hq-954

Facebook nhắc lại ngày này năm trước, một thân tàu tuyệt đẹp, HQ-954, tàu cứu hộ của HQ VN, nếu là tàu buồm thì người ta sẽ nói đây là một kiểu “deep full keel”. Do công năng cứu hộ nên bắt buộc phải chịu được sóng to gió lớn, thiết kế phải làm đáy sâu xuống dưới, đổ chì, sắt, gang hay bê-tông cho nặng. Lượng tải giằng này có khi chiếm đến 40~50% toàn bộ tải trọng hữu ích của con tàu. Nếu nhìn mặt cắt chính sẽ thấy đáy tàu như một con lắc – pendulum và thân tàu uống như hình ly rượu – wineglass shape.

Nhà máy X51 – Hải Minh là nơi đóng và sửa những con tàu này! Mỗi lần chèo qua đây là thấy các con tàu được sửa chữa, lúc nào cũng sửa một cái gì đó, lúc nào cũng có việc làm…. Chủ yếu là rỉ sét do thép vỏ tàu không đạt chất lượng. Đóng thì cũng đã đóng rồi, có thể áp dụng thêm kỹ thuật “Impressed current cathodic protection – ICCP”: chủ động áp một dòng điện nhỏ lên thân tàu để tăng cường bảo vệ, chống ăn mòn điện phân. Tuy nhiên kỹ thuật ICCP tương đối phức tạp và cần sự điều chỉnh chi ly…

green washing

Xanh – góc nhìn từ một con tàu… Nhiều người (trong đó có tôi) mơ về một con tàu xanh, sạch, tất cả đều chạy điện: êm ru, tiện lợi, sạch sẽ.. Nhưng bây giờ, ta thử làm một vài phép tính nhẩm để ước lượng số điện sử dụng trên một con tàu buồm nhỏ, giả sử như là một chiếc cỡ 30 feet – 4 tấn! Nếu là trên cạn, với điện gia dụng, bạn xài vài chục ký (kilowatt) mỗi ngày không phải là vấn đề gì lớn, nhưng điều đó không đúng trên một con tàu. Thử liệt kê một vài máy móc thiết yếu cần phải có, đầu tiên là một cái tủ lạnh nhỏ, loại 100 lít, chạy tiết kiệm nhất cũng hết 1 ký điện mỗi ngày. Tiếp theo là bếp từ, dùng ít nhất cũng cỡ 1 ~ 2 ký điện mỗi ngày, chưa kể còn phải có nồi cơm điện, lò vi sóng, máy xay sinh tố, máy giặt sấy, máy rửa chén, máy sấy tóc và vô số các loại máy móc gia dụng khó có thể thiếu khác.

Như thế trên một con tàu nhỏ, để sống cho có chút tiện nghi, bạn phải xài ít nhất 3 ký điện mỗi ngày, đó là chưa có quạt và máy lạnh nhé! Để có đủ điện xài cho một tuần thì phải có khối pin lithium cỡ: 3 x 7 = 21 kw, khối pin này nặng cỡ 120 ~ 140 kg. “Máy phát điện”, là cái alternator trong động cơ diesel, thực ra chỉ xài 5 ~ 10% công suất động cơ để phát điện mà thôi, giả sử như động cơ chính của con thuyền, bét nhất là 11 kw – 15 HP, thì phải chạy liên tục hơn 2 ~ 3 tuần mới sạc đầy được khối pin kia, đây là chuyện hoàn toàn không khả thi! Nên suy đi tính lại, bạn sẽ thấy cần phải có một cái máy phát điện chuyên dụng cho con tàu. Mà máy phát loại nhỏ gọn, chạy xăng tuy rẻ tiền nhưng không xài chung loại nhiên liệu với động cơ diesel, tức là phải đem theo 2 loại nhiên liệu khác nhau trên tàu!

Mà máy phát diesel loại chuyên dụng cho hàng hải, thì… còn mắc tiền hơn cả cái động cơ, cũng phải từ USD 3000 ~ 4000 trở lên, và mỗi cái nặng cỡ hơn 120 kg, như thế, máy phát điện + khối pin và các thiết bị có liên quan sẽ tăng thêm vài trăm kg cho tải trọng con tàu! Động cơ thì phải làm mát bằng nước, tức là phải có két nước làm mát, chứ giờ ít ai bơm trực tiếp nước biển vào nữa, nước không sạch gây ra tắc nghẽn, hao mòn. Vấn đề chưa dừng lại ở đó, động cơ diesel loại phổ biến chỉ có hiệu suất cỡ 40%, máy phát điện biến động năng thành điện năng có hiệu suất thực tế cỡ 80%, quá trình sạc và xả điện vào và ra cục pin chỉ đạt hiệu suất cỡ 95%, và dòng điện này cấp cho bếp từ để nấu ăn cũng chỉ đạt hiệu suất tối đa cỡ 70%! Làm thử một phép tính nhẩm: 0.4 x 0.8 x 0.95 x 0.7 ~ 0.21…

Hiệu suất toàn phần của quá trình chỉ đạt 21%, thực tế bạn sẽ không bao giờ đạt được con số này! Nếu ta đốt trực tiếp nhiên liệu diesel để nấu ăn (dùng các loại bếp pressurized stove) thì vẫn đạt được hiệu suất sử dụng năng lượng ít nhất là gấp đôi con số đó, chỉ cần một cái lò đơn giản, không cần phải có máy phát, pin và hàng trăm kg thiết bị khác, chưa kể các vấn đề lắp đặt và chiếm dụng không gian, vốn đã rất chật hẹp trên một con tàu! Không có ý nói rằng tất cả những giải pháp kỹ thuật xanh đều vô dụng, nhưng trong nhiều không gian bài toán cụ thể (ví dụ như trên một con tàu), thì vấn đề “xanh” là… hoàn toàn tào lao như chúng ta đã thấy, cứ đốt trực tiếp nhiên liệu hóa thạch vẫn là giải pháp tối ưu nhất và những loại nói là “xanh” thực tế chỉ… green – washing mà thôi!

AI and boat design

Bữa đó, tôi hỏi AI: có thể thiết kế một thân thuyền buồm mà chiều cao thân bằng chiều rộng thân được hay không, vì sao!? Một câu hỏi mới nghe thì có vẻ rất “đơn giản” nhưng để trả lời nó thì lại không hề đơn giản chút nào! AI liền trả lời: nói chung là có thể, nhưng thường người ta không làm thế, sau đó AI liệt kê vô số thông tin đi kèm, loại thông tin dư thừa, vô bổ, hoàn toàn KHÔNG có cái nào giải thích được tại sao nên (hay không nên) làm như vậy! Đọc xong lời “giải thích” của nó là tôi biết AI không hề có tí suy luận logic nào, nó chỉ lặp lại như vẹt lời ai đó đã nói mà thôi!

