cấu trúc ngôn ngữ

Tại sao nói các cấu trúc logic nhỏ trong ngôn ngữ là tối quan trọng trong việc hình thành nên tư duy!? Những ngôn ngữ có tính cấu trúc cao buộc người đọc/nghe phải chờ hết câu, đảo tới đảo lui trật tự để tìm ra các quan hệ logic và suy xét ngữ nghĩa muốn diễn đạt. Nó tạo ra một thói quen cẩn thận cho người dùng ngôn ngữ! Các ngôn ngữ có cấu trúc yếu như tiếng Việt không khuyến khích áp đặt những cấu trúc tư duy này! Cá biệt, à không phải cá biệt, mà là rất phổ biến, rất nhiều ngươi Việt chưa chờ người ta nói hết câu, mới nghe được 3 chữ là đã… nhảy vào miệng người khác ngồi rồi!

Gặp những loại cứ chăm chăm nhảy vào miệng người khác là tôi lập tức… không nói chuyện, loại này nói vô ích! Lúc nào cũng ta biết, ta đúng, ta hơn người… dần dần tạo ra một môi trường văn hóa xã hội như ngày nay! Xem ngôn từ như kiểu một trò chơi, đuổi hình bắt chữ vô cùng thiểu năng, vừa không hiểu hết chiều sâu ngữ nghĩa, lại không không dám làm đến tận cùng sức nặng ngôn từ! Ai nói điều gì đều tìm cách léo lận, bẻ cong đi! Rút cuộc chỉ xem ngôn từ như một dạng lòe người, bịp nhau mà thôi! Khi đến một vài câu chữ nhỏ nhoi cũng không hiểu được tức là xã hội đại loạn!

Tự tạo nghiệp thì đành chỉ có cách để cho nhân – quả quyết định mà thôi! Tôi nhớ một thời, khoảng những năm 80, phim TQ hoàn toàn mang đầy đủ tính “chính kịch”, xem từng đoạn, từng đoạn mà cứ tưởng như là đang đọc Shakespeare vậy! Nhưng càng ngày, phim ảnh TQ càng mang tính giải trí, đủ thể loại thượng vàng hạ cám khác nhau! Nhưng dù là cao hay thấp thì phim TQ đa phần đều có kịch bản tương đối ổn, ngôn từ, ngữ nghĩa đều có chiều sâu nhất định! Đừng vì không lãnh hội được ý nghĩa của người khác mà cho rằng ai cũng “thiểu năng, rỗng tuếch” giống như mình như vậy!

từ nguyên: cam sành

Cam – là một từ Hán Việt đã mượn từ rất xa xưa, thế còn “cam sành” thì sao?! Sành chính là âm đọc mới sau này của – âm Hán Việt xưa đọc là tranh – chanh! Từ này, ngay từ gốc là đã có sự nhập nhằng về nghĩa: vừa dùng để chỉ loại cam vỏ dày, vừa dùng để chỉ trái chanh! Để phân biệt thì người ta hay dùng 香橙 – hương tranh để chỉ trái chanh! Như thế cùng một mặt chữ là: , nhưng tiếng Việt mượn đến 2 lần, một lần đầu để chỉ quả chanh, và một lần sau để chỉ một giống cam vỏ dày gọi là (cam) sành!

Còn để chỉ loại chanh Tây quả to, màu vàng mới sau này, tiếng Trung hiện đại dùng chữ 柠檬, phiên âm trực tiếp từ tiếng Anh “lemon”, nhưng âm Hán Việt đọc là… “ninh mông”! Có thể thấy cái nhập nhằng ninh-linh, N và L đã có gốc gác xa xưa, không phải là chuyện đơn giản! Qua nhiều ví dụ khác có thể thấy rõ, những dạng phát âm tiếng Việt “không chuẩn”, như “N-L” ở miền Bắc, và “V-D” ở miền Nam, đều là do ảnh hưởng trực tiếp từ tiếng Trung (hoặc các phương ngữ TQ) tại nhiều thời điểm khác nhau!

