hq-671

Nhìn mãi những đường cong của HQ-671, con tàu “bảo vật quốc gia”, thực sự rất rất đẹp! Thông số: dài 31m, rộng 5.8m, lượng giãn nước 165 tấn, từ đó suy ra phần mạn ướt (draft) chỉ khoảng 1.4 ~ 1.7m, chính là thiết kế để cập trực tiếp vào những bãi biển, cửa sông nước nông. Không biết ai thiết kế con tàu này, nhưng quả thực, đường nét của nó có dáng dấp một chiếc thuyền cứu hộ (lifeboat) cổ điển được phóng to lên, với hai đầu nhọn (double-ender). Với thiết kế như thế thì thuyền sẽ tương đối kém ổn định, bắt buộc phải dùng nhiều hàng (hay két nước) để giằng tàu.

Loại tàu như thế này thường đòi hỏi người thuyền trưởng phải có hiểu biết, nhạy cảm nhất định về cách cân bằng tàu. Thường thì sẽ đem theo lượng nước ngọt, dầu máy, nhu yếu phẩm đủ dùng cho khoảng 3 tuần hải hành, nhưng cũng vì thế mà thường chỉ chở được 50 ~ 60 tấn vũ khí. Những đường cong nhìn rất vừa con mắt, mặc dù về thi công có những chỗ vẫn có thể làm tốt hơn, như chân vịt hay bánh lái hơi mong manh, không được bảo vệ tốt, khá kém nếu so với tiêu chuẩn của một thuyền cứu hộ, và cabin hơi cao, cao một cách không cần thiết!

đoàn 371

Ngoài Đoàn 125 vận tải thuộc Hải quân và đội 128 “giao thông đường thủy” thuộc Cục tình báo, còn có một đội “tàu không số” khác nữa mang số hiệu Đoàn 371, hoạt động… “công khai, hợp pháp”, do Tư Mau (Phan Văn Nhờ) làm đoàn trưởng, hoạt động dưới vỏ bọc Công ty Việt Long, đăng ký kinh doanh hợp pháp ở miền Nam, ban đầu là các tàu “buôn muối” chạy tuyến Đà Nẵng – Sài Gòn (và chạy thẳng ra Bắc nhận vũ khí). Vào vai một nhà “tư sản” hoạt động đa ngành, từ buôn muối, đánh cá, và nhiều lĩnh vực khác, sở hữu 7, 8 tàu nhiều kích cỡ, có chiếc đến 120 tấn, máy 500HP!

Công ty có cơ sở rộng khắp từ miền Trung cho đến miền Nam, hoạt động một thời gian thì bị chỉ điểm, địch phá được một số cơ sở, nhưng may mắn vẫn giữ được nhiều tàu. Chỉ huy Tư Mau phải đi viện Quân y 108 ở miền Bắc, tiến hành các đợt giải phẫu thẩm mỹ thay hình đổi dạng, đến người quen cũng không thể nhận ra, sau đó lại vào Nam xây dựng vỏ bọc mới, tiếp tục vận chuyển vũ khí trên biển. Thông tin giải mật đến ngày nay cho chúng ta biết về 3 đội tàu “không số” đó, nhưng biết đâu vẫn còn những “hạm đội bóng tối – shadow fleet” khác mà thông tin chưa giải mật! :D

tàu không số, 2

Về các con tàu không số vỏ sắt do VN tự thiết kế và tự đóng (và sau đó còn “chuyển giao bản vẽ” cho TQ đóng)… Em tin chắc là các bác ấy xạo, có thể là đã tự đóng thật, nhưng đóng ra không xài được, cuối cùng toàn phải xài tàu TQ. Theo các “ghi chép” thì các con tàu không số vỏ sắt đóng ở Tam Bạc có tải trọng (hữu ích) chừng 100 tấn, dài 28m, rộng 5.8m, động cơ 235 HP, từ đó suy ra phần mạn tàu ướt (draft) chỉ cỡ 1m, được cho là đã chạy tốt trong những cuộc rượt đuổi với tốc độ trên 10 hải lý/giờ với hải quân Mỹ và VNCH. Sẽ là vô nghĩa nếu cố tình đưa ra những thông tin rượt đuổi như vậy, vì các tàu Mỹ, như các tàu của lực lượng tuần duyên USCGC đều có tốc độ trên 16 knot, các tàu khu trục cỡ nhỏ như lớp Edsall có tốc độ đến 21 knot, các giang thuyền PCF còn nhanh hơn, đến 32 knot!

Tàu hàng nặng không cách nào đua với tàu chiến được, không nên so sánh vô lối! Và chỉ cần tính nhẩm một chút là biết ngay con số 10 hải lý/giờ đó là không thật! Dùng công thức Crouch tính xấp xỉ tốc độ tàu, tốc độ tối đa (top speed) = C / sqrt (Displacement / HP), tải trọng ~ 100 tấn ~ 220000 pound, tốc độ tối đa ~ 10.5 knot, C là hằng số có giá trị khoảng 150, thì suy ra công suất máy phải có là 1078 HP! Nhưng thông tin về máy lắp trên các tàu này là máy CHDC Đức, 235 HP! Cũng dùng công thức đó sẽ tính được, nếu máy là 235 HP thì tốc độ tối đa chỉ khoảng 5 knot thôi, muốn tăng tốc độ lên gấp đôi, 10 knot, thì công suất phải tăng theo mũ bình phương, tức là gấp 4! Hoặc phải lắp đến 4, 5 máy thì mới đạt được tốc độ trên 10 knot. Mà lắp 4, 5 máy thì phần hộp số truyền động…

Kết nối các động cơ với chân vịt không phải là chuyện đơn giản. Có rất nhiều thứ “nhỏ nhoi” nhưng không đơn giản trên một con tàu, ví dụ như stuffing-box – hộp nối trục chân vịt không cho nước thấm vào tàu, hay các hệ thống máy bơm, các loại hộp số giảm tốc là chắc chắn VN chưa làm được. Em không ngại nói thẳng như vậy, không thì các bố lại tán hưu tán vượn những chuyện hão huyền, không thật! Tự thiết kế một con tàu nhỏ, vẽ mô hình trên giấy, tính toán thông số lý thuyết… thực chất không khó, chỉ cần học sơ bộ một năm thiết kế hàng hải là làm được, đây mới là tàu nhỏ, chưa phải là “thuyền – ship”. Nhưng đóng được tàu chạy tốt, chạy bền thì… rất khó, toàn là những chuyện kỹ thuật “lặt vặt”, thực tế là đến tận ngày nay, tàu do chúng ta đóng ra vẫn chưa xài tốt được!

tàu không số

Về chiến dịch Market Time (Mỹ) hay… các con tàu không số đã thất bại như thế nào. Chuyện các con tàu không số VN trong kháng chiến chống Mỹ thì mọi người đã biết nhiều rồi, vinh quang thì nhiều và đắng cay cũng không ít. Bài này nói về cách người Mỹ đã làm thất bại kế hoạch vận chuyển trên biển của VN. Nhưng trước tiên là một vài câu chuyện bên lề, như khi bắt đầu làm một chuyện gì đó, từ lúc sơ khai cho đến lúc lão luyện, đương nhiên sẽ có rất nhiều bài học đắt giá. Năm 1963, một con tàu không số chở quá tải, vừa xuất bến đã bị hiện tượng phá nước, có nguy cơ chìm, phải điện về sở chỉ huy điều tàu ra kéo vào, may mà đã kéo kịp. Cũng trong năm 1963, một tàu giao hàng xong trên đường trở ra thì mắc cạn ở Hoàng Sa, tàu không chở hàng, nhẹ mà vẫn không cứu được, đành phải cho nổ hũy tàu. Trừ những chuyến đầu tiên trong năm 1962 là đi bằng tàu vỏ gỗ, thì các con tàu xuất bến từ năm 1963 trở về sau đều là tàu vỏ sắt, tải trọng khoảng 100 tấn! Lưu ý đây là tải trọng tối đa, thực tế lượng vũ khí chở trên tàu chỉ khoảng 40~60 tấn mà thôi. Khi trở ra chạy tàu rỗng, kém ổn định nên các thủy thủ chặt nhiều cây dừa nước xếp vô trong khoang. Về đến bến K15 Hải Phòng thì vứt đại mấy cây dừa nước xuống biển.