Muốn trả lời được phải xây dựng mô hình tàu, tính toán thủy tĩnh, thủy động, hoặc ít nhất là tham khảo hàng trăm thiết kế tàu đã có sẵn để rút ra một thông tin nào đó. Cần phải đến các thư viện, bảo tàng, lục tìm các bản vẽ hàng trăm năm trước mới đưa ra được kết luận, mà những thông tin này không nằm trong Cơ sở dữ liệu của AI, các kiến thức vật lý, mô hình, suy luận toán học cũng không có trong AI. Nên, làm ơn, đừng “xưng tụng” là AI… có suy luận logic, chỉ có loại não phẳng không viết nổi câu văn đơn giản, không suy nghĩ được chuyện đơn giản, mới nói như thế!

uscgc mellon

Thế là Mỹ đã chuyển giao cho VN 3 con tàu Tuần duyên cũ, một chiếc hạ thủy năm… 1968, một chiếc hạ thủy năm 1969, và một chiếc năm 1972, như vậy 3 con tàu đó đã… 57, 56 và 53 tuổi, hai chiếc già hơn (USCGC Mellon và USCGC Morgenthau) thực sự đã từng tham chiến ở Việt Nam những năm 1968 ~ 1972! Theo các ước tính trong hàng hải, một con tàu đến 40 tuổi được xem là đã rất thành công, sau khi hạ thủy và đưa vào sử dụng khoảng 20 năm, sẽ có một lần “mid-life upgrade – nâng cấp giữa đời”!

Tức là được trông đợi là sẽ phục vụ tiếp nửa phần đời còn lại, thêm 20 năm nữa cho đủ 40 năm. Hơn 50 tuổi đối với một con tàu đã có thể xem là “cổ lai hy – xưa nay hiếm”, dù Nga có một con tàu đã 110 tuổi vẫn còn hoạt động trong biên chế, nhưng đây là ngoại lệ vô cùng hiếm hoi. Ở nhiều nơi khác thì những con tàu này đã bị biến thành… bia tập bắn từ lâu! Điều gì khiến cho những con tàu của họ 60 năm vẫn còn xài được, còn tàu chúng ta đóng ra mới chỉ có vài năm đã xập xệ, xuống cấp, liên tục sửa chữa!?

duy tân

Sau khi đội tàu của Đề đốc Matthew Perry đến Nhật Bản, trước một màn phô trương sức mạnh quá thuyết phục như vậy: những con tàu hơi nước hiện đại, những khẩu pháo Paixhans khổng lồ, chính quyền Tokugawa bị “thuyết phục” hoàn toàn và phải ký các hiệp ước mở cửa nước Nhật ra giao thương với thế giới sau hơn 200 năm khép kín. Matthew C. Perry là một người khéo léo, ông ta tặng người Nhật những khẩu súng lục Colt biệt danh: the peacemaker – người kiến tạo hòa bình, và cũng tặng kèm những động cơ hơi nước nhỏ mang tính trình diễn. Dù vẫn còn phải đánh nhau thêm vài trận nhỏ nữa (Boshin war) để dẹp hoàn toàn các thế lực cản đường trước khi chuyển sang thời Minh Trị duy tân, nhưng ngay lúc đó, người Nhật bắt tay vào những công việc cụ thể để canh tân đất nước.

Một trung tâm huấn luyện hàng hải được dựng lên bên cạnh Dejima, hòn đảo giao thương với người Hà Lan cũ, Tanaka Hisashige được giao nhiệm vụ phát triển các thiết bị điện tín (telegraph), công ty của ông ta sau về trở thành tập đoàn Toshiba lừng danh, và chỉ 2 năm sau thì họ chế tạo thành công động cơ hơi nước đầu tiên, tuy vẫn có một số khiếm khuyết nhưng chạy được. Về cái “nghi án” VN đã chế tạo thành công tàu thủy động cơ hơi nước dưới thời Nguyễn, tôi nghĩ cần phải nói thẳng đây là trò bịp bợm! Sự thực là nhà Nguyễn đã có mua vài chiếc tàu hơi nước nhỏ, nhưng mới dùng được thời gian thì hỏng, không tự sửa chữa được đành xếp xó! Ở VN cũng có người nhận rõ sự cần thiết phải Duy tân, ví dụ như Nguyễn Trường Tộ, ông ta… chăm chỉ viết điều trần gởi lên triều đình!

Tế cấp luận thâu tóm trí khôn của thiên hạ 500 năm nay… Tế cấp luận của tôi nếu đem ra thực hành hàng trăm năm cũng chưa hết… Nếu đọc kỹ Nguyễn Trường Tộ, ta sẽ thấy tư tưởng rõ ràng là có chút tiến bộ, nhưng lời văn vẫn kiểu mắc vào “cái tôi”, loay hoay không giải thích được Duy tân phải bắt đầu từ đâu! Quả thực như vậy, suốt cuộc đời ông ta chăm chỉ viết điều trần, viết đến gần 100 bản, nói thì dông dài quá nhiều nhưng chưa bao giờ thấy động tay chân làm điều gì! Có vẻ như là đã tận lực, đã cố hết sức rồi, nhưng toàn bộ những gì “làm” được chỉ là một mớ ngôn từ bùng nhùng, mơ hồ như thế! Như vậy phải coi lại sức khỏe thế chất, vật lý có vấn đề gì không, có bị khuyết tật chỗ nào hay không, chứ sao cái “dân tộc tính” đến tận ngày nay, mãi vẫn chỉ có nói mà không có làm như thế!?

rangaku

Sau khi tiến hành chiến tranh thống nhất Nhật Bản thành công, Tokugawa Ieyasu nhận được sự chấp thuận của Nhật hoàng để trở thành Shogun – Tướng quân, người cai quản nước Nhật trên thực tế. Xem những thư từ trao đổi giữa chúa Nguyễn (VN) và Tokugawa Ieyasu (Nhật) sẽ thấy một cái giọng điệu rất buồn cười, ai cũng cố tình lờ đi các vị Hoàng đế trên danh nghĩa (Nhật hoàng và vua Lê), cố tình đề cao địa vị “chúa tể” trong thực tế của mình, nhưng cả 2 con dấu đỏ trong các thư từ thì đều chỉ là “Tổng trấn tướng quân” như nhau cả. Và cũng hệt như ở VN (nhưng là ở một thời đại 200 năm trước đó), sau khi đã thống nhất đất nước, “Thố tử cẩu phanh, Điểu tận cung tàng兎死狗烹鸟尽弓藏“, Tokugawa Ieyasu đã tiến hành một chính sách bế quan tỏa cảng khắt khe nhằm làm ổn định xã hội.

Cửa ngõ duy nhất mà Nhật Bản mở ra với nước ngoài trong suốt hơn 200 năm là Dejima, một hòn đảo nhân tạo kích thước bé tí 120m × 75m, là nơi buôn bán với người Hà Lan. Để lại ấn tượng xấu cho các lãnh chúa Nhật Bản chính là các thương nhân + nhà truyền giáo Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, họ không tách rời giữa các động cơ tôn giáo và kinh tế, và có phần nào đó quá cấp tiến trong các hoạt động của mình. Nhưng người Hà Lan thì nhẹ nhàng hơn, họ nhấn mạnh buôn bán và ít đề cao tôn giáo, nên… dễ nhận được sự đồng cảm, chấp nhận từ phía người Nhật Bản. Từ đó hình thành nên phong trào Rangaku – Lan học – 蘭學, một dòng chảy âm thầm trong xã hội Nhật, tuy bế quan tỏa cảng, nhưng khác với Việt Nam, người Nhật vẫn âm thầm học hỏi, tiếp nhận văn minh phương Tây qua ngã Hà Lan.

