs, all its hardship and poetic moments. Look at the pictures below, how lovely is the couple at helm!

For today, I really like it after the rains, the water is so calm and warm, a curtain of light mist hangs across river and over mangrove swamp regions. Almost silence, only me, sound of the paddle and water drops. Some few times, ships’ horn breaks the “viscosity” of this vast, obscured space, reminds me that I’m not alone still in this all – calmly – moving world… A harvest along my paddling path, a cluster of fruits from the mangrove palm tree. Why do I have to buy it in the city while I can get one for free in wide wild nature!? Choose a ripe one, take some effort to cut it down while standing on my small floating kayak, carry home, crack open the fruits in halves, take the inside, add some little sugar and put into the fridge for an about hour, a good dessert indeed!

russian movies

Some recently seen (in the past few weeks) post – Soviet Russian war movies: Admiral (2008), Attack on Leningrad (2009) and Brest Fortress (2010). I can’t say anything rather than: marvelous! Both these three films should be on top of greatest war films, in many aspects: acting, costume and makeup, sound & music… comparable to any other war films ever made in the West. CGI (Computer Generated Imagery) is really good but maybe still a bit after that of Hollywood.

Russian cinema has made excellent advances, less propagandic, less rigid patterns, closer to real people in real life… that the things that made the films worth watching! In my opinion, of the series of three, the later the more interesting ones (though others may have their own different idea and evaluation).

Admiral (2008)

The films recites the life of Aleksandr Kolchak, admiral of the Russian Empire Navy. Kolchak himself was a complex character, living in a complex time: a famed Polar explorer, a valorous naval commander, a passionate lover, and eventually the Supreme Governor of the anti – communist White forces. No longer ruled by a dictatorial doctrine, Russia is now seeking to bring back true images of an extremely harsh period in her history.

The film starts with glorious feats of Kolchak commanding a destroyer in the Navy, his bravery in battles, his love affair with Anna Timiryova… and then the Red October came. Kolchak becomes the Supreme Ruler of the White Russia, who fought against the Bolshevik. Kolchak has far less success as a political leader than as a naval commander, he was finally arrested and executed by the Red. After decades of being vilified by the Soviet government, Kolchak is still now a controversial figure though there’re been rehabilitation movements to restore the place he deserves in Russian history.



Attack on Leningrad (2009)

An English journalist (of Russian origin) was trapped in the besieged city of Leningrad, the war correspondent Kate Davis was assumed dead but find herself among the starving people of the city struggling for their own survival. With the help of a kind and idealistic police women Nina Tsvetnova, they live through the 900 days in that sieged hell where food shortage only permits a ration of 125 gram of bread for each person a day. Encirclement around the city was almost completed, the only supply route through lake Ladoga was called the Road of Life (and also the Road of Death).

Nina Tsvetnova later guides a soldier group attempting to re – establish the supply route across the frozen surface of the lake. As a reward, she is permitted to bring members of her family out of the city. Nina along with the journalist take one child out with them. They succeeded but decide to return to help another child. Both two women died in the terrible city but saved two children out of the 1.5 million civil death toll, half of the city’s population.



Brest Fortress (2010)

Brest fortress was the strong hold which accounts for 5% of total Germany losses in the first phase of their Russia invasion. When German started the war, the Russian was unprepared, under – powered and defeated easily, their army was in all the way to retreat, except for this fortress. Defensed by a small unit, a regiment formation of soldiers along with their families, the fortress stands for almost a month when German has already advanced hundreds of miles into Soviet territory, leaving the point an isolated symbolically heroic fortification.

Yet they fight to the last man without any food, medical and ammunition supply, without any reinforcement. Alexander Akimov, a 15 year old young cadet of the fortress lived through the bloodshed resistance, trying to help other soldiers and his girlfriend Anya. He is the lone survivor to recall the story. The film is indeed beautiful: it concentrates on normal people, their daily lives and activities, their love, hate and humanly feelings… their choices and fates against the brutalities of war!



12 angry men




One of the films I’ve really enjoyed recently, having some free times during the new year holiday to “re – master” some classics. Yes, it is truly a classical master – piece! Off 95 minutes of the picture, almost 90 min is spent in just a single room, with 12 men discussing, arguing, debating… There’s not even a single frame for flashbacks, visualizations or imagined scenes or such things, a 2 – hour continuous hard talk between 12 jurors of a trial’s jury, to decide in a murder case whether a boy is guilty or not.