Mấy cây dừa nước này nảy nở sinh sôi làm người dân địa phương sinh nghi vì họ biết rằng dừa nước là giống cây chỉ có ở miền Nam, miền Bắc không có. Mà bến K15 là tuyệt mật, ngay cả chính quyền tp. Hải Phòng chỉ biết là cơ sở quân đội chứ không biết bên trong làm gì. Sau vụ này, bến K15 cho người đi nhổ sạch mấy cây dừa nước và… tổ chức họp rút kinh nghiệm về công tác bảo mật! :D Năm 1963, đi 22 chuyến đều thành công, giao 1318 tấn vũ khí! Năm 1964, đi 55 chuyến đều thành công, giao 2971 tấn vũ khí! Năm 1965 đi 18 chuyến, 15 chuyến thành công, giao 810 tấn vũ khí, sau sự kiện tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô thì người Mỹ tăng cường các biện pháp phòng chống “cộng sản xâm nhập”, và phải nói các biện pháp này khá hiệu quả. Năm 1966 đi 8 chuyến chỉ có 2 chuyến thành công! Năm 1967 đi 5 chuyến đều thất bại! Năm 1968 đi 8 chuyến đều thất bại! Năm 1969 tổ chức 4 chuyến có 2 chuyến thành công! Năm 1970 tổ chức 17 chuyến có 6 chuyến thành công. Năm 1971, tổ chức 15 chuyến, chỉ có 2 chuyến thành công, Năm 1972, tổ chức 12 chuyến cũng chỉ có 2 chuyến thành công. Như vậy, cho đến khi Hiệp định Paris được ký kết và người Mỹ rút khỏi VN thì họ đã khá thành công trong việc ngăn chặn các con tàu không số.

Người Mỹ đã thử nghiệm nhiều cách thức khác nhau, nhưng đến cỡ năm 1965 thì họ đã hoàn thiện “quy trình làm việc”, dùng các con tàu “radar picket escorts” giám sát mặt biển, những loại “SC radar” lúc đó có tầm hoạt động không quá lớn, tối đa chỉ khoảng 120km. Khi phát hiện được những tàu khả nghi thì cho máy bay ra quan sát, chụp ảnh, và khi đã xác định là “đối tượng tình nghi” thì dùng các tàu khu trục cỡ nhỏ để theo dõi, đeo bám. Các con tàu không số của VN dùng chiến thuật phổ biến là lảng vảng ở ngoài vùng biển quốc tế, tìm cơ hội, chờ đối phương sơ hở là đâm thật nhanh vào bờ, dỡ hàng ngay trong đêm và rời đi vào sáng hôm sau. Phía Mỹ biết rõ quy luật nên tổ chức theo dõi, đeo bám rất sát sao. Ở đây có một điểm cần lưu ý, người Mỹ, dù biết rõ đó là các tàu VN chở vũ khí thâm nhập miền Nam, nhưng họ chỉ tổ chức đeo bám chứ không tấn công, cũng không đâm va. Chỉ khi nào tàu VN tìm cách xâm nhập vào gần bờ thì mới điều các tàu chiến cỡ nhỏ ven bờ ra vây bắt. Đây là một trong những “quy tắc giao chiến – rules of engagement” của người Mỹ, nếu tàu còn ở trong hải phận quốc tế thì… vẫn có quyền tự do đi lại. Đã có nhiều tình huống, các con tàu không số bị đeo bám, theo dõi quá sát sao…

Không đi tiếp được, phải quay trở ngược ra Bắc. Người Việt chúng ta thường ngạc nhiên trước các quy tắc giao chiến này, đã đánh nhau thì còn quy tắc gì nữa, thực ra không phải vậy! Chiến tranh cũng phải có luật lệ, quy tắc, điều đó rất thường khi là có lợi cho các bên tham chiến. Một điểm đáng lưu ý là, nếu lúc đó, chúng ta quay trở lại sử dụng các con tàu vỏ gỗ, thì cơ hội, xác suất thành công sẽ cao hơn rất nhiều, do vỏ sắt phản xạ radar tốt, trong khi vỏ gỗ hấp thu tín hiệu radar, làm cho đối phương rất khó dò tìm. Nhưng đáng tiếc là, và phải nói thẳng là, các con tàu vỏ gỗ đóng theo kiểu truyền thống VN (không có sống đáy) chỉ có thể làm tàu đánh cá mà thôi, không đủ độ cứng cáp, vững bền để chở đến 50, 60 tấn vũ khí và thực hiện các hải trình khó khăn, phức tạp. Và dù có nhiều thông tin về một vài con tàu 100 tấn vỏ sắt do chúng ta tự thiết kế, tự đóng ở Tam Bạc nhưng đọc các con số cũng luận ra được nhiều điều bất hợp lý, xài được hay không là một dấu chấm hỏi (đến tận ngày nay, các con tàu chúng ta tự đóng có xài được hay không cũng vẫn là dấu hỏi), và thực tế là, do Mỹ đánh phá bằng không quân ác liệt, nên các con tàu không số do Đoàn 125 sử dụng phần nhiều đều là do nước bạn TQ đóng!

“thảm sát mậu thân – 1968”

Chủng qua đắc qua,
Chủng đậu đắc đậu.
Thiên võng khôi khôi,
Sơ nhi bất lậu.

Nhân cái gọi là “thảm sát Bucha” (Bucha massacre) được cho là đã xảy ra gần đây trong cuộc chiến Nga – Ukraine, nói về một “vụ thảm sát” lớn hơn ít nhất 10 lần: Huế – Mậu thân – 1968. Về Bucha, chính quyền Nga chỉ đưa ra một thông báo bác bỏ ngắn gọn, gọi đó là tin giả, rồi im lặng không nói gì để mặc cho các hệ thống thông tin thân Tây phương hoành hành, tạo ra một rừng “thông tin, chứng cứ” như đúng rồi luôn. Thoạt đầu tôi không hiểu tại sao lại để cho sự việc như vậy, nhưng khi liên hệ lại với “vụ thảm sát” Huế năm 1968 thì luận ra được nhiều điều tương tự, chính quyền VN cũng đã im lặng, mà im đến mấy chục năm, không đưa ra một lời giải thích thỏa đáng nào. Vì sao lại có sự im lặng đáng sợ như vậy, đến mức người VN như tôi cũng có lúc đã nhầm tưởng rằng “vụ thảm sát” này là có thật.

Đầu tiên phải nói Huế là nơi duy nhất trong toàn bộ chiến dịch Mậu thân mà quân Giải phóng đã làm chủ hoàn toàn một thành phố trong 26 ngày, đây là một đòn chí mạng khi chỉ với binh lực chỉ khoảng 8000 người đã tạo ra được một thế trận nguy hiểm với người Mỹ. Thực sự là… đã có một số “giết chóc” xảy ra, chủ yếu là khi đã làm chủ thành phố, quân Giải phóng yêu cầu một số sĩ quan, viên chức VNCH phải ra trình diện, một số người đã chống lệnh, cố thủ từ trong nhà bắn ra! Còn các đơn vị dân quân địa phương, những người có nhiều người thân trong gia đình bị Mỹ – Ngụy bắt bớ, tra trấn, tù đày, thủ tiêu… nhân cơ hội này, chỉ chờ các quan chức VNCH chống lệnh là… nổ súng tiêu diệt. Sự căm phẫn của quần chúng lúc đó, các chỉ huy tại hiện trường không thể kiểm soát hết được!