“thuần việt”

Các nhà ngôn ngữ học đã tìm ra các quy luật biến âm dựa trên Phiên thiết, có thể truy nguyên một số từ tiếng Việt. Nhưng vẫn có rất, rất nhiều từ không nằm trong những quy tắc đó, không thể truy nguyên được nếu chỉ đứng từ góc độ sách vở thuần túy. Nhưng, những từ này lại có thể truy gốc dễ dàng nếu chịu khó xem kỹ các phim Trung Quốc. Vấn đề là tiếng Việt mượn từ tiếng Trung theo kiểu… “mua sỉ – wholesale”, nhập nguyên lô, nguyên kiện một số lượng từ ngữ vô cùng lớn, lại nhập tại rất nhiều thời điểm khác nhau! Nhiều từ, nếu chỉ tra từ điển thường là không có!

Ví dụ như từ… “ví dụ – 比如“, từ này, âm Hán–Việt đọc là: tỉ như, nhưng âm Bắc Kinh hiện đại đọc là… ví dụ. Một ví dụ cũng rất đặc sắc nữa là: đủ – (đầy đủ, no đủ)! Để ghi từ “đủ”, những người làm ra chữ Nôm đã bịa ra hơn 5, 6 cách khác nhau, nhưng không ai biết rằng, “đủ” đã âm thầm du nhập tại một lúc nào đó, là âm đọc của – âm Hán Việt là: câu, cú, mặt chữ vừa có tính hội – ý, vừa có tính hài – thanh như thế! Nếu đã biến âm nhiều đến mức như thế thì không cách nào truy ra gốc được, nhưng cứ xem phim là thấy rõ: từ âm đọc cho đến ngữ nghĩa đều giống y hệt.

Vài ví dụ khác: được – – đắc, cả – – cách, cút – – cổn, sốt – – thiêu, cùn – – độn, quýt – – quất, trễ – – trệ, thử – – thí, nung – – dong, khéo – – xảo v.v… Sự vay mượn tại nhiều thời điểm này, kỳ lạ thay, có xu hướng không mượn từ Quảng Đông, nơi gần VN hơn, mà mượn trực tiếp từ Quan thoại (hoặc Quan hỏa), mà Quan thoại thì, theo dòng lịch sử biến động, ngày càng khác Phiên thiết! Các từ điển Nôm hiện – có có những thiếu sót rất lớn khi không giải thích, truy nguyên được rất nhiều từ vay mượn, từ đó dễ dẫn đến suy nghĩ rằng chúng “thuần Việt”!

chính

Lảm nhảm về chính – chánh… Gia chính – 家政 (nữ công gia chánh): quản lý việc nhà cho ngay ngắn. Học chính – 学政: chức quan trông coi việc học hành ngày xưa. Bưu chính – 邮政: cơ quan phụ trách việc truyền tin. Diêm chính – 盐政 – chức quan quản lý khai thác, buôn bán muối. Dân chính – 民政: cơ quan quản lý dân số, hộ tịch. Công chính – 工政: quản lý công trình công ích nói chung. Hành chính – 行政: bộ phận quản lý giấy tờ, sự vụ… Từ việc nhỏ như “gia chính” cho đến việc lớn “trị chánh – chính trị”, thì đều dùng từ cả, từ này nguyên nghĩa là khuôn phép, quy tắc, pháp lệnh, là từ phái sinh của chính – nghĩa là ngay thẳng. Tiếng Việt mượn rất nhiều từ như thế: chấp chính, chất chính, tập chính, nhiếp chính, tham chính, nghị chính, tòng chính, trình chính, bố chính, thị chính, địa chính, nội chính v.v…