Although some scenarios in the film are quite predictable, and some details are somewhat illogical (those that could hardly occur in real world), the fascinating part of the film is about the diversity of the jury board: 12 men from different backgrounds, ages, professions… different personalities, their logic systems, their value scales… and their prejudices. Some just doesn’t care, some is more or less “a yes man”, flipping sides at any times, some just want to kill the boy cause he grew up in slum, and slum is where crime was born…

Only one man has the braveness that leads him (and later the whole board) to the truth! The film gets to the core of the American juridical system, and helps explaining why the country has a strong democracy: democratic is built upon the votes (decision making) of a mass, it’s the quality, the responsibility of the mass that decide outcomes. The film also helps explaining why in some countries, dictatorship is the only thing that’s possible. That is, eventually, people get the ruling system, the kind of government they’ve wanted!

the sorrow of war… film?

“Better to die than surrender, my brothers! Better to die!” – the battalion commander yelled insanely; waving his pistol, and in front of Kien, he blew his own brains out through his ear. (The Sorrow of War)

An un-put-down-able novel. It should win the Pulitzer prize, but it won’t. It’s too gripping for that. (The Guardian)

Dramatic… Will force American readers to acknowledge how little they still understand of the long war that left such a legacy of grief and guilt in their own country. (The Washington Post)

The Sorrow of War has won worldwide acclaim and become an international best-seller. (Amazon.com)

A good news: 8th, May, 2008, The Sorrow of War novel will be turned into movie by an American director: Nicolas Simon. After 10 years of discussion and negotiation, Bảo Ninh, the novel’s author finally permitted making of the film based on his famous book. The producer, Dominic Scriven, a very passionate admirer and friend of the author, who now holds the book copyright and want to transfer it onto the silver screen. An even better news: 9th, Aug, 2008, author of The Sorrow of War novel stated that he wouldn’t have any further connection with the The Sorrow of War movie project.

The reason given is: film’s script is not aligned with the author’s ideas. In fact, many people is doubtful that an unnamed director would be capable of working on such a great novel, although the producer (Dominic Scriven) ‘s goodwill is widely recognized! The movie project is now paused, in searching for another director! That’s a very good thing in my opinion, in the fear that we would have another history distortion (or even worse)! A picture is worth a thousand words? That’s not always true, think twice (or read the book)! In this case, words are worth thousands of pictures (or a movie)!

The novel is, more or less, an semi – autobiography. Bảo Ninh himself (or the protagonist Kiên in the novel) was a soldier in the 24th battalion, a special formation commissioned to the B3 front (central highland) in 1969. Of the unit’s 500 man, he is among the only 10 survivors. The story is an nonlinear scatter of memories, mixed the past with the moments of post-war time: childhood, a high school’s love story, the battles, and importantly lives after war.

The Sorrow of War is without doubt timeless. Perhaps it is one of the world’s greatest war novels ever written. Imagine the film Apocalypse Now and increase its effect, say by a factor of a thousand – this is the power of Bảo Ninh’s writing. I remember shivers in my spine when first reading the book, some 15 years ago! Just surf around some online bookstores, to see what readers have said about the book:

  • If this book doesn’t make you cry, you have no soul.

  • It’s definitely not a book for everyone, and I nearly put it down during the first 50-60 pages. But, I soon became wrapped up in the story and the language.

  • Books usually lay with me on my bed and after their formal end we sleep together for a few days but after the last sentence I promptly put this right back on my shelf and am having trouble thinking about it again. I had horrible nightmares during the read.

  • This book is amazing. The story progresses thematically rather than chronologically, and leaves you piecing together historical non-fictional events… He succeeds in taking the reader on a difficult journey of emotional and spiritual crisis, right to the core of the human condition and captures a sorrowful despair like no other literature I’ve ever read.

  • Like pouring acid on your moral center…

  • Just an excellent novel. To everybody who considers The Things They Carried the penultimate work of fiction about the Vietnam War: pick up The Sorrow of War and be prepared to be blown away by the stories of a Vietnamese.

  • In fact, my view of just about everything I thought I knew about North Vietnam from the mid-60’s to the mid-70’s was altered by this book.

  • This book is unbelievably emotional. The style of writing is unique: it is not linear or chronological in any way. It is chaotic, a reflection on the subject of the book. The writing style, though chaotic, seems to be a perfected style. The book was written with total disregard to order; there is no doubt that all was deliberate.

the battle of iadrang

To make war all you need is intelligence.
But to win you need talent and material.

For whom the bell tolls – E. Hemingway

Col.Gen. Harold Moore and Col.Gen. Nguyễn Hữu An returned to the old battlefield, Oct, 1993, exchanging their diaries, maps, operational notes, memories and friendship.

The IaDrang Campaign was to the Vietnam War what the terrible Spanish Civil War of the 1930’s was to World War II – a dress rehearsal. The place where new tactics, techniques and weapons were tested, perfected and validated. In the IaDrang, both sides claimed victory and both sides drew lessons, some of them dangerously deceptive, which echoed and resonated throughout the decade of bloody fighting and bitter sacrifice that was to come.