Sách vở được mua đều đặn, các dụng cụ như đồng hồ, bản đồ, kính thiên văn, kính hiển vi, các dụng cụ y tế, sách y học, giải phẫu học, etc… liên tục được nhập khẩu, từ đó, người Nhật nghiên cứu và tự chế tạo các thiết bị của riêng mình, từng bước tiến đến có những phát minh sáng kiến riêng. Các lĩnh vực mà người Nhật rất tò mò và có nhiều tìm tòi là các loại đồng hồ cơ khí chính xác, tự động hóa, và kính hiển vi dùng để quan sát và vẽ các bản mẫu sinh vật! Suốt gần 200 năm, cũng phải có một quá trình như thế nào đó, chứ không phải đùng một cái, nói Minh Trị duy tân mà duy tân ngay được! Và bên trong cũng phải có cái gì đó, thì mới có thể có công phu tìm hiểu, nghiên cứu được, chứ “tâm” chỉ có ghen ăn tức ở với lưu manh lặt vặt, thì rồi cũng chỉ “ngụy trí thức, ngụy quân tử” mà thôi!

shogun, 2024

Nhớ lại cuối tháng 5 năm đó, 2025, ốm một trận khá to đến gần 2 tuần, người thì vẫn có vẻ khỏe, vẫn đạp xe tập gym nhẹ nhẹ được, ra ngoài người ta nhìn không biết mình ốm, nhưng thực ra bên trong sốt cao mất cả giọng nói. Bệnh nó làm thay đối tâm tính con người, chỉ nằm nhà xem phim… Là cái phim cũ rích Shogun 1980 làm lại, đây là phiên bản 2024. Đương nhiên so với gần 50 năm trước sẽ có nhiều khác biệt, thời đại thông tin, người ta ngày càng biết rõ ràng hơn, kỹ càng hơn về một nền văn hóa, tất tần tật từ những chi tiết nhỏ nhất như 6, 7 lớp áo kimono phải mặc như thế nào, hay cách bài trí một căn nhà phải ra làm sao, etc… Về phương diện này thì phim khá là thành công, đầu tư kỹ lưỡng, phần đông người Nhật có vẻ như không có ý kiến gì về mức độ tái tạo chân thực của phim, đương nhiên cũng chưa biết những người thật sự khó tính nghĩ như thế nào. Phải nói là Nhật Bản và phương Tây có một sự giao lưu văn hóa từ rất sớm!

Và trong chừng mực nào đó có sự thông hiểu nhất định giữa Đông – Tây hai bên, nên phương Tây muốn tái tạo một không gian văn hóa Nhật sẽ tương đối dễ thành công hơn một không gian Trung Quốc hay Nga. Nga và Trung Quốc, đó là những thế giới còn phức tạp và khác biệt đáng kể nữa, khi những kiến thức “giả cầy ta đây biết rồi” là sẽ hoàn toàn không đủ để tái tạo một không gian văn hóa mang tính nguyên bản – authentic có thể thuyết phục được người khác. Hai “đảo quốc” hoàn toàn không lớn lắm, nếu không muốn nói… khá là bé, một ở bờ Tây, một ở bờ Đông, Anh và Nhật, xem như là 2 “đầu tàu” kéo văn minh nhân loại phát triển trong những giai đoạn nào đó, liên tục đi đầu trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Cả hai đều là hai quốc gia “quân chủ” lâu đời! Xem ra thể chế chính trị chẳng hề có tí ảnh hưởng nào, quan trọng vẫn là phẩm chất con người như thế nào mà thôi! 10 tập đầu của phần 1, có lẽ sẽ có phần 2, 3 tiếp theo…

Phim dựa trên tiều thuyết cùng tên của James Clavel, còn tiểu thuyết thì dựa trên một sự thật lịch sử: William Adams, được xem là người Anh đầu tiên đặt chân đến Nhật Bản, là hoa tiêu trên một đoàn tàu 5 chiếc của công ty Đông Ấn, Hà Lan, đoàn tàu vòng qua eo biển Magellan vượt Thái Bình Dương nhưng chỉ có một chiếc đi tới đích. Sau khi thuyền bị trôi dạt vào bờ biển Nhật Bản, 1960, William Adams trở thành cố vấn cho Tokugawa Ieyasu, được tin cậy và trở thành samurai – hatamoto, được phong một lãnh địa nhỏ chừng 400 koku. William Adams đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Nhật Bản giai đoạn này, ông ta giúp Tokugawa Ieyasu xây dựng một đội thương thuyền, tiến hành buôn bán với nhiều nước châu Âu và Đông Nam Á, thu mua vũ khí phục vụ cho cuộc chiến thống nhất Nhật Bản, trở thành Shogun của Tokugawa Ieyasu! William Adams lấy vợ, sinh con và sống ở Nhật 20 năm cho đến lúc qua đời, 1620.

So sánh không được chính xác cho lắm, nhưng William Adams ở Nhật cũng có thể xem như Bi Nhu Quận công tại VN vậy, mặc dù Pierre Pigneau de Behaine để lại một dấu ấn, tuy ngắn ngủi, nhưng có thể nói là sâu đậm hơn nhiều. Nguyễn Ánh đã phong cho ông ta một cái tước cao nhất có thể, vì lúc đó chính thức vẫn dùng niên hiệu Cảnh Hưng của Lê Hiển Tông (dù nhà vua đã qua đời), và nhà Chúa thực ra chỉ là tước vương mà thôi, nên phong đến Quận công là tột đỉnh rồi, không thể cao hơn được nữa. Ông Bi Nhu – Pigneau này, trong khoảng 15 năm cho đến lúc mất, đã cố vấn cho Nguyễn vương xây dựng đường sá, xây đắp thành lũy, khai mỏ nấu quặng, rèn đúc vũ khí, chia dân cư thành các vùng chuyên canh trồng cây “công nghiệp”, huấn luyện binh lính theo lối Tây phương, làm trung gian mua tàu thuyền, vũ khí, và có lẽ đóng góp quan trọng nhất là tham gia kiến thiết hạm đội thuyền chèo tay – galleys hùng mạnh của nhà Chúa!

châu ấn thuyền – red seal ships

Ai đã đọc tiểu thuyết Tướng quân – Shogun – James Clavell thì sẽ tưởng tượng được những bước sơ khai đầu tiên trong việc thành lập đội các Châu Ấn thuyền ở Nhật Bản. Đương thời, ở Nhật lúc đó, ngoại thương là đặc quyền nằm trong tay các Tướng quân, cần phải có một văn bản (giấy phép) có dấu triện đỏ (châu ấn) thì các con thuyền này mới xuất ngoại buôn bán được. Châu Ấn thuyền là những con tàu khoảng 500 ~ 700 tấn, có kết cấu khá đặc biệt khi kết hợp các kỹ thuật Đông lẫn Tây trên con thuyền, có các lá buồm mành (junk) kiểu TQ và buồm vuông (square) kiểu Tây phương.