Một trường hợp đặc biệt là tài chính – 财政, người Việt thường hiểu chưa đúng từ này, đánh đồng nó với finance trong tiếng Anh, chính vì có chữ “ chính” nên “tài chính” nguyên gốc chỉ mang ý nghĩa quản lý tiền bạc, tài sản công (public finance) mà thôi, không mang nghĩa cá nhân hay tư nhân! Dùng từ “chánh – chính” khắp từ việc lớn đến việc nhỏ như vậy, nhưng có “chính” thật được hay không thì còn phải xem văn hóa và dân trí! Chứ cái dân lưu manh, gian vặt khắp từ việc nhỏ đến việc lớn, còn mãi ngồi cãi vã, đấu đá với nhau: tôi là trắng, anh là đen, nhưng dù là trắng hay là đen thì thực chất, đều cùng một giuộc, đều giống y hệt như nhau, chẳng anh nào chịu đi bắt chuột! Ưa lý luận trên bề mặt ngôn từ hình thức, hay là sự bất lực không tự thay đổi được bản thân, đó cũng chỉ như 2 mặt của một đồng xu mà thôi!

từ nguyên: viên

Tối qua sắp đi ngủ thì tự dưng nghĩ đến một hiện tượng “đồng âm” hơi lạ trong tiếng Việt: viên – – vườn (khu vườn) và viên – – vượn (con vượn)… không làm sao cắt nghĩa được cho rõ ràng. Suy nghĩ ban đầu cho rằng đây là cách phiên âm xưa cũ đã du nhập ngay từ thời Hán – Đường, vì Phiên thiết Hán – Việt thì thực ra mãi đến sau thời Tống mới được nghĩ ra!

Rất nhiều người tìm cách đưa ra một lý giải khác, cố đi tìm “từ nguyên” cho các từ trong tiếng Việt, nào là gốc Mon-Khmer, nào là gốc Nam-Á, nhưng những ví dụ đó rất thiếu sức thuyết phục, thậm chí là khiên cưỡng. Đến hơn 90% trường hợp mà ta chưa tìm được nguồn gốc, vô số những từ ta nghĩ 100% là “thuần Việt” thì hầu như… cũng là gốc Hán đó thôi!

từ nguyên: ấn loát

In ấn, đã in sao lại còn ấn? Thực chất “in” là âm hiện đại của “ – âm Hán Việt: ấn”, cả hai chỉ là một chữ mà thôi. Kỹ thuật in đầu tiên chính là khắc gỗ, về hình thức, không khác gì với ấn – triện, như thế có thể xác định là khi kỹ thuật in truyền vào VN thì âm của nó đã là “in” chứ không còn là “ấn” nữa. Tiếng Việt có rất nhiều trường hợp như thế, chỉ một chữ viết nhưng âm có nhiều hơn một, do du nhập vào VN tại nhiều thời điểm khác nhau!

Còn ấn loát – 印刷, loát là cái bàn chải, động từ nghĩa là lau, xoa… Dùng chữ “ấn loát” vì ngày xưa khi in mộc bản, thạch bản, họ dùng cái bàn chải/cọ lớn để xoa, vỗ lên mặt giấy cho mực ăn đều! Vậy tại sao là “ấn loát” mà không phải là “in loát”!? Hình: lấy từ cuốn “Giới tử viên họa phổ”, một công trình đồ sộ nhiều tập, xuất bản năm 1679, in mộc bản 5 màu, được xem là cẩm nang lý luận và thực hành mà tất cả họa gia (cổ điển) TQ phải học!

ngữ văn

Đề Ngữ văn quốc gia mà câu cú thế này đây: Người nghệ sĩ tôi luyện bản thân trong mối tương quan liên tục giữa mình với người khác, tại quãng đường giữa cái đẹp không thể bỏ qua và cộng đồng không thể tách khỏi… Câu sượng như cơm sống, viết tiếng Việt còn chưa suông, ngữ nghĩa mơ hồ! Nguyên văn tiếng Pháp, Albert Camus: L’artiste se forge dans cet aller retour perpétuel de lui aux autres, à mi-chemin de la beauté dont il ne peut se passer et de la communauté à laquelle il ne peut s’arracher Cụm từ “à mi-chemin” phải dịch là nửa đường, lưng chừng, dịch “tại quãng đường” là hoàn toàn vô nghĩa, tôi nghĩ đây là… dịch tự động bằng máy tính! Các cụm từ “tương quan liên tục”, “tôi luyện bản thân” đều không đúng!