While those who have never known war may fail to see the logic, this story also stands as tribute to the hundreds of young men of the 320th, 33rd and 66th regiments of the Peoples Army of Vietnam who died by our hand in that place. They, too, fought and died bravely. They were a worthy enemy.

Wild flowers now grow in those places of violent death. The IaDrang from PleiMe west is uninhabited except for a few montagnards who are/have been driven out to the east near PleiKu. The Ia Drang/Chu Pong area is now known as The forest of Screaming Souls and remains mysterious and beautiful.

Hoa dại giờ mọc đầy trên mảnh đất từng đầy rẫy chết chóc. Vùng IaDrang đến giờ vẫn không có ai cư trú, ngoại trừ một vài sắc dân miền núi đang được di dân về hướng đông gần PleiKu. IaDrang, ChưPrông nay được biết đến với cái tên Truông Gọi Hồn, vẫn nguyên vẹn huyền bí và đẹp đẽ như tự ngàn xưa.

Mar, 1965, the first U.S troops arrived in Vietnam (Danang). 8 months later, their first major engagement with the VPA in a large battle (of regimental, divisional size) took place at the Valley of IaDrang, which is since then known as the Valley of Death. Feb, 1994, President Bill Clinton announced the normalization in relationship with Vietnam. In an action to bootstrap of the process, in 1993, a film was made featuring the old bloodshed battle of IaDrang. Thus, battle of IaDrang marks the begin and end of a long-time painful and bitter relationship between the two nations. Up to the present days, lots of people from both sides still can not get it right about what had really happened then and there. The story below tries to recall the truth.

But first, about the film: We were soldiers is based on We were soldiers once… and young, a book written by Harold Moore himself, as one of the direct commanders in the battle (on the American side). It’s a Randall Wallace‘s film, the famous director of Brave Heart, Pearl Harbor, and now We were soldiers, with Mel Gibson as Lt.Col. Hal Moore, and Đơn Dương as Lt.Col. Nguyễn Hữu An. To my disappointment, the film is no better than any other Hollywood’s films such as Black Hawk Down, solely made to demonstrate American heroism. Exactly as written in Harold Moore’s book: Hollywood got it wrong every damned time, whetting twisted political knives on the bones of our dead brothers.

The film is no exception, it takes many of the small facts of the book onto it, but only to falsely portray the historical events. In fact, the film is a distortion of facts that happened, of peoples involved in the battle, especially the figure of Lt.Col. Nguyễn Hữu An. In a sense, the film has undermined the author Hal Moore’s (and many other American veterans) sincerity and goodwill. Hal Moore is also a man of literature talent, the following line is written upon his revisiting the old battlefield, 1993, accompanied by general An, about the battle and his old enemy (column on the left).

Strictly speaking, Lt.Col. Harold Moore was not the corresponding counterpart of Lt.Col. Nguyễn Hữu An, he was one of the three direct commanders in the battle, a battalion under Thomas W. Brown. Nguyễn Hữu An was then the division commander of the 325th. But history has brought the two man into one battle and a rendezvous aftermath. Battle of IaDrang was actually two main battles in an operation which lasted for one month (between American 1st division and VPA’s 320th, 33rd and 66th regiments). The main confrontations were at the X-Ray and Albany landing zones, between the 1st, 2nd, and 3rd battalions of the 7th cavalry regiment of the U.S army with the 7th, 8th, 9th battalions of the 66th regiment (and one company of the 33th regiment) of the VPA. Hence, in formations’ numbers, the two sides have equal forces.

Contrary to many many sources, Lt.Col. Nguyễn Hữu An did not have any advantages in power comparison, even in number of man. All his infantry battalions are light-armed units, with just some mortars. On the adversary side are air assault and air mobility cavalry units, with superior fire power support. From the air, an average number of 300 sorties per day was made, with all available air units in south Vietnam, and on land, field artillery came in heavy use. So the ratio here is at least 3:1 with the weaker is the Vietnamese side. Some sources give intentionally wrong information like: the landing troop of 400 man was surrounded by 4,000 soldiers, in fact, 4,000 was number in the whole area (not each individual landing zone), in the same way, we can say: two VPA regiments confronted with forces of the 1st division (a typical American division has at least 20,000 personnel).

The battle witnessed extreme uses of fire power: for the first time in history, strategic bombers B52 are used for tactical roles, air mobility by helicopters reached the highest level ever since the start of WWII. The VPA learned that they could neutralize the effectiveness of that fire power by quickly engaging American forces at close range, thus turned the battle into a close-quarter struggles with mainly knife, bayonet and other small arms. A series of well-planed ambushes turned the American situation to desperate. Finally, they know that they can not deny or hide an obvious defeat, then dropped napalm bombs to clear all vestiges, sacrificing all, including man of their own. This is known as one of the most savage battle and can be considered as microcosm of the whole war.