Tại thời điểm phát triển thịnh vượng nhất, Nhật có hơn 350 thuyền như vậy, buôn bán với Đài Loan, TQ, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Phi, Indo, etc… Cần phải nói rõ là việc buôn bán này là siêu lợi nhuận! Ví dụ như quế (cinnamon) mua được ở VN, đem về tới Nhật sẽ có giá gấp đôi, gỗ đàn hương (sandalwood) đem về từ Nam Á sẽ có giá gấp ba! Đi ra biển với bao nhiêu khó khăn, nguy hiểm, đem về mức lời 200%, còn thua cả một số streamer VN hiện đại chỉ buôn nước bọt online mà đạt được mức lợi nhuận 2000% (hai ngàn phần trăm), đúng dân trí nó… không thể tự luận ra được!

Rất nhiều nước được lợi từ việc mua bán này, các chúa Trịnh, Nguyễn cần nhất từ Nhật Bản là đao (và vũ khí nói chung)! Cứ phải nói thẳng ra rằng… hàng chúng ta tự làm ra không đạt, không xài được! 350 tàu là một lực lượng khổng lồ, gồm các võ sĩ (samurai) chuyên nghiệp, nên người Nhật đã tìm cách thành lập cả một khu “thuộc địa” ở Thái Lan, trong chừng mực nào đó lấn át cả quyền lực Hoàng gia Thái, chỉ duy trì một đội quân vài trăm người mà tự tung tự tác đến mức người Thái không làm gì được. Và có vẻ như người Nhật cũng đã thử làm điều tương tự ở VN nhưng thất bại!

slipway

Sự chuyên nghiệp thật đáng nể, giống y như lính cứu hỏa trượt thẳng từ nhà xuống xe vậy, khi có nhiệm vụ cứu hộ, chỉ cần tháo cái chốt là con tàu trượt xuống nước, nhanh chóng nổ máy đi làm nhiệm vụ, khi xong nhiệm vụ thì kéo tàu lên trở lại! Trước có nói về các con tàu cứu hộ của Anh quốc, những con tàu nhỏ, hiện đại và đắt tiền, chúng được chứa trong những hangar nằm cao trên bờ sông, bờ biển, để bảo vệ các con tàu khỏi thời tiết, nắng mưa. Thiết kế của những con tàu này đều có két nước giằng, khi ra biển thì bơm vài tấn nước vào cho ổn định, khi về bến thì bơm nước ra cho nhẹ để kéo tàu lên. Điều đáng nói, RNLI là tổ chức thiện nguyện, các nhân viên phần lớn đều là tình nguyện, không lương!

Ngân quỹ hoạt động của RNLI đều do cộng đồng đóng góp (donate)! RNLI hoạt động dưới sự điều phối của HM CoastGuard – lực lượng tuần duyên, dù tên là CoastGuard nhưng từ lâu đã không còn là cơ quan quân sự, mà chỉ là dân sự trực thuộc Bộ giao thông vận tải! Chỉ trừ một số sĩ quan chỉ huy, điều phối và huấn luyện là viên chức nhà nước ra, thì phần lớn nhân viên của HM CoastGuard cũng đều là… tình nguyện! Chỉ khi nào mà con người ta nhận lấy những công việc nguy hiểm một cách tình nguyện, không được trả xu keng nào, như là một kiểu “hobby”, vừa “vui chơi, giải trí”, vừa như một kiểu đóng góp cho cộng đồng thì dân trí mới gọi là cao được, ở VN mà nói cứu hộ… thì còn phải đợi chán chê!

bạc đạn gốm

Nhớ năm đó chèo đi 10 ngày về… cái chìa khóa không mở được cửa nhà. Thường chìa khóa được làm bằng hợp kim đồng thau, có khả năng chống ăn mòn tốt, nhưng vẫn không chịu nắng + gió + muối được mấy ngày! Nhiều người không hiểu những chuyện này, ví dụ như nghĩ rằng inox 304, 316 là bền bỉ, không gỉ, chống được nước biển, vì họ chưa thấy một số tình huống, ngay cả inox 316 chỉ vài ngày là… tèo! Dùng cho hàng hải có nhiều hợp kim tốt hơn inox như Duralumin, Titan, Monel, Inconel, Hastelloy, etc…

Mới vừa thay cặp bạc đạn thép cho cái xe đẩy (kayak cart) chưa được nửa năm đã han gỉ đến mức gần mục nát, mà chưa ngâm nước biển, mới dính chút nước lợ (sông) thôi. Bèn lên các trang TMĐT đặt mua một cặp bạc đạn làm bằng gốm (ZrO2)! Thời đại đi thật là nhanh, “le temps s’accélère…”, ban đầu nghĩ bạc đạn gốm chắc đắt lắm, hóa ra không phải! Nhớ lại 20 năm trước, đi siêu thị mua con dao làm bếp bằng gốm trắng bóng, cầm trong tay mà nghĩ rằng, đây chính là “kỳ quan công nghệ”!

cuộc đua lên đỉnh

Hai trường ĐH nổi tiếng và lâu đời nhất Anh quốc: Cambridge và Oxford đã có truyền thống cạnh tranh, đối đầu từ xa xưa, và nội dung cạnh tranh nóng nhất chính là đua thuyền (rowing)! Cuộc đua đầu tiên được tổ chức năm 1829, có một số lần gián đoạn do chiến tranh và dịch bệnh! Đến nay, cuộc đua được tổ chức thường niên, thu hút đông đảo khán giả và người hâm mộ, dù luôn chỉ có 2 đội đại diện cho 2 trường. Cambridge đã thắng 88 lần và Oxford đã thắng 81 lần, hai bên có 1 lần hòa! Đến 1927 thì tổ chức thêm giải đua cho nữ.

Suốt gần 200 năm lịch sử là một sự đối đầu trường kỳ và kịch tính, không có bất kỳ giải thưởng hay danh hiệu gì, tất cả đều là vì… “thể diện”! Video cuộc đấu năm 2025, rất hấp dẫn, 6.8km, 17 phút, tốc độ trung bình lên đến 24 kmph, hơn gấp đôi so với tốc độ thuyền chèo kiểu dragon-boat, thuyền rồng thường có tốc độ trung bình khoảng 12 kmph, đua trên quãng đường ngắn hơn nhiều, dưới 2km, một ví dụ cho thấy rowing so với paddling mạnh hơn rất nhiều như thế nào! Pull, like you’re pulling a French man off your mother… :D

cuộc đua xuống đáy

Đây là một ví dụ vô cùng điển hình về cái mà người ta hay gọi là “cuộc đua xuống đáy – racing to the bottom“, không cần biết thắng hay thua, không cần biết cuộc đua sẽ như thế nào, chỉ cần dìm đối thủ xuống là được. Một nét cá tính đặc hữu, đặc trưng, thâm căn cố đế, rất chi là… Vietic! Và sự lưu manh được thực hiện vô cùng chuyên nghiệp!