Lỗi là ở người ra đề, trích dẫn những ấn phẩm mới xuất bản gần đây, mà những ấn phẩm đó, nói thật, rất có vấn đề! Câu từ nhộn nhạo, chắc chắn là dịch tự động bằng máy tính, hành văn trúc trắc, nhiều chỗ hoàn toàn xàm xí, vô nghĩa! Dù biết rằng: Traduire, c’est trahir – Dịch, tức là phản, nhưng nếu là tôi thì sẽ phỏng dịch như sau: Người nghệ sĩ buộc mình trong những mối “quan hệ đẩy tới đẩy lui” thường trực với mọi người, lơ lửng lưng chừng ở đâu đó giữa hai bờ, một bên là nghệ thuật mơ mộng, đẹp đẽ, và bên kia là cái cộng đồng “ngu dốt, xàm l…” nhưng lại không thể tách rời khỏi nó được! :D Đương nhiên là tôi có thêm vào mấy chữ cho nó “rõ ràng” hơn, nhưng đề này chẳng có gì trừu tượng, cũng không khó nghị luận!

đứt gãy

Chữ quốc ngữ quả thực có tạo ra một sự “đứt gãy văn hóa” nhất định! Tôi còn nhớ thời mấy chục năm trước, khi các công cụ máy tính còn chưa phổ biến, việc viết sai chữ Hán khi trùng tu các di tích Huế là… nhiều nhan nhãn, nhiều đến độ một đứa con nít 15 tuổi như tôi lúc đó cứ nhìn là phát hiện ra! Thậm chí đến tận ngày nay, mỗi khi đi qua Chợ Lớn, đọc các bảng hiệu cũng dễ dàng nhận ra nhiều chỗ viết sai, thường là phiên âm Hán-Việt sai. Nhưng, như người ta hay nói, việc thì có gấp có hoãn, có những nỗi lo còn lớn hơn, còn cấp bách hơn chữ viết nhiều lần!

Như những cộng đồng người Hoa xưa có mấy người biết chữ đâu, phải đến 99% là mù chữ, mà họ vẫn sống tốt, vẫn hợp tác được với nhau để tạo nên cộng đồng vững mạnh đó thôi! Cái cấp bách là đạo đức xã hội xuống cấp, thói suy nghĩ nông cạn, đơn giản, kiểu ham muốn ăn xổi đến mức… ăn cướp, mấy cái đó mới thực sự vô cùng cấp bách! Do công phu, kiên trì không có, chỉ muốn “ăn ngay” nên dẫn đến việc học cái gì cũng không được, đừng nói là học loại chữ khó như Hán, Nôm xưa không được, đến cả tiếng Anh, Pháp hiện đại, dễ dàng đó cũng chưa học được đâu!

chữ

Đầu năm nói chuyện “chữ”… Trước em có biết một số vị làm việc liên quan đến cổ ngữ! Chữ các vị ấy đương nhiên nhiều rồi, em không bằng được! Nhưng làm bộ hỏi vài câu Đường thi thông dụng, các vị ấy đều lơ ngơ, ướm thử vài câu Tống từ phổ biến, các vị ấy đều lấp lửng! Nên em tạm rút ra nhận định: chữ của các bác ấy nhiều, nhưng lại không hàm thụ được vẻ đẹp của thi ca cổ, hay ít nhất là tâm trí các bác không quan tâm những điều ấy! Em băn khoăn tự hỏi tâm các bác ấy đặt ở chỗ nào!? Sau thì phát hiện ra, phần lớn thời gian các bác dùng “chữ” để khoe mẽ, đấu tố nhau, kích động ghen ghét cá nhân, phân biệt vùng miền, thường khi là lồng ghép trong đó những đấu đá chính trị, tôn giáo, một số trường hợp rõ ràng là “bồi bút” được các thế lực ngoài giật dây, dùng “chữ” kích động mâu thuẫn, đánh vào cái tôi “vừa ghen ghét, vừa tự ti vặt của người Việt”, đánh vào cái dân trí lè tè không tự luận ra được. Với những người ấy, tốt nhất là cứ… “kính nhi viễn chi”.