The American casualties is about 700, the Vietnamese is about 1100, a victory to Lt.Col. Nguyễn Hữu An in consideration to forces participated in the confrontation. The battle set up, for the first time, an example in which a modern Calvary division can be defeated (Calvary division was then a new concept of air assault and air mobility units, formed firstly in the Vietnam war). In fact, the battle is blueprint of tactics successfully anticipated by Lt.Col. Nguyễn Hữu An, many interesting details can be found in his memoir (all details, facts, formations, numbers, estimations… in this post can be confirmed by both 2 memoirs from the 2 sides). He is named: the General of Battles for his exceptional talent in tactical problems. The man is among only a few number of generals in Vietnam who truly gained respect from the people, not only for his success in military career but also for his righteous attitude toward history and moral principles he’s practiced in life.

⓵⏎ Hemingway’s words were true in the Spanish civil war, but it’s not true anymore in the Vietnam war. Even with talent and material, you still can not win it.

⓶⏎ The phrase: The forest of Screaming Souls may have been first introduced in the famous Vietnamese novel The sorrow of war by Bảo Ninh. The author (also the main character Kiên in the novel) was also a soldier in this B3 (Central Highland) front.

for whom the bell tolls

Men of five still alive through the raging glow.
Gone insane from the pain that they surely know.

(Metallica)

Excerpts from the 1943 film following Hemingway’s novel. In some aspects, this is a great film, highly symbolic and dramatical, beautiful staging and casting, but still nowhere closed to the book. So read the book here (zipped text file)! It’s said that Hemingway handpicked the actors and actresses himself for the roles, but he greatly disliked the film due to it’s political content removal.

Excerpt 1: The old guerilla man of El Sordo and his last four men make their last stand on a dead-end hilltop. They’re waiting for their fate to come, and the young Joaquin does the praying when the Russian machine gun barrel turns hot on his shoulder as the planes approach: Holy Mary, Mother of God, pray for us sinners now and at the hour of our death, Amen!.

…Dying was nothing and he had no picture of it nor fear of it in his mind. But living was a field of grain blowing in the wind on the side of a hill. Living was a hawk in the sky. Living was an earthen jar of water in the dust of the threshing with the grain flailed out and the chaff blowing. Living was a horse between your legs and a carbine under one leg and a hill and a valley and a stream with trees along it and the far side of the valley and the hills beyond…

Excerpt 2: Robert Jordan, severely wounded on the way retreat after the mission, says farewell to his lover María. He stays behind to cover the enemy for others to safely escape. The scene removes the detail of Agustín asks if Jordan need a shot or he can manage himself once left behind. Counting the last minutes of his life, in such moment, one can hear the bell tolling for his soul!

Lieutenant Berrendo, watching the trail, came riding up, his thin face serious and grave. His submachine gun lay across his saddle in the crook of his left arm. Robert Jordan lay behind the tree, holding onto himself very carefully and delicately to keep his hands steady. He was waiting until the officer reached the sunlit place where the first trees of the pine forest joined the green slope of the meadow. He could feel his heart beating against the pine needle floor of the forest.

Robert Jordan, as illustrated on this Vietnamese translate book cover, using a Lewis gun, or just called a mácquina as in the book.

one day when we were young

Từ đó khi xuân tái hồi,
Cho bùi ngùi thương nhớ tới xa xôi.
Nhớ tới câu thương yêu người,
Một ngày tuổi mới đôi mươi.

Ca khúc thứ 4 trong chuỗi những giai điệu valse chào xuân! Rất nhớ ca khúc này, những năm cấp 2, cấp 3, mỗi lần đi cắm trại, trong tiếng guitar bập bùng, bạn bè lại hát cho nhau nghe. Đến tận bây giờ cảm xúc rộn ràng vẫn còn đọng lại: you told me, you love me, when we were young one day. Lúc ấy cứ ngỡ đây là country music, nhưng bây giờ thì biết rất nhiều bài “popular song” được trích ra từ kho tàng nhạc cổ điển. Như bài này được trích từ vở operetta Der Zigeunerbaron (The Gypsy Baron) của Johann Strauss II. Trích đoạn mang tên Wer uns getraut (tiếng Đức, nghĩa là: Ai thành hôn cho chúng ta).