Nên nói như ông Lê Tư Minh, bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên lúc đó, chính quyền nợ những “nạn nhân” này một lời xin lỗi, đó là sự “phẫn uất, tự tác” của một số thành phần. Nhưng thực ra số những vụ “giết chóc” này không nhiều, cùng lắm thì cũng chỉ vài trường hợp mà thôi. Nhưng sau đó thì người Mỹ đánh vào Huế với hỏa lực chưa từng có của hạm đội và phi đội, một hạm đội lớn với hơn 160 tàu chiến các cỡ, với những hải pháo cỡ nòng rất lớn và cả máy bay B-52 cũng được huy động để ném bom rải thảm vào thành phố! Không có những con số thống kê chính xác nhưng ước tính khoảng 80% các ngôi nhà trong thành phố bị phá hũy hoàn toàn, từ 5~10% dân số thành phố đã chết vì pháo kích và không kích của Mỹ, về số dân thường đã thiệt mạng, ước tính đâu đó khoảng 3~6 ngàn người.

Những người chết được dân chúng và quân Giải phóng chôn cất vội vàng, tạm bợ do hoàn cảnh chiến tranh. Đến khi người Mỹ phản công, chiếm lại được thành phố thì là cả một đống hoang tàn như thế, quân GP hy sinh khoảng 2 ngàn, số người dân chết vì hỏa lực Mỹ thì nhiều gấp 2, 3 lần, thậm chí có thể hơn! Để tránh một bê bối truyền thông, để che dấu cái “collateral damage” quá lớn, thì người Mỹ cho đào các hố chôn lên, rồi dựng vở kịch Việt cộng đã thảm sát người dân vô tội, là VC chứ không phải là người Mỹ nhé! Bộ máy truyền thông được huy động, vô số bài được viết, cái chiêu “nói ngược” của đám lưu manh vẫn luôn như thế, kéo thêm vào vài đám “văn nghệ sĩ, bồi bút tay sai”, viết văn làm thơ, khóc lóc thảm thiết, như thế mới tạo ra được dư luận thuyết phục được đám đông.

Noam Chomsky, trong “Tài liệu về Kinh tế và Nhân quyền” tập 1, cho rằng vụ việc đã bị mô tả một cách sai lệch, bị thổi phồng, bị tô vẽ nhằm mục đích tuyên truyền. “Đó là những thường dân bị chết do những trận bom pháo Mỹ đã san bằng thành phố Huế. Rồi sau đó khi Mỹ và quân đội Sài Gòn phản kích trả thù lại cũng giết chóc rất nhiều. Thứ nữa là lực lượng quân Giải phóng đã tử trận trong lúc chiến đấu. Tất cả đều là người Việt với nhau và Mỹ tính gộp vào hết. Tất cả những điều đó được Mỹ dựng thành một vụ thảm sát tưởng tượng!” Nhà báo Italy là Oriana Fallaci trong bút ký cho biết khoảng 1100 người đã bị giết khi quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân Mỹ tái chiếm Huế, hầu hết người bị giết là giáo viên, giảng viên, sinh viên đại học, tu sĩ, trí thức và tín đồ tôn giáo!

Phía VN đương nhiên hiểu rõ đây là thủ đoạn tâm lý chiến của người Mỹ, nhưng họ im lặng, và đã im lặng suốt mấy chục năm, vì sao như thế!? Tội ác của Mỹ – Ngụy đâu phải chỉ có Mậu Thân đâu, vô số thành phần dân chúng, cộng sản có, không cộng sản có, các tín đồ Phật giáo bị hệ thống mật vụ VNCH và CIA Mỹ bắt bớ, tra tấn, thủ tiêu, sự giết chóc khủng bố có hệ thống! Như tên Nguyễn Phúc Liên Thành, chỉ một viên thiếu tá nhỏ nhoi, chỉ huy cảnh sát Huế, đã giết không biết bao nhiêu người, thủ tiêu cả thầy dạy học của mình (Ngô Kha), giết luôn cả người bạn thân nhất đã ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu từ nhỏ, rất nhiều vụ chỉ vì thù ghét cá nhân hay các động cơ đê hèn khác! Đến cả hội đồng Nguyễn Phúc tộc phải ra thông báo phủ nhận mọi liên quan đến tên giết thầy, giết bạn này!

Mà thủ đoạn của đám mật vụ thì để lại rất ít chứng cứ để có thể điều tra kết án! Phải im lặng, chấp nhận một cái “án oan” vô cùng lớn như thế trong suốt hàng chục năm, tạo ra cái ảo tưởng là chúng nó đã thành công trong việc tạo ra màn kịch “thảm sát”! Phải có một thời gian dài để có thể đối chiếu, kiểm tra, truy tìm án tích, và quan trọng là, giống hệt như trong các phim cổ trang TQ, dựng ra các màn kịch, các tình huống để những kẻ thủ ác tự để lộ thông tin, tự bộc lộ chính bản thân! Suy cho cùng, với quá nhiều tội ác mà chúng nó đã gây ra, thì sẽ không thể ngủ yên được trong nhiều thập kỷ sau đó, chúng nó sẽ tìm cách che dấu, lấp liếm, và thực tế là, tiếp tục tạo ra nhiều vụ việc mới để che lấp các vụ án cũ! Cuộc chiến qua đi khiến chúng ta hiểu hơn về con người, về lịch sử như thế!

Cứ như thế, đi qua hết thằng thực dân này đến thằng đế quốc khác, chúng ta đều bị “dắt mũi” trong những cuộc chiến thông tin, tâm lý. Từ thời Pháp, chúng đã tạo ra cả một màn “sương mù thông tin”, gieo rắc nghi ngờ và thù hận! Đến thời Mỹ lại càng bài bản hơn, xuất bản thành vô số sách vở, tài liệu, làm thành phim ảnh, “phổ cập tin tức” đến mọi người, lặp đi lặp lại trong suốt nhiều năm, người này “tham chiếu” người kia, đổi trắng thành đen, thị phi điên đảo, tất cả đều nằm trong những bài bản đã chuẩn bị trước! Đến tận ngày nay trên wikipedia, nhất là mục tiếng Anh vẫn chủ yếu là thông tin đơm đặt một chiều từ phía Mỹ. Những thủ đoạn đó đã vô cùng hiệu quả, cơ bản đối với một dân tộc không tự nhìn rõ được bản thân, không tạo dựng được niềm tin và giá trị cộng đồng!

hải chiến hoàng sa 1974

Trước đọc nhiều tài liệu bảo HQ VNCH đã chiến đấu anh dũng trong Hải chiến HS 1974, tôi cũng mém tin là thật. Nhưng, ngày càng có nhiều thông tin chi tiết để ta hiểu rõ hơn về diễn biến cuộc chiến này. Tóm tắt ngắn gọn, mỗi bên đều có 4 tàu, các tàu TQ đều nhỏ, cỡ 300~500 tấn, còn HQ VNCH có 2 tàu 2800 tấn (HQ-5, HQ-16), 1 tàu 1600 tấn (HQ-4), 1 tàu 650 tấn (HQ-10). Dù là tính về tải trọng hay tính về hỏa lực thì đều hơn gấp 4, 5 lần đối phương, tàu lớn hơn, nhanh hơn, nhiều pháo hơn, pháo lớn hơn, và riêng HQ-4 thì có radar dẫn bắn hiện đại. Các tàu TQ trong trận chiến đều chỉ là tàu săn ngầm, tàu quét mìn cỡ nhỏ, còn chưa được gọi là “chiến hạm”, pháo ít và nhỏ, không có radar dẫn bắn! TQ lúc đó chưa phải là TQ bây giờ, vẫn rất nghèo nàn và lạc hậu, còn Mỹ trang bị cho VNCH tuy không phải là hàng xịn nhất, nhưng so với các nước trong khu vực thì vẫn hơn hẳn.