Vấn đề quay lại điểm khởi đầu, học để làm gì!? Lịch sử Trung Quốc lâu dài như vậy, văn minh Hoa Hạ rực rỡ như vậy, họ làm ra biết bao nhiêu chuyện kỳ vĩ, từ văn hoá, thi ca cho đến các công trình quốc kế, dân sinh, đào Vận hà, xây Trường thành, và biết bao nhiêu thành tựu to lớn khác! Em chỉ cần nhìn vào một thoáng là em biết, họ học chữ để đấu đá và kèn cựa nhau, chứ trong tâm không có cái mộng học được cái đẹp, cái hay của thiên hạ! Nói nghe có vẻ to lớn, nhưng học chưa chắc đã làm được như người ta, trở thành sĩ phu kẻ sĩ, kinh bang tế thế, chuyện đời đâu có dễ thế! Nhưng ít nhất và đầu tiên, học có thể thay đổi tính cách, tâm hồn con người! Bản thân còn không thay đổi được, làm sao thay đổi ngoại giới!? Muốn xem công phu của một người tới đâu, đầu tiên hãy xem cách anh ta nhìn nhận, đặt ra yêu cầu đối với… chính bản thân mình! Em lạy các bác, mở mắt ra xem người ta sống như thế nào, đừng bám vào mấy cái gốc tre làng mãi như thế nữa!

đường & biểu

Đại từ xưng hô là vô cùng phong phú trong tiếng Hoa, thể hiện nhu cầu giao tiếp xã hội phức tạp! Về quan hệ họ hàng thì tiếng Việt mượn tiếng Hoa hầu hết, nhưng vẫn có từ không mượn, hoặc mượn nhưng ngữ nghĩa khác biệt đôi chút! Chú (thúc – ), bác (bá – ), xưa hay nói: anh em thúc bá, tức là anh em họ con chú, bác! Tiếng Trung hiện đại ít dùng chú – thúc, đều dùng bá, không phân biệt tuổi! Cô (cô – ): chị em của bố, không phân biệt tuổi, nhưng cũng có nơi ở VN, chị của bố gọi là bác thay vì cô, cách gọi này theo tôi không hợp lý lắm vì thúc, bá nguyên là vai nam! Vợ của chú thì gọi là thím (thẩm – ), vợ của bác gọi là mỗ – (tiếng Việt không mượn từ này). Nhưng cả 2 từ này đều ít dùng trong tiếng Trung hiện đại!

Dì (di – ) chị em gái của mẹ, cậu (cữu – ) anh em trai của mẹ, đều không phân biệt tuổi! Vợ của cậu thì gọi bằng mợ (ma – ), chồng của cô gọi bằng dượng (trượng – ), nhưng ở VN thì tuỳ, có nơi gọi là bác, không hợp lý lắm, chồng của dì thì cũng gọi bằng dượng, nhưng có nơi không có danh xưng! Anh em họ ở VN không có danh xưng, TQ thì dùng biểu – và đường ! Nhưng ngay người TQ cũng đôi khi nhầm lẫn giữa đường và biểu! Chỉ dòng nam chính (con chú, bác) thì mới được gọi là đường: đường huynh, đường muội, còn lại đều là biểu: biểu ca, biểu tỷ! Tất cả thể hiện những mối quan hệ phức tạp, mà phức tạp, đáng sợ nhất của xã hội Á Đông lại chính là từ trong gia đình đi ra, còn quan hệ xã hội phổ thông đôi khi lại dễ dàng!

lững lờ, lửng lơ

Bữa trước tự dưng để ý một chút về chính tả: từ “lững lờ” phải viết bằng dấu ngã (vì “lững” đi kèm với từ có âm trầm – lờ – huyền, ngã, nặng), còn “lửng lơ” thì lại phải viết dấu hỏi (vì “lửng” đi kèm với từ có âm phù – lơ – ngang, sắc, hỏi). Mà “lững lơ” và “lửng lờ” tuy không chính xác là cùng nghĩa, nhưng rất gần nghĩa với nhau! Đây cũng chính là “mẹo” để viết cho đúng chính tả tiếng Việt, chú ý thanh của từ đi kèm. Trước đã có viết một bài về 8 thanh (không phải 6) trong tiếng Việt, trong đó Khứ – và Nhập – nhân với hai bậc Phù – Trầm tạo thành 4 thanh cả thảy, nhưng lại chỉ được ghi bằng 2 ký hiệu là “sắc” và “nặng”.