Wer Uns Getraut - Johann Strauss 
When we were young - Miliza Korjus 
Khúc hát thanh xuân - Hà Thanh 

Bài nhạc trở thành “popular song” qua phim The Great Waltz (1938), bộ phim hư cấu về cuộc đời của chính Johann Strauss. Mời các bạn nghe OST của phim này qua giọng ca của diễn viên / ca sĩ Miliza Korjus. NS Phạm Duy đã đặt lời Việt cho ca khúc (tựa đề mới: Khúc hát thanh xuân), giới thiệu ở đây qua giọng ca ngọt ngào của Hà Thanh. Chúng ta cũng có thể nghe trích đoạn trong vở nhạc kịch (tiếng Đức), nghe rồi mới thấy rằng chính bộ phim The Great Waltz đã trình bầy lại bản nhạc dưới dạng valse như chúng ta biết hiện nay. Những giai điệu đã quá phổ biến và quen thuộc này, lâu lâu nghe lại, vẫn như có thêm chút adrenaline trong huyết quản, nhất là khi gió mùa xuân đang tới.

bang bang

Bang Bang (My baby shot me down) is quite a special song: written by Sonny Bono, performed by Cher (1966), covered by Nancy Sinatra (1967), and has been translated to various languages since then. Younger people would recognize the the music as main soundtrack in the film Kill Bill (2003).

Bang bang - Sheila 
Khi xưa ta bé - Mỹ Tâm 
My baby shot me down - Nancy Sinatra 

I actually did thought it was a French song, until I listened to the gentle My baby shot me down, the original soundtrack is really simple, and moving, compared the glamourous French version.

khát vọng

渴望

悠悠岁月欲说当
年好困惑亦真亦
幻难取舍悲欢离
合都曾经有过这
样执着究竟为什
么漫漫人生路上
下求索心中渴望
真诚的生活谁能
告诉我是对还是
错问询南来北往
的客恩怨忘却留
下真情从头说相
伴人间万家灯火
故事未来共斟酌

Khát vọng: những ai thuộc thế hệ 7x có thể sẽ nhớ phim này, chiếu trên truyền hình VN đầu những năm 90. Không nằm trong số những phim TQ thành công nhất, nhưng 50 tập phim mang lại những tình tiết cảm động của những cảnh đời thời cách mạng văn hoá. Dù ở TQ hay VN, dù ít hay nhiều, chúng ta đã sống qua những tháng ngày như thế, những đày đoạ và thăng trầm, những điên rồ của lịch sử, và những hậu quả dai dẳng của nó… hãy nhớ để đừng bao giờ quên chúng! Cố sự bất đa, uyển như bình thường nhất đoạn ca: chuyện cũ chẳng nhiều, cũng bình thường như một khúc ca… Đã trải qua rồi, phải như thế nào đó mới nói được một lời như thế! Truyền hình VN thực hiện việc thuyết minh đã chuyển ngữ lời nhạc thành một đoản khúc thơ lục bát thật khó quên:

moby dick


Thực sự muốn giới thiệu đến các bạn cuốn sách gối đầu giường của tôi lúc nhỏ, đỉnh cao, cao nhất của văn học hiện thực – lãng mạn Mỹ và của cả văn học Anh ngữ: Moby DickHerman Melville. Truyện đã được dịch sang tiếng Việt dưới tựa đề Cá voi trắng bởi Công BaSơn Mỹ, NXB Mũi Cà Mau, 1987. (Google tất cả các trang web tiếng Việt không kiếm được một soft – copy nào của bản dịch này cả).

Đến đây nhớ lại một chút kỷ niệm thời thơ ấu, năm tôi học lớp 3, lớp 4 gì đó, trong một giờ làm văn ở lớp (hình như đề bài là viết về ước mơ sau này của mình) tôi đã lôi cả con tàu Pequod và thuyền trưởng Ahab vào, báo hại cô giáo không hiểu mô tê gì đã mời bố mẹ lên trao đổi. Chuyện bây giờ nhớ lại vẫn còn thấy buồn cười. Một “thông lệ” luôn luôn gặp phải với các tác phẩm phương Tây được dịch lúc bấy giờ, dù tác phẩm hay hoặc dở, dù bản dịch tốt hay không, trung thành với nguyên tác hay không, mỗi tác phẩm dịch đều có một phần giới thiệu đại loại như thế này:

…Ông kịch liệt phê phán nền văn minh tư bản hiện đại, tố cáo vai trò của bọn giáo sĩ và thực dân đế quốc phương Tây đối với các dân tộc khác trên thế giới… phê phán toàn bộ thế giới phong kiến và chủ nghĩa tư bản đương thời, lên án chế độ chính trị và phong tục tập quán của nhiều nước châu Âu và Mỹ…

Sau này có điều kiện đọc được nguyên tác Anh ngữ, có dịp đối sánh từng đoạn, từng câu văn giữa nguyên tác với bản dịch, tôi mới nhận thấy, dịch giả không kham nổi cái phức tạp của nguyên tác, đã bỏ đi rất nhiều đoạn văn và chi tiết quan trọng. Thực sự dịch một tác phẩm không phải là chuyện dể, như người ta thường nói: Traduire, c’est Trahir (Dịch tức là Phản), nhưng để giữ được cho bản dịch một phong cách lãng mạn, dịch giả đã loại gần hết những chi tiết hiện thực quan trọng, mà trong nguyên tác, hiện thực và lãng mạn hòa quyện vào nhau trong một phong cách vừa trữ tình, vừa khốc liệt.