Và được thực hiện tới cùng, nhưng chỉ có đâm va thôi, không hề đụng tay đụng chân đánh nhau đâu nhé! Có công an giao thông đường thủy ngay tại hiện trường đó mà cũng không làm gì được… Kiểu này rồi chỉ có cạp đất mà ăn thôi chứ vĩnh viễn không ngóc lên được! Có phải là nên cấm thi đấu vĩnh viễn không, cho nó chừa cái tật đó đi!

hq-671

Nhìn mãi những đường cong của HQ-671, con tàu “bảo vật quốc gia”, thực sự rất rất đẹp! Thông số: dài 31m, rộng 5.8m, lượng giãn nước 165 tấn, từ đó suy ra phần mạn ướt (draft) chỉ khoảng 1.4 ~ 1.7m, chính là thiết kế để cập trực tiếp vào những bãi biển, cửa sông nước nông. Không biết ai thiết kế con tàu này, nhưng quả thực, đường nét của nó có dáng dấp một chiếc thuyền cứu hộ (lifeboat) cổ điển được phóng to lên, với hai đầu nhọn (double-ender). Với thiết kế như thế thì thuyền sẽ tương đối kém ổn định, bắt buộc phải dùng nhiều hàng (hay két nước) để giằng tàu.

Loại tàu như thế này thường đòi hỏi người thuyền trưởng phải có hiểu biết, nhạy cảm nhất định về cách cân bằng tàu. Thường thì sẽ đem theo lượng nước ngọt, dầu máy, nhu yếu phẩm đủ dùng cho khoảng 3 tuần hải hành, nhưng cũng vì thế mà thường chỉ chở được 50 ~ 60 tấn vũ khí. Những đường cong nhìn rất vừa con mắt, mặc dù về thi công có những chỗ vẫn có thể làm tốt hơn, như chân vịt hay bánh lái hơi mong manh, không được bảo vệ tốt, khá kém nếu so với tiêu chuẩn của một thuyền cứu hộ, và cabin hơi cao, cao một cách không cần thiết!

đoàn 371

Ngoài Đoàn 125 vận tải thuộc Hải quân và đội 128 “giao thông đường thủy” thuộc Cục tình báo, còn có một đội “tàu không số” khác nữa mang số hiệu Đoàn 371, hoạt động… “công khai, hợp pháp”, do Tư Mau (Phan Văn Nhờ) làm đoàn trưởng, hoạt động dưới vỏ bọc Công ty Việt Long, đăng ký kinh doanh hợp pháp ở miền Nam, ban đầu là các tàu “buôn muối” chạy tuyến Đà Nẵng – Sài Gòn (và chạy thẳng ra Bắc nhận vũ khí). Vào vai một nhà “tư sản” hoạt động đa ngành, từ buôn muối, đánh cá, và nhiều lĩnh vực khác, sở hữu 7, 8 tàu nhiều kích cỡ, có chiếc đến 120 tấn, máy 500HP!

Công ty có cơ sở rộng khắp từ miền Trung cho đến miền Nam, hoạt động một thời gian thì bị chỉ điểm, địch phá được một số cơ sở, nhưng may mắn vẫn giữ được nhiều tàu. Chỉ huy Tư Mau phải đi viện Quân y 108 ở miền Bắc, tiến hành các đợt giải phẫu thẩm mỹ thay hình đổi dạng, đến người quen cũng không thể nhận ra, sau đó lại vào Nam xây dựng vỏ bọc mới, tiếp tục vận chuyển vũ khí trên biển. Thông tin giải mật đến ngày nay cho chúng ta biết về 3 đội tàu “không số” đó, nhưng biết đâu vẫn còn những “hạm đội bóng tối – shadow fleet” khác mà thông tin chưa giải mật! :D

tàu không số

Về chiến dịch Market Time (Mỹ) hay… các con tàu không số đã thất bại như thế nào. Chuyện các con tàu không số VN trong kháng chiến chống Mỹ thì mọi người đã biết nhiều rồi, vinh quang thì nhiều và đắng cay cũng không ít. Bài này nói về cách người Mỹ đã làm thất bại kế hoạch vận chuyển trên biển của VN. Nhưng trước tiên là một vài câu chuyện bên lề, như khi bắt đầu làm một chuyện gì đó, từ lúc sơ khai cho đến lúc lão luyện, đương nhiên sẽ có rất nhiều bài học đắt giá. Năm 1963, một con tàu không số chở quá tải, vừa xuất bến đã bị hiện tượng phá nước, có nguy cơ chìm, phải điện về sở chỉ huy điều tàu ra kéo vào, may mà đã kéo kịp. Cũng trong năm 1963, một tàu giao hàng xong trên đường trở ra thì mắc cạn ở Hoàng Sa, tàu không chở hàng, nhẹ mà vẫn không cứu được, đành phải cho nổ hũy tàu. Trừ những chuyến đầu tiên trong năm 1962 là đi bằng tàu vỏ gỗ, thì các con tàu xuất bến từ năm 1963 trở về sau đều là tàu vỏ sắt, tải trọng khoảng 100 tấn! Lưu ý đây là tải trọng tối đa, thực tế lượng vũ khí chở trên tàu chỉ khoảng 40~60 tấn mà thôi. Khi trở ra chạy tàu rỗng, kém ổn định nên các thủy thủ chặt nhiều cây dừa nước xếp vô trong khoang. Về đến bến K15 Hải Phòng thì vứt đại mấy cây dừa nước xuống biển.

Mấy cây dừa nước này nảy nở sinh sôi làm người dân địa phương sinh nghi vì họ biết rằng dừa nước là giống cây chỉ có ở miền Nam, miền Bắc không có. Mà bến K15 là tuyệt mật, ngay cả chính quyền tp. Hải Phòng chỉ biết là cơ sở quân đội chứ không biết bên trong làm gì. Sau vụ này, bến K15 cho người đi nhổ sạch mấy cây dừa nước và… tổ chức họp rút kinh nghiệm về công tác bảo mật! :D Năm 1963, đi 22 chuyến đều thành công, giao 1318 tấn vũ khí! Năm 1964, đi 55 chuyến đều thành công, giao 2971 tấn vũ khí! Năm 1965 đi 18 chuyến, 15 chuyến thành công, giao 810 tấn vũ khí, sau sự kiện tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô thì người Mỹ tăng cường các biện pháp phòng chống “cộng sản xâm nhập”, và phải nói các biện pháp này khá hiệu quả. Năm 1966 đi 8 chuyến chỉ có 2 chuyến thành công! Năm 1967 đi 5 chuyến đều thất bại! Năm 1968 đi 8 chuyến đều thất bại! Năm 1969 tổ chức 4 chuyến có 2 chuyến thành công! Năm 1970 tổ chức 17 chuyến có 6 chuyến thành công. Năm 1971, tổ chức 15 chuyến, chỉ có 2 chuyến thành công, Năm 1972, tổ chức 12 chuyến cũng chỉ có 2 chuyến thành công. Như vậy, cho đến khi Hiệp định Paris được ký kết và người Mỹ rút khỏi VN thì họ đã khá thành công trong việc ngăn chặn các con tàu không số.