Về thanh Thượng – , thượng phù tức là hỏi, thượng trầm tức là ngã, với tiếng Việt hiện đại ngày nay, hỏi hay ngã hầu như không phân biệt! Nhưng dấu vết trong từ điển thì vẫn còn đó, ví dụ: hải – biển – và hãi – sợ – ! Câu hỏi đau đầu được đặt ra là: tại sao những người làm ra hệ thống ký âm Quốc ngữ, rõ ràng là không phân biệt được “Khứ – Nhập – Phù – Trầm”, nhưng lại bảo lưu “hỏi – ngã”, điều đã chết từ lâu tại thời điểm đó!? Đây chính là “hoá thạch” của một đặc trưng ngôn ngữ đã “tuyệt chủng” chỉ còn bảo lưu trong sách vở! Không nên cực đoan đến mức phải bỏ “hỏi & ngã”, bởi ngôn ngữ vốn dĩ là “võ đoán” như thế!

dịch, 4

Cái này về mặt tiếng Việt đáng suy nghĩ, khi đọc cụm từ “vệ tinh giám sát radar” (dịch 1-1 Anh-Việt), người đọc sẽ hiểu là “vệ tinh dùng để giám sát radar”, nhưng thực ra ý nghĩa bài báo gốc muốn nói là: “vệ tinh dùng công nghệ radar để giám sát”. Viết một cụm từ đơn giản mà không nghĩ xem người đọc sẽ hiểu thế nào. Nên em mới nói là có những sự “lầm lạc” mà chúng nó, đám báo chí Việt Nam, đâu có tự nhận ra được, không tự lĩnh hội được! Đừng bảo em là bắt bẻ từ ngữ, sự lầm lạc nhỏ nhân rộng lên, đến một lúc trở thành tào lao, nhảm nhí! Mà đấy là những loại viết còn tương đối có chút nội dung nghiêm túc đấy nhé…

Còn những loại nói năng nhăng cuội, trống hoác thì không cần phải để ý đến! Nên dù chỉ nói một chữ, cũng phải cho chính xác, tận tường ý nghĩa của một chữ! Điểm yếu nhất về ngữ pháp của tiếng Việt là chuyện: prepositive & postpositive, tính từ đứng trước hay đứng sau danh từ. Mà cái này thì… chưa có cách nào nhanh chóng sửa được, đành phải như Trịnh Công Sơn, lâu lâu nói một câu ngô ngố cho đời nó vui: Ta thấy em trong tiền kiếp, với cọng – buồn – cỏ – khô…, hay như Phạm Duy: Đến bây giờ anh đã là cánh – trắng – chim – bay xa chân trời, Đến bây giờ em đã là bóng dáng cô liêu trong ngậm ngùi

topping

Suy nghĩ nhiều về chuyện đó, như khi nói, viết những chuyện phổ thông thì tôi có thể dùng từ khá là “thuần Việt”. Nhưng khi chuyển sang những đề tài như thuyền bè, hay công nghệ thông tin là bắt buộc phải chêm tiếng Anh, đã cố gắng lắm nhưng không thể khác được vì tiếng Việt không có từ tương đương! Như trong nhóm thảo luận – làm việc chung (group chat) của tôi, lập trình và phần mềm, toàn người Việt với nhau, nhưng suốt hơn 15 năm chỉ toàn xài tiếng Anh, tuyệt đối không có một từ tiếng Việt nào, quy ước như thế để diễn đạt chính xác hơn. Và thực tế chính là như thế, tiếng Việt hoàn toàn không giàu đẹp, cứ nói thẳng như vậy: thiếu tính chính xác, thiếu từ vựng, và quan trọng nhất là… thiếu nội dung! Đám trẻ thì chêm tiếng Anh một cách vô tội vạ, các bác già thì “gài” nhau bằng các văn bản luật với từ ngữ nhập nhèm, hàm hồ, đó là một thực tế đáng buồn!