Nguyên đoạn văn này đã bị lược bỏ trong bản dịch, cũng như khá nhiều đoạn văn khác. Lối hành văn lãng mạn mà trúc trắc, mơ mộng mà đầy tư duy của Melville hẳn đã làm khó dịch giả tiếng Việt không ít, đến độ buộc lòng phải lược bỏ. Ngay như cảm nhận phương Đông thường thấy của chúng ta cũng thế, một cảnh buồn, đẹp thì tự nó buồn đẹp thôi, hà cớ gì đưa metaphysicsmeditation vào đấy!? Nhưng có đọc nguyên bản mới thấy được những nét hay khác lạ, meditation and water are wedded for ever, tôi tạm dịch: sự trầm tư và đại dương mênh mông đã kết nghĩa trăm năm tự bao giờ

Tôi cảm thấy mình hợp hơn với cách hành văn nguyên bản, bản thân tôi không hợp lắm với những kiểu lãng mạn suông, một chút suy tư trúc trắc mang đến cho đoạn văn nhiều dấu ấn cá nhân hơn: Yes, as every one knows, meditation and water are wedded for ever. Nhiều chi tiết quan trọng đánh dấu phong cách hành văn của tác giả cũng đã bị lược bỏ, như đoạn Ishmael (tôi trong truyện) và Queequeg ký giao kèo làm thủy thủ trên tàu Pequod:

– Yes – said I – we have just signed the articles.
– Anything down there about your souls?
– About what?
– Oh, perhaps you hav’n’t got any – he said quickly – No matter though, I know many chaps that hav’n’t got any, good luck to ’em; and they are all the better off for it. A soul’s a sort of a fifth wheel to a wagon.

Đoạn văn quan trọng này cũng bị lược bỏ, nhiều ẩn dụ, điềm báo trước về số mệnh con tàu và thủy thủ đoàn được lồng ghép trong lời thoại, tôi tạm dịch:

“Thế (trong hợp đồng) có khoản nào về linh hồn anh không? Có lẽ anh cũng chẳng có đâu, không sao cả. Tôi thấy nhiều người cũng chẳng có, cầu cho họ được may mắn, và tốt hơn họ nên như thế. Linh hồn ư, cũng như cái bánh xe thứ năm trong một cỗ xe thôi.

Sau khi đọc nguyên tác và so sánh với bản dịch nhiều lần, tôi không còn thấy bản dịch hay như đọc lúc nhỏ nữa. Như sẽ nói kỹ ở phần sau, Moby Dick là một tác phẩm lớn và phức tạp, có tính biểu tượng cao độ, sử dụng nhiều điển tích và ẩn dụ, nhiều chi tiết thực tế sống động bên cạnh rất nhiều hình ảnh tượng trưng, nhiều ngôn ngữ đối thoại đời thường bao hàm nội dung triết lý. Cái lãng mạn của Moby Dick kỳ thực là một cái lãng mạn khắc kỷ, cũng giống như chính tác giả, một tín đồ Quaker sùng đạo, luôn có ý thức về lòng tin, nghĩa vụ cũng như sứ mệnh, cũng giống như chính thuyền trưởng Ahap, vị thuyền trưởng độc đoán, một đời làm thủy thủ chỉ có khoảng 3 năm sống trên bờ, hy sinh cả đời mình, cả con tàu và thủy thủ đoàn cho một mục đích duy nhất.

Ishmael, cái tên bắt nguồn từ một người bị cuộc đời bỏ rơi trong Kinh Thánh, chán nản và tìm đến đại dương để lãng quên nổi buồn, và cũng là người duy nhất còn sống sót để kể lại toàn bộ câu chuyện. Pequod, tên con tàu được lấy theo Pequot, tên một bộ tộc da đỏ Mỹ đã tuyệt diệt, ngụ ý một kết cục tương tự. Thuyền trưởng Ahab, cái tên cũng bắt nguồn từ Kinh Thánh, người suốt đời chỉ có một ám ảnh: giết con cá voi trắng huyền thoại, ông đã hy sinh tất cả, mạng sống của mình, con tàu và thủy thủ đoàn để theo đuổi mục đích đó. Tất cả nhân vật chính trong truyện: Ishmael, Ahab, Elijah, Starbuck, Stub, Flask, Queequeg, Tashtego, Daggoo, Fedallah… đều là những nét cá tính được chọn lọc, không phải dể dàng nhận thấy, nhưng đó là một xã hội thu nhỏ, trong đó tất cả các cá tính đặc trưng dường như đã được sắp đặt sẵn cho một thành công (hay một thảm họa) hoàn hảo.