Người Mỹ đã thử nghiệm nhiều cách thức khác nhau, nhưng đến cỡ năm 1965 thì họ đã hoàn thiện “quy trình làm việc”, dùng các con tàu “radar picket escorts” giám sát mặt biển, những loại “SC radar” lúc đó có tầm hoạt động không quá lớn, tối đa chỉ khoảng 120km. Khi phát hiện được những tàu khả nghi thì cho máy bay ra quan sát, chụp ảnh, và khi đã xác định là “đối tượng tình nghi” thì dùng các tàu khu trục cỡ nhỏ để theo dõi, đeo bám. Các con tàu không số của VN dùng chiến thuật phổ biến là lảng vảng ở ngoài vùng biển quốc tế, tìm cơ hội, chờ đối phương sơ hở là đâm thật nhanh vào bờ, dỡ hàng ngay trong đêm và rời đi vào sáng hôm sau. Phía Mỹ biết rõ quy luật nên tổ chức theo dõi, đeo bám rất sát sao. Ở đây có một điểm cần lưu ý, người Mỹ, dù biết rõ đó là các tàu VN chở vũ khí thâm nhập miền Nam, nhưng họ chỉ tổ chức đeo bám chứ không tấn công, cũng không đâm va. Chỉ khi nào tàu VN tìm cách xâm nhập vào gần bờ thì mới điều các tàu chiến cỡ nhỏ ven bờ ra vây bắt. Đây là một trong những “quy tắc giao chiến – rules of engagement” của người Mỹ, nếu tàu còn ở trong hải phận quốc tế thì… vẫn có quyền tự do đi lại. Đã có nhiều tình huống, các con tàu không số bị đeo bám, theo dõi quá sát sao…

Không đi tiếp được, phải quay trở ngược ra Bắc. Người Việt chúng ta thường ngạc nhiên trước các quy tắc giao chiến này, đã đánh nhau thì còn quy tắc gì nữa, thực ra không phải vậy! Chiến tranh cũng phải có luật lệ, quy tắc, điều đó rất thường khi là có lợi cho các bên tham chiến. Một điểm đáng lưu ý là, nếu lúc đó, chúng ta quay trở lại sử dụng các con tàu vỏ gỗ, thì cơ hội, xác suất thành công sẽ cao hơn rất nhiều, do vỏ sắt phản xạ radar tốt, trong khi vỏ gỗ hấp thu tín hiệu radar, làm cho đối phương rất khó dò tìm. Nhưng đáng tiếc là, và phải nói thẳng là, các con tàu vỏ gỗ đóng theo kiểu truyền thống VN (không có sống đáy) chỉ có thể làm tàu đánh cá mà thôi, không đủ độ cứng cáp, vững bền để chở đến 50, 60 tấn vũ khí và thực hiện các hải trình khó khăn, phức tạp. Và dù có nhiều thông tin về một vài con tàu 100 tấn vỏ sắt do chúng ta tự thiết kế, tự đóng ở Tam Bạc nhưng đọc các con số cũng luận ra được nhiều điều bất hợp lý, xài được hay không là một dấu chấm hỏi (đến tận ngày nay, các con tàu chúng ta tự đóng có xài được hay không cũng vẫn là dấu hỏi), và thực tế là, do Mỹ đánh phá bằng không quân ác liệt, nên các con tàu không số do Đoàn 125 sử dụng phần nhiều đều là do nước bạn TQ đóng!

ĐNa-90603

Chuyện đã xảy ra vài năm trước, nay nhắc lại… ĐNa-90603, con tàu vỏ gỗ 300 tấn lớn nhất miền Trung, trong một phiên đi biển ở Thanh Hóa, kéo lưới thu được quá nhiều cá! Bội thu đôi khi lại là thảm họa, kéo lưới làm tàu nghiêng, gặp gió lớn, và không xả dây kéo kịp (có thông tin tời kéo lưới bị kẹt, không xả dây được), khối lượng cá + lưới + gió kéo tàu lật và chìm, 2 người chết, 14 người thoát nạn! Điểm qua vài thông số tàu: dài 26m, rộng 6m, cao 3.8m, tải trọng hơn 300 tấn, máy 1150 CV, các con số này rất có vấn đề! Giả sử như block-coefficient=0.6 thì tải trọng (lượng choáng nước) = 26x6x3.8×0.6 = 356 tấn, nhưng đây là con số lý thuyết, thực tế tàu đi biển chỉ dùng 50 ~ 60% con số này, giữ lại một biên độ an toàn! Giả sử như lượng choáng nước thực tế là 356×0.55=196 tấn, trung bình mỗi tấn tải trọng cần 4HP, thì máy tàu cần có công suất 196×4=784 HP! Thực tế, máy tàu đến 1150 HP, sau đó được nâng cấp lên đến 1300+HP! Từ công suất máy cao bất thường như vậy có thể suy ra một vài điều:

#1: có thể tàu đã được khai thác quá tải trọng an toàn, các ngư dân đã “tham” và chất lên tàu quá nhiều thứ, #2: kỹ thuật đóng tàu kém, tàu quá nặng dẫn đến cần công suất động cơ lớn. Vấn đề với tất cả tàu cá VN là kỹ thuật và vật liệu đóng tàu không đạt yêu cầu, phải gia cố nhiều khiến tàu nặng, tàu nặng sẽ tiêu thụ nhiều xăng dầu hơn + giá xăng dầu tăng + ngư trường ở xa, phải đi biển xa, dài ngày hơn, tất cả dẫn đến khai thác… chỉ toàn lỗ! Đây là thực tế cay đắng, mà lý do gốc là không làm chủ được vật liệu và kỹ thuật đóng tàu. #3: cũng có thể có thêm một nguyên nhân nữa là “máy đểu”, số công suất (HP) thể hiện ra thì to nhưng thực tế không đạt được như vậy! Không kể các tàu vỏ thép quá nặng: thép thì dùng thép đểu, máy là hàng TQ giả mạo làm máy Nhật – Mitsubishi, và thi công cẩu thả dẫn đến việc tàu cứ chạy 1, 2 chuyến là phát sinh sự cố, tai nạn, sự việc đã rất ầm ĩ một thời! Các ông ấy ăn chỉ vài tỷ, nhưng hũy hoại luôn cả một ngành sản xuất! Nên dù là tàu vỏ thép, vỏ gỗ hay composite…