Thiếu nội dung mới là điều nan giải nhất: báo chí lải nhải các vấn đề nông cạn, nhảm nhí! Mà nội dung ở đâu ra, chẳng phải là từ việc phản tỉnh, tự vấn bản thân đó sao!? Phản tỉnh á, chúng nó làm gì có, toàn cọp-dê (copier) sống sượng, đâu có tự nghĩ ra được! Thế là gom góp bất kể nguồn một mớ từ ngữ nhộn nhạo, gép lại với nhau, nhằm thể hiện một cái ý thoáng qua trong đầu, một cái gì đó “kêu to” để phản ứng với tình huống nhất thời, chứ không bỏ thời gian mà suy nghĩ cho nó sâu xa! Thế nên “loè” người là chính, nội dung nham nhở, không đạt được công năng xây dựng tâm hồn con người! Và thế là cái “lẫu thập cẩm Vietic” đó tiếp tục được quậy tưng lên, vốn dĩ tự ngàn xưa, gốc gác ngữ pháp Mon-Khmer, hệ thống thanh điệu vay mượn từ nguồn Tày-Thái, một lượng lớn từ vựng được mượn từ nguồn Hán tự, và giờ lại tiếp tục thêm vào một mớ “topping” Anh, Pháp…

mách qué

Hồi đó cứ lang thang quanh quẩn ở mấy tiệm sách cũ quanh khu chợ Bà Chiểu và góc đường Trần Huy Liệu… bắt gặp cuốn thơ Cao Bá Quát bản in chữ viết tay siêu đẹp, chủ quán nhìn mặt kêu giá 500K, mà học sinh làm éo gì có tiền, đành tiếc mãi thôi! Đương nhiên quá trình lớn lên và học hỏi cũng có đọc ít nhiều Thơ mới, thơ VN, nhưng mà sâu từ trong nhận thức, chỉ có “chữ Hán”, chỉ có Đường thi mới là thơ. Còn “Nôm na là cha mách qué”, tiếng Việt vẫn là một ngôn ngữ “mách qué – không đứng đắn”! Một lũ từ ngữ trơn tuột, cưỡng từ đoạt lý, giảo hoạt, nói cho lấy có lấy được, cứ ưa hơn người bằng cách lấp liếm, hoa ngôn xảo ngữ, chứ không thực sự nhắm đến nội dung bên trong!

Học “cổ văn”, cái đầu tiên là phải kiên nhẫn suy nghĩ xem ý tứ nó ra làm sao, không phải nghe có nửa câu đã nhảy vào miệng người ta ngồi: “ah ta biết rồi, nó là như thế này, thế kia!” Bởi đa số người Việt vẫn chỉ biết: “Cầm đao chém nước chảy cuồng, Tiêu sầu nâng chén càng buồn thêm thôi!”, nhưng có ai chịu khó đọc tiếp mấy câu sau: “Trần gian chưa thoã ý người, Sớm mai xoã tóc rong chơi với thuyền”!? Tiếp sau luôn luôn có những cái “ý tại ngôn ngoại”, viện dẫn sự tích, điển cố, làm cho ngữ nghĩa nó thâm trầm, bao quát! Nói thẳng muôn đời vẫn là một kiểu dân tộc tính khó sửa, học một ông “thầy Tàu” nào đó nhưng vì bản chất nó “đoản” nên lúc nào cũng chỉ học được… một nửa câu!

penpower

Hơn 25 năm trước, một lần đi hội chợ tin học mua được cái này, bút nhập chữ Hoa PenPower với đế cảm ứng 2×1.5 inch! Thế là tiếp tục học chữ với thiết bị này, yêu thích vô cùng, về sau xài nhiều, hỏng mất không dùng được nữa! Thời đó xem như hiện đại lắm, nếu so với cùng thời e là hơn xa iPad + Apple Pencil bây giờ! Thứ tự nét bút rất quan trọng, vì đây là 1 kiểu nhận dạng online (chữ “online” này hiểu trong ngữ cảnh bộ môn Nhận dạng & Xử lý ảnh), không phải đọc ảnh tĩnh, viết đúng thứ tự nét thì nhận rất chính xác! Lý do rất thích cái cảm ứng là vì không như các bạn gốc Hoa cùng lớp, chuyên nhập chữ Hán trên bàn phím máy tính tiêu chuẩn bằng phương pháp Thương Hiệt!