Nhưng diễn biến trận đấu thì… HQ-4, HQ-5 bắn vu vơ 5, 7 phát rồi rút, đáng nói là có một phát bắn trúng ngay tàu “quân ta” là HQ-16! Một số sĩ quan VNCH về sau còn cho rằng ngoài HQ-16 bị trúng đạn của “đồng đội” thì có thể tàu HQ-10 cũng thế, đều bị 2 tàu “đồng đội” bắn thiệt hại nặng, mà pháo 127 ly sức công phá rất lớn, chỉ 1, 2 phát là đã có thể chìm tàu. Kết quả là tàu HQ-10 chìm, HQ-16 lết được về Đà Nẵng, còn HQ-4 và HQ-5 gần như không thiệt hại gì. Như thế là 2 tàu đã thực sự có đánh nhau với TQ thì… bị 2 tàu còn lại bắn, bắn rồi phao tin TQ đưa tàu tên lửa và máy bay ra HS (hoàn toàn không có việc này) để ngụy biện cho hành động bắn đồng đội, bỏ mặc và bỏ chạy! Chừng đó diễn biến là đã rõ, sau khi tham khảo ý kiến “quan thầy” Mỹ đã có ý nhắm mắt làm ngơ, thì HQ VNCH đâu dám làm trái ý, tự bắn người của mình và rút lui để cho TQ chiếm đảo!

Sự việc như thế, thứ nhất là tuân theo ý của ông chủ Mỹ, thứ nhì là “gắp cục than nóng” bỏ tay người, Bắc Việt lúc bấy giờ, dù xét về thế hay về lực, đều không ở vị trí tốt để bảo vệ được HS. Nhưng đó chỉ là một trong chuỗi những sự kiện “oanh liệt” của HQ VNCH. Năm 1956, Đài Loan điều tàu chiếm đảo Ba Bình, tt. Diệm ra lệnh rút, Đài Loan chiếm được đảo mà không cần nổ súng! Từ 1956 đến 1966, HQ VNCH để mất 6 đảo gần Phú Quốc vào tay Vương quốc Campuchia. Năm 1970, Philippines chiếm 7 đảo ở Trường Sa, VNCH không nói gì và cũng không làm gì cả! Và đến 1974 thì để mất Hoàng Sa theo cách rất “điếm lác” như thế! Và sau đó thì kéo cái chiến hạm lớp Các-tông (giấy) đi giễu binh, đòi phục quốc, tìm cách khủng bố cộng đồng! Dù là ở bất kỳ thể chế nào, nếu không loại trừ được những thành phần âm binh, âm hồn như thế thì xã hội không thể khá được!

biệt động sài gòn

Ngày càng có nhiều thông tin được giải mật, như vụ cướp máy bay trực thăng UH-1 ở Đà Lạt, trước đây chỉ xem như tin đồn, huyền thoại chưa biết có thật không thì giờ đã được chứng thực. Sự việc cướp máy bay hết sức ly kỳ này đã được “mượn” thành một tình tiết trong bộ phim “Cuộc chiến xa lạ” do người Nga làm cách đây vài năm!

Nhiều thông tin vẫn phải “đọc giữa các dòng chữ – read between the lines”, như cô bé mồ côi ở Quảng Ngãi không phải vô tình mà đi SG làm người giúp việc, đều là do tổ chức xếp cả, hay “tình cờ” đọc lá thư cũng là bài test, nếu vượt qua được bài kiểm tra này thì xin chúc mừng, bạn đã trở thành ứng viên cho các đội Biệt động Sài Gòn!

Để trở thành thành viên các tổ điệp báo, bạn cần phải thông minh, gan dạ hơn người, ngoại ngữ giỏi, thậm chí có thể được gởi đi nước ngoài học làm “quân bài dự phòng” về sau! Để trở thành thành viên các đội biệt động, phần đông đó là những đứa trẻ đã bị “traumatized” vì chứng kiến các tội ác của người Mỹ, họ chỉ một ám ảnh là phải báo thù…

30/4

Người ngoài có thể họ không hiểu về Chiến tranh VN, chứ với người trong cuộc, đó chỉ là một vòng lặp “for” vô cùng đơn giản: năm 1964 thử lửa với quân Mỹ ở Quảng Nam một lần đầu, năm 1968 đánh một trận lớn Mậu Thân, năm 1972 lại đánh một trận lớn “Mùa hè đỏ lửa”, và theo dự kiến là thống nhất đất nước trong năm 1976, nhưng tình hình đã phát triển nhanh hơn thế.

Những vòng lặp theo chu kỳ 4 năm một lần này là thấy rất rõ, cứ gom gom “đủ lúa” là lại đi đánh một trận lớn (thực sự thì VN không có đủ nguồn lực để mà dàn trải), và cũng có thể có thêm một nguyên nhân nữa là dự tính các thời điểm song hành với các kỳ bầu cử Tổng thống Mỹ cứ 4 năm một lần… Và cứ lặp như thế cho đến khi nào thành công thì thôi… :)

Giờ chúng nó nói như đúng rồi vậy: ah, người Mỹ cũng đã phải chịu nhiều đau khổ trong chiến tranh VN, đau khổ kiểu: nhà giàu đứt tay, ăn mày đổ ruột! Khoảng 16 triệu tấn thuốc nổ đã được dùng ở VN (là tính theo khối lượng thuốc nổ chứ không phải khối lượng vũ khí), nhiều gấp 3, 4 lần tổng Thế chiến 2 cộng lại, trung bình mỗi người VN chịu khoảng 400 kg!

địa đạo

Đây là một trong số rất ít những phim mình ra rạp xem đàng hoàng, phim đầu tiên là “Hà Nội trong mắt ai”, phát hành 1983… ah, mà đó là chuyện của 40 năm trước! Nhìn chung với một phim Việt Nam thì Địa đạo rất ổn, từ các cảnh quay, ánh sáng, màu sắc cho đến hiệu ứng khói lửa, bom nổ, đường đạn bay… đều rất thực và đẹp mắt. Câu chuyện kể lại trong phim hoàn toàn là sự thật lịch sử, được nói rõ trong phần giới thiệu, nhóm điệp báo H.63 của Phạm Xuân Ẩn (Hai Trung) và Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) trong nhiều năm, sử dụng nhiều couriers – liên lạc viên để chạy mật thư từ Sài Gòn ra Củ Chi, từ đây mật thư sẽ được gởi qua sóng radio ra Hà Nội.

Một nguồn phát sóng radio cứ như thế hiện diện suốt nhiều năm liền tại Củ Chi như một cái gai trong mắt người Mỹ và họ sẽ làm mọi cách để nhổ cái gai đó! Như Nguyễn Văn Thương, một liên lạc viên thường xuyên chạy xe Honda giữa Sài Còn và Củ Chi, một hôm bị người Mỹ phát hiện và theo dõi! Viên phi công trực thăng vì nôn nóng muốn đổ quân xuống bắt sống nên đã phạm phải một sai lầm chết người, hạ thấp trực thăng xuống sát mặt lộ, từ khoảng cách rất gần, Hai Thương nổ liền 2 phát súng ngắn hạ trực thăng rơi! Không hiểu sao chi tiết đắt giá như vậy lại không đưa vào phim, có lẽ vì số phận Hai Thương là một câu chuyện bi thảm khác!