Thì để khai thác hải sản sao cho có lời… cần hội đủ tất cả điều kiện, thiếu một yếu tố nào cũng không được: vật liệu đóng tàu tốt, kỹ thuật đóng tàu đạt yêu cầu, máy móc đạt chất lượng, và kỹ thuật, kinh nghiệm đi biển bảo đảm. Nhưng không, mỗi chỗ kém một tí, mỗi chỗ lưu manh, ăn gian, ăn bớt một tí, tất cả cộng lại khiến cho việc đi biển thất bại từ trong trứng nước là điều hoàn toàn có thể dự đoán trước! Cứ phải nói thẳng là “trình độ” người Việt không đánh bắt xa bờ được, nhất là trong điều kiện thủy sản cạn kiệt, giá xăng dầu tăng, và tàu đóng theo kiểu “kinh nghiệm dân gian” không bảo đảm! Về vật liệu đóng tàu, nếu dưới 25m thì tốt nhất không nên xài tàu vỏ thép! Với những tàu nhỏ, có thể thấy composite là lựa chọn tương đối đúng đắn nhất, cả về giá thành lẫn khối lượng tàu, nhưng vẫn phải trong điều kiện làm chủ được vật liệu và kỹ thuật! Đóng được tàu là một chuyện, xài có bền không, có kinh tế hay không lại là chuyện khác! Mà ngư dân VN trong chuyện này rất… kém hiểu biết!

Các bồn nước ngọt, các thùng dầu nặng nhiều tấn cứ thản nhiên đặt la liệt ngay trên boong tàu, ảnh hưởng nghiêm trọng tới độ ổn định! Với những con tàu chuyên nghiệp, két nước, két dầu, những thứ có thể nặng đến cả chục tấn hay hơn, là phải đặt sát dưới đáy! Những chi tiết này tuy gây ra một số khó khăn kỹ thuật khi thi công cũng như khi sử dụng, nhưng lại vô cùng thiết yếu, góm phần đảm bảo an toàn khi gặp sóng to gió lớn. Cũng chưa thấy tàu cá VN nào có két nước giằng, người ngư dân họ không hiểu được cái tình huống mới nghe thì có vẻ “ngược đời” là có đôi khi, phải bơm nước vào tàu (bơm vào trong két) để tăng độ ổn định, tàu chứa nhiều nước lại… ổn định hơn tàu trống! Thêm một yếu tố nữa là việc tham lam, khai thác tải trọng tàu lên mức quá cao dẫn đến việc tàu vừa thiếu an toàn, vừa không hiệu quả về mặt chi phí nhiên liệu! Mà những chuyện đó, ngư dân họ không hiểu, cũng không ai tư vấn cho họ, còn kỹ sư VN thì ưa tán láo trên trời hơn là bắt tay vào làm việc thực tế!

hải chiến hoàng sa 1974

Trước đọc nhiều tài liệu bảo HQ VNCH đã chiến đấu anh dũng trong Hải chiến HS 1974, tôi cũng mém tin là thật. Nhưng, ngày càng có nhiều thông tin chi tiết để ta hiểu rõ hơn về diễn biến cuộc chiến này. Tóm tắt ngắn gọn, mỗi bên đều có 4 tàu, các tàu TQ đều nhỏ, cỡ 300~500 tấn, còn HQ VNCH có 2 tàu 2800 tấn (HQ-5, HQ-16), 1 tàu 1600 tấn (HQ-4), 1 tàu 650 tấn (HQ-10). Dù là tính về tải trọng hay tính về hỏa lực thì đều hơn gấp 4, 5 lần đối phương, tàu lớn hơn, nhanh hơn, nhiều pháo hơn, pháo lớn hơn, và riêng HQ-4 thì có radar dẫn bắn hiện đại. Các tàu TQ trong trận chiến đều chỉ là tàu săn ngầm, tàu quét mìn cỡ nhỏ, còn chưa được gọi là “chiến hạm”, pháo ít và nhỏ, không có radar dẫn bắn! TQ lúc đó chưa phải là TQ bây giờ, vẫn rất nghèo nàn và lạc hậu, còn Mỹ trang bị cho VNCH tuy không phải là hàng xịn nhất, nhưng so với các nước trong khu vực thì vẫn hơn hẳn.

Nhưng diễn biến trận đấu thì… HQ-4, HQ-5 bắn vu vơ 5, 7 phát rồi rút, đáng nói là có một phát bắn trúng ngay tàu “quân ta” là HQ-16! Một số sĩ quan VNCH về sau còn cho rằng ngoài HQ-16 bị trúng đạn của “đồng đội” thì có thể tàu HQ-10 cũng thế, đều bị 2 tàu “đồng đội” bắn thiệt hại nặng, mà pháo 127 ly sức công phá rất lớn, chỉ 1, 2 phát là đã có thể chìm tàu. Kết quả là tàu HQ-10 chìm, HQ-16 lết được về Đà Nẵng, còn HQ-4 và HQ-5 gần như không thiệt hại gì. Như thế là 2 tàu đã thực sự có đánh nhau với TQ thì… bị 2 tàu còn lại bắn, bắn rồi phao tin TQ đưa tàu tên lửa và máy bay ra HS (hoàn toàn không có việc này) để ngụy biện cho hành động bắn đồng đội, bỏ mặc và bỏ chạy! Chừng đó diễn biến là đã rõ, sau khi tham khảo ý kiến “quan thầy” Mỹ đã có ý nhắm mắt làm ngơ, thì HQ VNCH đâu dám làm trái ý, tự bắn người của mình và rút lui để cho TQ chiếm đảo!

Sự việc như thế, thứ nhất là tuân theo ý của ông chủ Mỹ, thứ nhì là “gắp cục than nóng” bỏ tay người, Bắc Việt lúc bấy giờ, dù xét về thế hay về lực, đều không ở vị trí tốt để bảo vệ được HS. Nhưng đó chỉ là một trong chuỗi những sự kiện “oanh liệt” của HQ VNCH. Năm 1956, Đài Loan điều tàu chiếm đảo Ba Bình, tt. Diệm ra lệnh rút, Đài Loan chiếm được đảo mà không cần nổ súng! Từ 1956 đến 1966, HQ VNCH để mất 6 đảo gần Phú Quốc vào tay Vương quốc Campuchia. Năm 1970, Philippines chiếm 7 đảo ở Trường Sa, VNCH không nói gì và cũng không làm gì cả! Và đến 1974 thì để mất Hoàng Sa theo cách rất “điếm lác” như thế! Và sau đó thì kéo cái chiến hạm lớp Các-tông (giấy) đi giễu binh, đòi phục quốc, tìm cách khủng bố cộng đồng! Dù là ở bất kỳ thể chế nào, nếu không loại trừ được những thành phần âm binh, âm hồn như thế thì xã hội không thể khá được!

jbb

Những gì được ghi chép lại trong “Junk blue book” cho thấy một môi trường hàng hải ven biển có độ “đa dạng sinh học” cao, nhiều thiết kế bản địa của VN, nhiều thiết kế thuyền là từ TQ, một số là phái sinh, phát triển từ các thiết kế TQ, có những thiết kế tàu được vay mượn từ Nhật Bản, và theo như quan sát của tôi, có cả những thiết kế vay mượn từ châu Âu mà cụ thể là Pháp, không phải là từ thời Pháp-thuộc-địa, mà là mượn từ Pháp ngay từ thời Nguyễn Ánh – Tây Sơn phân tranh! Vô cùng đa dạng và sống động là những thiết kế tàu thuyền dọc theo bờ biển VN, cứ tập-đại-thành (hay là cẩu-tạp-chủng!?) như thế, đôi lúc cho thấy có những sáng kiến kỹ thuật tương đối khéo léo! Nhưng sẽ hoàn toàn sai lầm nếu cho rằng đó là tài trí, là thông minh, phải nói rõ như vậy chứ không lại hoang tưởng!