…Once more. Say you are in the country; in some high land of lakes. Take almost any path you please, and ten to one it carries you down in a dale, and leaves you there by a pool in the stream. There is magic in it. Let the most absent-minded of men be plunged in his deepest reveries stand that man on his legs, set his feet agoing, and he will infallibly lead you to water, if water there be in all that region. Should you ever be athirst in the great American desert, try this experiment, if your caravan happen to be supplied with a metaphysical professor. Yes, as every one knows, meditation and water are wedded for ever…

Moby Dick có cấu trúc chương hồi rõ rệt, dù hành văn và nội dung hiện đại, nhưng bố cục tiểu thuyết dường như nhắc lại một cuốn kinh xưa nào đó. Cuốn sách được chia làm nhiều chương, mỗi chương thường ngắn, và có một đầu đề rất rõ rệt: The Carpet-Bag, The Spouter-Inn, The Sermon, The Ramadan, The Advocate… Mỗi chương thường ít có tính liên hệ, liền mạch, như những suy nghĩ bất chợt của người khách lãng du đãng trí, tất cả xoay quanh câu chuyện săn bắt cá voi và con tàu, những giây phút lãng mạn, những hiểm nguy, những thách thức, và tất cả những chuyện tầm phào khác, để rồi tất cả lộ ra giây phút cuối cùng cái định mệnh đã được báo trước: một con tàu có ba người chủ, có ba người phụ tá, có ba tay phóng lao chính, làm một cuộc hành trình kéo dài ba năm, trận chiến cuối cùng với con cá voi kéo dài ba ngày, để rồi chỉ còn lại một người sống sót. Giây phút cuối cùng của con tàu được khắc họa như trong một áng sử thi:

Ý nghĩa của câu chuyện, xin dành cho những ai tự tìm và hiểu nó. Điều tôi nhận thấy ở đây là tôi chỉ có thể hiểu được trọn vẹn Moby Dick sau khi đã đọc nguyên bản tiếng Anh của nó, bản dịch thực sự không lột tả được nhiều. Chỉ đọc trong nguyên gốc mới thấy được cái văn hóa, cá tính, ngôn ngữ, tâm lý của từng nhân vật, mới hiểu được tất cả những chi tiết vừa thực nhất, vừa đẹp nhất, để rồi nhận ra rằng Moby Dick thực sự là một kết hợp hoàn hảo giữa bi kịch và lãng mạn. Ngay cả trong văn hóa Âu Mỹ, người ta cũng không thường nhắc đến Moby Dick, nhưng nếu có nhắc, thường nhắc đến nó như cuốn kinh, cuốn sách của một đời người.

Dấu ấn của Moby Dick lên các lĩnh vực khác của cuộc sống không nhiều, và không dễ thấy. Nhưng nó như một ám ảnh lớn, một chủ đề tư duy quan trọng xuất hiện tại những thời điểm quan trọng. Như trong sêri phim viễn tưởng Star Trek (một phim tôi rất thích không phải vì nó hoành tráng hay đẹp, so với những phim bây giờ, kỹ thuật Star Trek rất thô sơ), nhưng đó là phim đầu tiên trong thể loại của nó: một câu chuyện, những chuyến hành trình và những ẩn dụ triết học. Star Trek trích dẫn rất nhiều từ Moby Dick, đô đốc James T. Kirk là một bản sao tính cách của Ahab (cũng với ám ảnh báo thù và quyết tâm theo đuổi mục đích đến cùng).

Ban nhạc rock huyền thoại Led Zeppelin thường hay mở màn các show diễn của mình với một đoạn intro (instrumental) mang tên Moby Dick. Cũng có một phim hoạt hình trong sêri Tom và Jerry có cốt truyện nhại theo Moby Dick. Theo như tôi biết thì thương hiệu cà phê hàng đầu thế giới Starbucks chính là lấy theo tên người phụ tá của thuyền trưởng Ahap. Ngay cả về sau này, dù đồng tình hay không với tinh thần tác phẩm Moby Dick, cuốn truyện tiếp tục là nguồn cảm hứng và đề tài tư duy quan trọng để tiếp tục bàn cãi và tạo nên những đỉnh cao nghệ thuật khác.