Tình huống cảm động nhất trong phim theo mình là chuyện Út Khờ mang thai, nhưng chưa rõ ai là cha. Trước tình huống như thế, đội du kích đã quyết định tổ chức… một đám cưới giả giữa Út Khờ với… đội trưởng Bảy Theo! Một cái đám cưới giả được quyết định và tổ chức thành công sau… 5 giây, có cả hoa, cả bánh! Đã có người đứng ra “nhận trách nhiệm”, trước sự việc đã rồi, cấp trên không thể nói gì hơn được và theo thông lệ, phải rút Út Khờ ra khỏi vùng giao chiến, như thế hai mẹ con cô ấy sẽ có cơ hội sống! Đó chính là tâm tư, tình cảm của những người du kích, họ không có chức vụ, cấp bậc gì để mất và sẵn sàng bao che đồng đội như vậy!

Chuyện nhiều “giang cư mận” phê phán cảnh nóng trong phim, nói như đúng rồi luôn. Nếu đã xem phim thì sẽ thấy mấy cái “cảnh nóng” đó chỉ mang tính ước lệ, tượng trưng mà thôi, còn chưa lộ chút da thịt nào. Nếu là đơn vị quân đội chính quy thì chắc chắn sẽ có vài án kỷ luật từ trên rơi xuống. Nhưng đây là du kích, các căn hầm đào ngay dưới nhà của họ, hàng ngày họ vẫn chui lên trồng rau, nuôi gà, v.v.. đó chính là cuộc sống thường ngày của họ, nếu không thì rất nhiều những đứa trẻ sinh ra trong chiến tranh ở Củ Chi từ đâu mà chui ra!? Nên kiểu có nhiều người không hiểu gì về thực tế lịch sử nhưng vẫn cứ ưa tìm chuyện nói ra nói vào!

Những lời thoại trong phim có nhiều chỗ khá đạt, như đoạn một cô du kích, bị ép tập các bài võ cận chiến với dao găm quá nhiều đã than thở vì mệt: tụi em chỉ là du kích thôi, đâu có phải bộ đội đặc công đâu mà… Đội trưởng Bảy Theo quát: mày đi nói chuyện đó với tụi Mỹ á, có khi nó còn gắn cho mày huy chương! :D Cái băn khoăn xuyên suốt bộ phim của người anh cả, đội trưởng luôn là: tụi nó còn nhỏ quá, còn “xanh” quá, sợ “chơi không lại tụi Mỹ”. Tuy phần phụ đề tiếng Anh không tệ, nhưng vẫn phải nói là chưa thực sự được như ý tôi, chưa tìm được cách truyền đạt tốt sắc thái ý nghĩa của lời thoại gốc, nhiều chỗ vẫn kiểu… dịch cho có!

Mình thuộc dạng coi phim vô cùng lý tính và xét nét, nên không khó nhận ra một vài chỗ còn chưa được hợp lý hay có chút khiên cưỡng trong phim. Và những chỗ sai về vật lý đương nhiên nhìn ra khá nhiều, như cách nấu thuốc nổ dẻo (plastic explosive) trong phim thì hầu như chắc chắn là nó sẽ nổ, cuối phim có chiếu lại một đoạn tài liệu đen trắng cũ, chính trong đoạn phim tài liệu đó lại thể hiện cách thức tương đối đúng! Nhưng tóm lại đây là một phim rất đáng xem, dù các cảnh quay có hơi “rubato” (thuật ngữ âm nhạc), nói một cách gần đúng là nhịp độ không được chuẩn, các tình huống thắt nút, cao trào lý ra vẫn có thể làm cho hấp dẫn hơn!

Về chi tiết cuối phim, một người lính Mỹ trong đội quân “chuột chũi” chui vào trong địa đạo, bị thương và được cứu sống, cho nằm trên chiếc bè ven sông, nhiều người cho rằng chi tiết này tuy “nhân văn” nhưng hơi “cường điệu”. Theo tôi thì, không có gì là “cường điệu”, thậm chí cũng chẳng có gì là “nhân văn” trong tình huống này, đó chỉ là sự thật thực dụng của chiến tranh. Nên nhớ rằng, một tù binh Mỹ còn sống dù thế nào cũng là một “tài sản đáng giá”, có thể dùng để “trao đổi” khá nhiều thứ, kể cả các quân nhân Việt Nam bị phía Mỹ bắt. Thế nên phía Việt Nam nhiều khi phải rất cố gắng để giữ cho tù binh còn sống để có thể làm món hàng trao đổi!

Trong thời gian 15 năm, từ 1961 đến 1975, chỉ riêng mạng lưới điệp báo H.63 đã sử dụng khoảng 45 couriers – liên lạc viên để truyền tin, 27 người trong số đó bị bắt, tra tấn… nhưng không một ai khai ra điều gì, mạng lưới vẫn đứng vững và thông tin vẫn không ngừng tuôn chảy. Nếu tính rộng ra cả số du kích, bộ đội đã hy sinh khi tham gia bảo vệ đường dây thông tin này, trực tiếp hay gián tiếp, thì có khi thiệt hại là không đo đếm được! Nên phim chỉ là một lát cắt nhỏ, chỉ vài tuần trên một dòng chảy thời gian nhiều chục năm, chỉ một vài khoảnh khắc đại diện, ngắn gọn cho thấy cha ông chúng ta đã sống, đã chiến đấu chống ngoại xâm như thế nào!

điệp báo

Xem các phim Trung Quốc xoay quanh chủ đề “Dân quốc” thấy có rất nhiều phim hấp dẫn, đây là giai đoạn có nhiều sử liệu để có thể làm phim hay! Nam – Bắc phân chia, Quốc – Cộng tranh đấu, cuộc chiến thông tin, gián điệp và phản gián. Phim Việt Nam trong mảng này khá ít, và chưa khai thác được hết sự sống động của lịch sử, mà lịch sử Việt Nam giai đoạn này lại vô cùng sống động, nhiều sự kiện, biến cố khốc liệt, nhiều chuyện nằm ngoài sức tưởng tượng của nhiều người! Thế nhưng vẫn do kiểu suy nghĩ cũ, hay vì những lý do khác nào đó, mà lại tránh nói tới, tránh đề cập sâu, không lột tả hết được sự biến động phức tạp của thời cuộc!

Những điệp viên bị bắt, cột đá thả sông, những cậu bé bán báo, đánh giày làm trinh sát cho Biệt động thành! Hay một tình huống vô cùng hy hữu, một giao liên bắn rơi trực thăng bằng… 2 phát súng ngắn, những điệp báo viên đánh ma-níp gởi vô tuyến điện nhưng không biết chữ, vì điện đã được mã hóa thành các con số, chỉ cần học đủ 10 chữ số với một ít mã Morse là làm được! Cả những tình huống trớ trêu, điệp viên vào vai thầy giáo dạy toán, nhưng đưa bài toán cấp 2 không giải được, hay dùng căn cước giả qua trạm kiểm soát bị phát hiện nhưng lại được thả: về làm lại giấy đi, giấy kiểu này đi chỉ có chết! :D Tất cả đều là sự thật lịch sử!

công nghệ quốc phòng

Thử nhìn lại 2 sự kiện: năm 1858 – 1859, liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng với 3000 quân, đội tàu 14 chiếc, soái hạm là chiếc Némésis tải trọng 2300 tấn, 50 pháo! Quân triều đình có khoảng 7 ngàn người, nhìn chung là đã phòng thủ hiệu quả, khiến cho liên quân Pháp – Tây Ban Nha chịu thiệt hại và phải rút lui. 15 năm sau, 1873, chỉ với 180 lính (!!!) do viên trung úy Francis Garnier chỉ huy cùng hai tàu pháo (tàu nhỏ, còn chưa được gọi là chiến hạm) tấn công thành Hà Nội, khoảng 7000 quân triều đình tan vỡ, tháo chạy! Có điều gì rất “không đúng” khi so sánh hai trận đánh cách nhau 15 năm này, dù cả hai trận, bên phía VN đều có cùng một người chỉ huy là Nguyễn Tri Phương! Điều gì khiến cho một bên chỉ có 180 lính lại dám tấn công một bên có đến 7 ngàn quân!?