Hình 1: ván thuyền được khoan lỗ và xỏ dây, xiết lại, sau đó được xảm bằng bột tre trộn nhựa thông, loại xảm này cứ mỗi năm là phải cạo ra làm lại một lần! Hình 2: đáy thuyền đan bằng nan tre với chỉ một ít khung gỗ, tre rẻ và dễ kiếm, nhưng độ bền cơ học không cao, cứ mỗi 5 năm là phải thay mới toàn bộ đáy tre. Hình 3: dây thừng được bện từ xơ dừa hay sợi mây, cứ 3, 4 tháng là phải thay dây mới một lần. Hình 4: buồm được dệt thô từ sợi lá cọ, cũng rất kém bền, mỗi 5, 6 tháng là phải thay mới toàn bộ buồm. Hình 5: mỏ neo làm bằng gỗ cứng, cột thêm cục đá cho nặng hơn. Hình 6: các loại thuyền VN đa số đáy bằng và nông nên độ ổn định rất kém, họ gác thêm các thanh gỗ để khi thuyền nghiêng sang một bên thì leo ra bên đối diện ngồi, như chim đu trên dây điện vậy, để cho cân tàu! :D

Kiểu “đòn cân bằng” này thực sự được dùng trong một số dạng thuyền thể dục, thể thao, nhưng tàu làm việc, tàu đi biển dài ngày mà như vậy thì không ổn chút nào, gió lớn mà sơ sảy một chút là lật ngay! Hình 7: xiếm mũi (và cả xiếm đuôi), đặt ở mũi và đuôi vì không thể đục lỗ giữa thuyền, kỹ thuật mộc chưa bảo đảm sẽ không bị rò nước, đành phải xài giải pháp… nửa vời như thế! Hình 8: đèn dầu hỏa đặt bên trong một cái chai thủy tinh để chống gió. Hình 9: lu đựng nước ngọt bằng đất, kiểu này đi biển dài ngày mà lu vỡ thì không biết làm sao? Tất cả cho thấy những giải pháp kỹ thuật rất sơ khai và tạm bợ, thiếu độ an toàn, bền bỉ, thiếu ổn định, không thể đi biển dài ngày được! Ngoài ra tác giả lưu ý: hoàn toàn không thấy có thiết bị cứu hộ, đèn tín hiệu hay bất kỳ luật lệ giao thông nào!

Đội 128

Nhiều người biết về “Đoàn 559” các con tàu không số, đi chuyến đầu tiên năm 1961, chuyên vận tải vũ khí trên biển những năm kháng chiến chống Mỹ. Thời đó, các con tàu không số có thể xem là tương đối “hiện đại”, tàu máy vỏ sắt, tải trọng có thể lên đến một vài trăm tấn, được trang bị la bàn và các phương pháp định vị thiên văn như kính lục phân (sextant). Đoàn 559 thường xuất bến từ Hải Phòng và đi khắp các vùng biển VN, phần tàu, trang bị và huấn luyện là có sự giúp đỡ nhất định từ TQ. Nhưng rất ít người biết về “Đội giao thông đường biển 128” thuộc Cục quân báo, nay là Tổng cục 2. “Đội 128” đi chuyến đầu tiên sớm hơn những 5 năm, tháng 3/1956, đội bao gồm hàng chục tàu và khoảng gần 200 người…

Những con tàu đầu tiên đóng ở Nghệ An, những chiếc sau được thuê đóng ngay tại miền Nam, do bờ biển VN rất đa dạng các kiểu dáng tàu, nên đóng tại địa phương để nhìn cho giống! Xuất bến Vĩnh Linh, Quảng Trị, thường vào Đà Nẵng, Quảng Nam rồi sau tới Quy Nhơn, Khánh Hòa, Vũng Tàu. Là tàu quân báo nên hoàn toàn chỉ mang yếu tố VN, giả dạng làm tàu đánh cá, chủ yếu là buồm (không rõ đã có trang bị máy hay chưa, lúc đó rất ít tàu cá được trang bị máy) và có giấy tờ “hợp pháp” của chính quyền SG, không làm nhiệm vụ vận tải hàng hóa mà chỉ chở người và trang thiết bị phục vụ công tác điệp báo. Hình lấy từ “Junk blue book”, hãy đọc dòng chữ viết trên lá buồm… “Tố cọng diệt cọng là yêu nước” :D

kỵ binh trâu

Nhiều “tiến sư – giáo sĩ, sử gia – giả sư” khi nghe được về “kỵ binh” thời Tây Sơn – Nguyễn Ánh, thế là chộp ngay lấy cái từ “kỵ binh” và bắt đầu huyên thuyên ngựa VN thế này thế kia. Thực ra, theo John Barrow, chúa Nguyễn có: 24 đội kỵ binh (cưỡi trâu) – 6.000 người và 16 đội tượng binh (200 con voi) – 8.000 người! Như thế là đã rõ, ngựa VN thời đó vừa ít lại vừa yếu, chắc chỉ đủ trang bị cho một số lính thông tin, còn lại là… cỡi trâu cả! Không phải là chuyện khôi hài đâu, đến thời hiện đại, một số nước như Brazil vẫn có các đội cảnh sát cưỡi trâu, Mạnh Hoạch trong truyện Tam quốc cũng cỡi trâu, nhiều nơi khác trên thế giới thời xưa cũng thế! Đơn giản là người ta không thể dùng cái người ta không có nhiều được!

Lại nghe được thêm một từ nữa là “tàu đồng, tàu bọc đồng”, thế là bắt đầu tán láo về các loại “thiết giáp hạm” nồi đồng cối đá! Thực ra lớp đồng này chỉ mỏng từ 1~3mm, chỉ bọc từ mực nước trở xuống, có tác dụng bảo vệ gỗ, không cho các loại hà, hàu đục phá, hoàn toàn không có tính năng như “giáp” bảo vệ tàu trước các loại đạn! Lại nghe được thêm một từ “súng – hải pháo” và ngồi tưởng tượng ra các con tàu được trang bị đến 60 “súng”! Súng theo nghĩa phương Tây phải là những loại từ 1.5~2.5 tấn hoặc hơn kia, không phải mấy khẩu pháo tép nặng 100kg đâu! Có những loại vô cùng “thông minh và nhanh nhạy” như thế, toàn “huyên thuyên tán láo, xào xáo ngôn từ”, không hề hiểu thực tế vận động như thế nào!