Moby Dick đã được ít nhất hai lần chuyển thể thành phim, năm 1956 và năm 1998. Chưa tìm được bản phim 1956 để xem (chỉ có một số trailer), nhưng bản 1998 rất ấn tượng. Cảnh Pequod căng hết buồm ra khơi, hay cảnh con tàu chìm như đúng định mệnh của nó… thật sự rất hoành tráng. So với Master and Commander, các cảnh quay không những không kém hấp dẫn, mà phần nhạc phim (cùng được thực hiện bởi Christopher Gordon) lại hay hơn rất nhiều.

Một ngọn sóng cuối cùng dìm hẳn mặt mũi Tachigô, trong khi ở sát mặt nước, ngọn cờ đỏ thắm của tàu Bêquốt vẫn còn phất phơ trong gió. Một cánh tay rám nắng cố ngoi lên để đóng thêm vài búa cho ngọn cờ dính chặt thêm vào cột buồm. Bỗng một con hải điểu từ trên cao bổ xuống định xé nát ngọn cờ. Rủi thay, tay của Tachigô vẫn còn nhô lên và trong một cử động cuối cùng của người thủy thủ sắp chết, đóng chặt chim trời và ngọn cờ… Con ác điểu theo tàu vào cõi chết. Trước khi xuống âm phủ, quỹ Sa tăng còn cố bắt cho được một linh hồn theo hắn cho vừa lòng. Vài cánh chim lẻ bạn kêu réo trên miệng vực thẳm còn hé mở, Cảnh vật mờ dần dưới màn đêm bao phủ. Gió biển và sóng nước vẫn gào thét như tự ngàn xưa.

chanson de lara

Au bord des pleurs,
tu souriais Lara…

Đôi khi ta muốn né tránh cái cao siêu giả tạo và bất tài, cái lối nói năng tối nghĩa của loài người để bước vào cái tưởng chừng tĩnh mịch của thiên nhiên, cái im lặng khổ sai của lao động bền bỉ, cái im lặng không lời của giấc ngủ say, của âm nhạc chân chính và của rung động trái tim, một sự rung động không nói nên lời vì trọn vẹn của tâm hồn.

Chanson de Lara nằm trong một băng cassette nhạc không lời của Richard Clayderman. Ca khúc làm tôi bắt đầu chú tâm đọc: Bác sĩ Zhivago của Boris Pasternak thông qua bản dịch của Lê Khánh Trường (Chanson de Lara là nhạc nền của bộ phim cùng tên chuyển thể từ tác phẩm văn học nổi tiếng này). Tôi nhớ đã đọc liền một mạch hơn 1000 trang sách ấy, và đã đọc đi đọc lại không dưới năm, sáu lần… Đến độ từng đoạn văn trong cuốn sách ấy đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ.

Chanson de Lara - Tereza Kesovija 
Somewhere my love - Ray Conniff 

Cuốn sách đã dạy tôi cách lắng nghe và phân tích chính tâm hồn mình, cũng như cậu bé Yuri đã làm trong góc riêng khu vườn tuổi thơ, cũng như chàng trai Yuri đã làm khi theo học tại trường Y, trong những salon của giới nghệ sĩ, trí thức Nga đương thời, cũng như trên muôn nẻo đường đời khác. Cuốn sách cũng dạy tôi hiểu suy tư, trăn trở của những tâm hồn lớn, đã minh họa nhiều nét tính cách Nga phong phú khác nhau, đã cho tôi biết rằng trong những thời khắc biến động dữ dội của lịch sử, tình yêu đích thực vẫn tồn tại.

Về bài hát, tôi đã thuộc lòng bản tiếng Pháp trước khi biết rằng bài hát vốn là một nhạc phim Anh – Mỹ, và dĩ nhiên là được đặt lời Anh trước. Thế nhưng lời hát tiếng Pháp lại hay hơn nhiều và đi rất sát với nội dung tiểu thuyết và nhân vật Lara: Bầu trời tuyết đã ám đầy, phía xa xa, chân trời bùng cháy. Đứng trên sân ga, em còn mãi nhìn theo chuyến tàu cuối, chuyến tàu đi về phía đau thương. Sát bên bờ nước mắt, em đã cười Lara. Một ngày kia, khi gió đổi chiều, một ngày kia, Lara, mọi điều lại tươi đẹp như xưa!

Bài hát là OST bản phim 1965 (có một phiên bản mới hơn năm 2002). Tôi thích bản cũ hơn, không phải chỉ vì nó trung thành với nguyên tác văn học hơn, mà còn bởi vì bản 2002 đã bị Anh – Mỹ hóa quá mức, khó còn có thể nhận ra nét tính cách Nga nào khi xem.