Điều “không đúng” đó chính là… công nghệ! Năm 1858, tuy tàu Pháp to, pháo lớn, nhưng đa số vẫn là loại bắn đạn gang tròn, nạp từ phía trước, công nghệ cơ bản gần giống như thứ nhà Nguyễn sở hữu! Tại thời điểm 1873, đó đã là các loại hải pháo cỡ nòng lớn, nạp đạn đằng sau, dùng đạn trái phá (đạn có nhồi thuốc nổ)! Sau vài loạt đạn đầu tiên, với sức công phá khủng khiếp của nó thì bên phòng thủ đã kinh hoàng bỏ chạy hết cả! Đạn trái phá được người Nga dùng lần đầu tiên trong Hải chiến Sinop, 1853, nhưng phải mất một thời gian để công nghệ này trở nên phổ biến! Nửa cuối TK 19 chứng kiến sự thay đổi đến chóng mặt về công nghệ quốc phòng: tàu buồm vỏ gỗ (ship of the line), rồi tàu buồm vỏ gỗ có dùng phụ thêm động cơ hơi nước (paddle steamer, screw steamer)…

Rồi tàu buồm vỏ gỗ bọc sắt dùng động cơ hơi nước và đạn trái phá (ironclad), rồi tiến dần lên tàu vỏ sắt / thép dùng động cơ steam – turbine, không xài buồm nữa (Dreadnought), kèm theo đó là công nghệ súng đạn mới, tất cả thay đổi nhanh đến chóng mặt, một con tàu mới đóng ra chưa đến 10 năm đã thành lạc hậu. Nên nhiều khi chúng ta học lịch sử theo kiểu chỉ lặp lại một số sự kiện chứ không thật sự hiểu được các yếu tố kỹ thuật, công nghệ nền tảng bên dưới! Cũng trong thời gian đó, nhà Thanh ở Trung Quốc quả thực đã có nỗ lực cải cách, họ đã tự sản xuất được súng trường hiện đại và một vài loại pháo nhỏ, nhưng rút cuộc vẫn không thể cứu vãn được thời cuộc, vì cái sự thua sút về kỹ thuật công nghệ này quá lớn, phải mất nhiều thế hệ để vượt qua.

Winchester 1866

“Cơm vua áo chúa hưởng bấy lâu, Đến khi có giặc phải thuê Tàu…” Câu thơ của Ông Ích Khiêm đó là nói về đội quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, “đánh thuê” cho nhà Nguyễn để chống lại thực dân Pháp! Mà cái yếu tố duy nhất khiến quân Cờ đen có thể đối chọi lại với người Pháp chính là… khẩu súng trường Winchester. Được xem là khẩu súng của miền viễn Tây, thường thấy trong các phim cao bồi Mỹ, có thể nạp đến 7 viên đạn trong một ống chạy song song dưới nòng súng, loại súng mà sự xuất hiện của nó khiến người ta phải thốt lên: nó bắn từ Thứ hai cho đến Chủ nhật!!!

Là ám chỉ cái khả năng nạp 7 viên đạn của nó, vô cùng tiên tiến nếu so với các loại súng hỏa mai mất cả phút vẫn chưa nhồi xong một viên đạn, chưa nạp xong đạn thì bên kia đã bắn 7 phát rồi! Nhưng vẫn chưa rõ phiên bản Winchester mà quân Cờ đen xài là loại đạn vỏ giấy, hay đã là loại đạn vỏ đồng hiện đại! Nhà Nguyễn trả lương cho quân Cờ đen, để họ cùng phối hợp chống Pháp! Nhưng hầu như chỉ có quân Cờ đen đánh thật mà thôi, lính VN… ở phía sau hò reo trợ chiến là chính, đơn giản là không thể tham chiến khi chỉ có đao kiếm và một ít súng hỏa mai cổ lỗ sĩ được.

Sự nhanh nhạy cộng với khả năng giao thương bằng thuyền buồm rộng khắp khiến cho người TQ mua được nhiều vũ khí hiện đại! Tuy không thể có thuyền to, pháo lớn như người Pháp, nhưng so với súng trường Chassepot của Pháp thì Winchester vẫn cùng một thế hệ, vẫn “bám thắt lưng địch mà đánh”, vẫn ở thế có thể cầm cự được! Nên phải hiểu các yếu tố kỹ thuật đóng một vai trò sống còn, khi thành Ninh Bình do 1700 quân Việt giữ lại… đầu hàng một nhóm lính Pháp chỉ có… 7 người, chiếm cả đồng bằng Bắc bộ, người Pháp dùng chưa đến 300 quân!

reenactment

Tái hiện khá phù hợp với lịch sử, người đứng vẫy tay trên xe là Bác sĩ Trần Duy Hưng, thị trưởng đầu tiên của Hà Nội, chọn người “đóng thế” rất giống về khuôn mặt, hình dáng. Người ngồi cùng xe, ghế trước là Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, đại đoàn trưởng đại đoàn 308, trông cũng khá giống. Người dẫn đầu đoàn quân đi bộ, tay ôm rất nhiều hoa, là trung đoàn trưởng trung đoàn Thủ Đô, anh hùng Nguyễn Quốc Trị.

Những điều này được đông đảo phóng viên ảnh của nhiều nước ghi lại. Nhưng đầy đủ, sinh động nhất là trong bộ phim phóng sự tài liệu “Việt Nam” do đạo diễn Liên Xô Roman Karmen thực hiện, 1954 ~ 1955! Lịch sử thuộc về những người đã đổ máu đề biến nó thành hiện thực, chứ không thuộc về những kẻ “đứng bên lề” tìm cách nói ra, nói vào, và cũng chỉ nói thôi chứ không dám động tay động chân làm gì cả!

Sabotage

Về cách thức phá hoại, đặt thuốc nổ trong máy nhắn tin, bộ đàm, laptop mà Israel đã thực hiện, việc này hoàn toàn không có gì mới! Chúng nó sẽ vừa ăn cướp, vừa la làng như thế, sau khi thực hiện mưu đồ xong, thì sẽ quay sang buộc tội ngược: các bạn hãy đề phòng vì Nga và TQ sẽ làm như vậy! Trong chiến tranh VN, người Mỹ cũng đã dùng đến chiêu này, đạn AK được nạp một liều thuốc nổ mạnh gấp 5 lần, mạnh đến nổi đẩy bệ khóa nòng ngược vào mặt người bắn, hay đạn cối được tráo ngòi, khiến nó nổ ngay trong nòng súng! Sau khi làm giả đạn, họ sẽ cố tình dàn cảnh khéo léo để cho Quân giải phóng lấy được, thường là dưới hình thức những gùi đạn giống hệt như cách thức người VN vận chuyển. Số lượng đạn giả được tính toán chỉ vừa ở mức cần thiết!

Và thường là, đạn đã nổ rồi thì rất khó tìm ra nguyên nhân chính xác! Mục tiêu chính không phải là gây ra thương vong, mà là khiến cho Quân giải phóng bắt đầu nghi ngờ, bất an về chất lượng súng đạn, và phải hao tổn rất nhiều công sức để tìm cách phân biệt, loại bỏ đạn giả giữa đống đạn thật! Sau đó, thông qua các cách thức tình báo tinh vi, ví dụ như phát hành tài liệu “huấn luyện nội bộ”, hướng dẫn lính Mỹ không được xài các loại súng đạn chiến lợi phẩm thu được, sẽ rất nguy hiểm do… “chất lượng luyện kim” kém, và người Mỹ tìm cách bảo đảm rằng những tài liệu “nội bộ” này người VN cũng sẽ lấy được, qua đó tìm cách “mớm, gieo” cái nghi ngờ là Trung Quốc đã cố tình viện trợ đạn “đểu”! Nên thực ra, ai mới thực là ông trùm của các thủ đoạn gián điệp & khủng bố!?

cao giao

Là Durov hay là Durak (durak – tiếng Nga – thằng ngốc), là thông minh hay là ngu xuẩn!? Trong cuốn “The spy who loved us” – Thomas Bass, tác giả có nói về một nhân vật khá đặc biệt, bạn của ông Phạm Xuân Ẩn, tên là Cao Giao, quá thông minh (hay quá ngu) nên sống ở thời nào thì cũng như cây thu lôi vậy, liên tục bị trời đánh! Cao Giao lân la chơi với người Nhật để dò la tin tức cho Việt Minh, nên bị người Pháp bắt bỏ tù.

Nhưng Việt Minh cũng không tin Cao Giao, bắt ông ta bỏ tù vì nghi ngờ cộng tác với Pháp. Đến sau năm 1954 ổng chạy vào Nam cũng bị họ Ngô bắt bỏ tù vì nghi là CS, đến năm 1978, lại bị CH XHCN VN bỏ tù thêm lần nữa nghi là điệp viên CIA, cứ như thế, bất kỳ chế độ nào cũng đều đơn giản là… bắt ông ta bỏ tù cả! Và sau rất nhiều lần tù tội như vậy, cuối cùng thì ông ta được cho xuất ngoại, sống lưu vong ở Bỉ!

maskirovka

Trung Đông là kiểu một nồi canh hẹ, không thể rối hơn, chia 5 xẻ 7 để cho thằng Do Thái và Mỹ nó lợi dụng, ám sát hết người này đến người khác! Đây căn bản là vấn đề của con người, không phải là vấn đề của vũ khí và công nghệ! Các bài bản “maskirovka” – nghi binh chắc là ku Nga đã dạy cho hết rồi, nhưng không hiểu sao khi áp dụng lại kém đến thế! Ví dụ như ở VN trước 75, chiến trường ở đâu có điểm nóng là TW lại gởi tướng Lê Trọng Tấn đến! Được xem như fire-fighter, lính chữa cháy, tướng VN giỏi nhất đương thời, những trận quan trọng, ông Tấn trực tiếp cầm quân, như chiến dịch Lam Sơn 719 / Đường 9 – Nam Lào.

Nhưng cũng có khi ông ta chỉ đóng vai trò giám sát, để cho các sĩ quan trẻ hơn thực hành! Chỉ cần biết tướng Tấn đang ở đâu, các sư đoàn chủ lực VN đang ở đâu là đã có thể đoán ra thế trận rồi! Nên chuyện nghi binh, bảo mật nó phải trở thành một nghệ thuật! Thế là hàng ngày vẫn có ô-tô đến đón tướng Tấn (giả) đi họp ở BQP, cuối giờ chiều, người qua đường vẫn nghe thấy Tấn (giả) chơi bóng chuyền với cảnh vệ, hò reo ý ới, gọi tên như đúng rồi luôn! Nhưng thực ra trong lúc đó, tướng Tấn thật đang nằm trên một con tàu không số nào đó, chạy lòng vòng trên biển Đông, tìm cách cập vào một bến bí mật nào đó ở miền Nam!

olympic 2024

Chúng nó đang tìm cách biến sự lố lăng, dị hợm, bệnh hoạn thành một kiểu “bình thường mới”! Đến cả những người phương Tây phóng khoáng, tự do nhất cũng cảm thấy cái lễ khai mạc này tởm lợm, có nhiều vấn đề! Riêng người VN chúng tôi thì cảm thấy rằng: những người đàn ông Pháp đích thực cuối cùng là đã chết hết ở Điện Biên Phủ rồi!

Mà chưa hẳn là đàn ông Pháp đâu, hơn phân nửa trong các binh đoàn Lê-dương là lính Đức! Đây là những lính Đức từ thời Chiến tranh thế giới 2 bị kết tội, vì muốn được giảm án nên tình nguyện đi lính cho Pháp, một kiểu đưa phạm nhân ra chiến trường, ‘lấy máu để rửa cho sạch sự xấu hổ’, một truyền thống xa xưa chẳng của riêng nước nào!

đại đồng

Ngồi nhớ nghĩ lung tung về những nơi đã đến, những vùng đất đã từng đi qua, những con người đã từng gặp! Đại Đồng, Đại Lộc, Quảng Nam, vùng quê trung du lâu đời. Cả cái tên Đại Đồng (大同) cũng gợi lên nhiều suy nghĩ sâu xa… Khắp các đô thị miền Nam trước 1975 từ Đà Nẵng, Nha Trang cho đến Sài Gòn đều có các đội biệt động thành, nhưng phần lớn chỉ biết đến “Biệt động Sài Gòn” nhờ bộ phim nổi tiếng cùng tên. Biệt động Sài Gòn tuyển dụng nhân viên như thế nào!?

Họ về những nơi như Đại Lộc, Tiên Phước, Quảng Nam, những vùng quê cách mạng lâu đời… Chọn ra một đứa bé tầm 13 ~ 15 tuổi, cha mẹ đứa bé, có khi là cả nhà, đều đã chết trong một trận càn của quân Mỹ , nên đứa bé nuôi cái ám ảnh phải báo thù! Chưa biết chữ, đi chân trần, chỉ qua một vài khóa huấn luyện, đào tạo ngắn, nó đóng vai thành đứa trẻ bán báo, đánh giày, bán vé số, lê la khắp các đường phố đô thị miền Nam làm công tác giao liên, nghe ngóng cho các đội biệt động!

thần quyền

Một trong những thuộc tính rất đặc trưng, cố hữu của Phật giáo, dù là tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, hay Việt Nam, xuyên suốt tất cả các giai đoạn lịch sử, đó là tính chất “tổ chức, hội đoàn yếu” của nó! Đây có thể xem vừa là nhược điểm, vừa là ưu điểm nổi bật của Phật giáo. Khác với những tôn giáo khác, Phật luôn là vấn đề rất cá nhân, mục tiêu cao nhất là đạt đến giác ngộ, những cái khác chỉ là phụ. Nên tính đoàn thể thì vẫn phải có, như bất kỳ một tổ chức nào khác, nhưng Phật giáo tập trung nhiều vào việc giáo dục con người, chứ không tập trung vào những chương trình hành động mang tính xã hội rộng lớn. Suốt mấy ngàn năm lịch sử, Phật giáo hiếm khi tự biến mình thành một tổ chức “Thần quyền” can thiệp vào “Thế quyền”, như đã xảy ra phổ biến với nhiều tôn giáo khác, ví dụ như Thiên Chúa giáo.

Thiên Chúa giáo, như tại Bùi Chu và Phát Diệm, vào thời của các giám mục Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi… chính là một kiểu Thần quyền và Thế quyền hợp nhất, các linh mục nắm toàn quyền sinh sát, thậm chí có cả quân đội vũ trang riêng. Tính tổ chức cao, hoạt động hiệu quả luôn là truyền thống của Thiên Chúa giáo Tây phương, điều này thể hiện rõ với các cha xứ theo chân đoàn quân thực dân đi xâm chiếm nước khác! Khi thực dân Pháp hoàn tất việc cai trị Việt Nam, các tri thức VN đương thời đều nhận ra tính hiệu quả của mô hình tôn giáo, tổ chức ngoại lai, và họ cũng nỗ lực làm giống như vậy! Như Cao Đài tổ chức thành các xóm đạo, họ đạo như Thiên Chúa giáo, xây các nhà thờ dạng 2 tháp hệt như Thiên Chúa giáo. Nhưng các quyết định quan trọng được đưa ra bởi một hình thức… “cầu cơ” (!!!) thay vì bỏ phiếu.

Ở miền Nam ngoài Cao Đài còn có Hòa Hảo, và nhiều hình thức tôn giáo “ngồ ngộ” khác. Mê tín dị đoan (như chữa bệnh bằng nước lã, tro than) là phổ biến, bùa chú, sấm ký là phổ biến, và nhiều hình thức khó tin khác theo như suy nghĩ hiện đại ngày nay, ví dụ như tuyên truyền rằng súng của Việt Minh sẽ không thể nổ được trước những tín đồ Hòa Hảo. Những điều này xảy ra nói thẳng là vì dân trí quá thấp! Mặc dù ở phần tư tưởng, Hòa Hảo tự nhận mình là một nhánh Phật giáo (Tịnh độ tông), nhưng ở phần thực hành, họ xa rời tôn chỉ của Phật giáo là giáo dục con người, mà tập trung vào tổ chức Giáo hội Thần quyền kiêm quản Thế quyền giống như các nhánh tôn giáo khác đương thời. Các chỉ huy Hòa Hảo như Năm Lửa, Ba Cụt… cai trị các vùng lãnh thổ riêng, không ai chịu ai, tàn bạo không khác gì lãnh chúa.

Trở lại với thời gian đầu chống Pháp, nỗ lực “toàn dân kháng chiến” của Việt Minh mâu thuẫn nghiêm trọng với tính cô lập, tự trị và lạc hậu của các giáo phái! Nhất là ở thời gian vài năm đầu, bất kỳ ai “tích cực kháng chiến” đều được chấp nhận, nên trong hàng ngũ Việt Minh xuất hiện một số kẻ “cơ hội chủ nghĩa” như Kiều Đắc Thắng, hay hành xử “tự tung tự tác” như Bửu Vinh. Đám Bình Xuyên mặc dù đi làm cách mạng nhưng vẫn có nhiều người, cung cách không khác với thời ăn cướp ngày trước là mấy! Thế nên khá nhiều sự việc đáng tiếc đã xảy ra! Theo dòng tiến bộ của lịch sử, ngày nay, tách biệt Thần quyền và Thế quyền là một nguyên tắc cần được thực hiện nghiêm nhặt, cũng nghiêm nhặt y như là bảo đảm quyền Tự do tôn giáo vậy, và các Tôn giáo nên trở lại đúng với vai trò của nó, đó là giáo dục con người!

hòa hảo

23/9/1945, Nam Bộ kháng chiến bùng nổ… Tình hình miền Nam lúc này, các lực lượng giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài, mỗi nhánh có khoảng 2000 ~ 3000 tay súng, nhưng chống Pháp theo kiểu nửa vời. Mạnh nhất là Việt Minh, bao gồm Thanh niên tự vệ và khoảng 2000 bộ đội Bình Xuyên (quân của Ba Dương, Tám Mạnh, tuy vẫn có một bộ phận Bình Xuyên không hoàn toàn quy phục Việt Minh như Bảy Viễn), tổng cộng không quá 5000 ~ 6000 tay súng! Bình Xuyên, những người trước đây là dân giang hồ, anh chị, ăn cướp, bảo kê, .v.v. nói cho đúng vẫn là lực lượng chiến đấu tương đối hiệu quả, ít nhất là vào thời gian đầu kháng chiến, nhờ cái máu “yêng hùng” của họ! Nhưng do đâu Việt Minh lại nắm được, sai khiến được đám giang hồ này, đó là từ một sai lầm của người Pháp!

Từ nhiều năm trước đó, người Pháp nhốt chung tù chính trị với tù hình sự, hy vọng có thể dùng đám đầu gấu để trị các tay tù chính trị. Nhưng kết quả hóa ra ngược lại, vào tù rồi, anh chị cỡ nào đi nữa, nó đánh cho vài trận là khai hết, là phục tùng hết. Nhưng đám tù chính trị dù có chặt tay, chân thì vẫn không khuất phục. Kết quả là đám tù chính trị quay ngược lại cảm hóa, thuyết phục được đám du đãng, vì họ đã cho đám “cơ bắp” thấy được có loại sức mạnh nằm ngoài cơ bắp! Đến khi kháng chiến bùng nổ, các đơn vị “bộ đội” như của Ba Dương, Tám Mạnh đều rắp rắp nghe lệnh Việt Minh. Nhưng tổng số 5000, 6000 tay súng là quá ít, không đủ để đối đầu với quân Pháp! Miền Nam cho đến lúc đó vẫn là vùng đất mới, lòng người không vững, lại chia năm xẻ bảy không ai chịu ai! Ngay trong tháng 9-1945, các đơn vị Nam Tiến từ miền Bắc, Trung được thành lập để chi viện cho miền Nam…

Hải Phòng, Hà Nội mỗi nơi gởi một chi đội, Bắc Ninh, Bắc Giang gởi một chi đội, Thừa Thiên cũng gởi cỡ một chi đội, Quảng Nam gởi 3 chi đội… đặc biệt Quảng Ngãi gởi vào Nam 15 ngàn người! Cái gọi là “chi đội” lúc bấy giờ là những đơn vị không cố định quân số, thường khoảng 1000 ~ 1500 người! Đến tận giờ không thể biết chính xác bao nhiêu người đã Nam Tiến, ước tính ít nhất 30 ngàn người đã chi viện cho miền Nam trong vòng chưa đến 5 tháng! Nhưng tình hình miền Nam lại diễn biến vô cùng phức tạp! Những khúc mắc, ân oán giữa Việt Minh với Hòa Hảo, Cao Đài và những thành phần xã hội khác, đến tận ngày nay người ta vẫn tránh nói về những đề tài ấy, bởi vì muốn nói cho cùng thì phải nhìn vào bản chất lạc hậu, manh mún, nhìn vào dân trí, những điều vẫn chưa cải thiện mấy cho đến tận ngày hôm nay!

Quay ngược lịch sử trăm năm trước, khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, phong trào Nghĩa Hội bùng phát khắp Quảng Nam, cầm đầu bởi Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Nguyễn Tiểu La… xây căn cứ ở Quế Sơn tính chống Pháp lâu dài. Nhưng người Pháp không chỉ hơn ở khoa học, kỹ thuật, vũ khí mà họ hơn ở… tất cả mọi mặt: âm mưu, kế sách, thủ đoạn, mua chuộc, đe dọa, cài cắm, tin giả, ly gián, etc… Được khoảng 2 năm thì Nguyễn Duy Hiệu bị bắt, phong trào tan rã. Nói đến tinh thần yêu nước nhưng nhiều người không dám nói thẳng về kết quả của Nghĩa Hội Quảng Nam: giết được vài chục người Pháp, nhưng tự mình giết người mình vì nghi ngờ, phản bội, thanh trừng lẫn nhau, con số phải lên đến nhiều trăm. Và chuyện như thế kéo dài mãi đến về sau…