Mà cái Thương Hiệt thâu nhập pháp ấy khó quá, tôi học mãi vẫn không nắm được “yếu quyết” (cũng một phần vì phương pháp này không thật sự chính xác, siêu rắc rối và nhập nhằng), mà nhập liệu bằng bút viết thì nó trực quan, đơn giản hơn! Nên nhớ rằng thời đó cách đây hơn 25 năm, TQ đã tự làm ra những sản phẩm tin học như thế! Còn ở Việt Nam đương thời chỉ mỗi cái bảng mã Unicode tổ hợp hay dựng sẵn mà cãi nhau kịch liệt nhiều năm trời, không ai chịu ai! Đến tận giờ trên điện thoại thông minh với màn hình cảm ứng, giới trẻ TQ vẫn thích gõ phím bằng “Bính âm” cho nhanh lẹ, nhưng giới già thì vẫn thích múa ngón tay, vẽ chữ để trả lời tin nhắn SMS!

dialect

Tiếng Ukraine là một phương ngữ (dialect) của tiếng Nga hay là một ngôn ngữ (language) độc lập, tranh cãi này vốn đã loanh quanh suốt mấy trăm năm nay! Người Nga thì vẫn luôn cho rằng tiếng Ukraine chỉ là một phương ngữ của tiếng Nga, còn người Ukraine thì dĩ nhiên có quan điểm ngược lại! Ngay cả trong giới ngôn ngữ học cũng không có một định nghĩa chính xác phân định rạch ròi giữa “dialect” và “language”! Có người thậm chí còn nói thẳng ra rằng: một phương ngữ sẽ trở thành ngôn ngữ độc lập khi nó có… hải, lục, không quân đủ mạnh!

Thực sự không quan tâm ai đúng sai, thắng thua, chỉ nhìn từ góc độ văn hoá! Khi hầu hết nội dung, suy nghĩ đều phải đi vay mượn, bản thân trống hoác, mà lúc nào cũng muốn “vỗ ngực xưng tên”, rồi vì thực tế không như tưởng tượng nên dần ngã về phía các kiểu lưu manh lặt vặt, các biện pháp cực đoan! Vì thiếu vắng nội lực nên “ai nói gì cũng nghe, ai xúi gì cũng làm”! Về điều này, anh U giống hệt một số không ít người Việt, đầu óc kiểu “con nít lên 3” nhưng lúc nào cũng “hoang tưởng” mình là “một cái gì đó”, lúc nào cũng “anh thế này, tôi thế kia”!

pali

Về Pali, và các ngôn ngữ khác của kinh Phật như: Sanskrit, chữ Phạn, etc… Sinh thời, đức Phật thuyết giảng bằng tiếng Prakrit, người anh em “bình dân” của Sanskrit. Vốn gốc đều là chung một ngôn ngữ, nhưng Prakrit là phần dễ hơn, bình dân hơn, phổ biến rộng rãi trong đại chúng, trong khi Sanskrit được ngữ pháp hoá chặt chẽ bằng các quy luật và trở thành ngôn ngữ chính xác của “tầng lớp trên”. Tuy vậy nhiều nghiên cứu cho rằng 2 nhánh ngôn ngữ này thông hiểu được với nhau chứ chưa đến mức trở thành các ngôn ngữ riêng biệt như sau này! Đã có lúc, có đệ tử đề nghị đức Phật truyền dạy giáo pháp bằng Sanskrit, nhưng đức Phật kiên quyết phản bác, đơn giản ông ấy muốn nói bằng thứ ngôn ngữ bình dân mà đại chúng có thể nghe và hiểu được! Càng về sau, Sanskrit càng trở nên chuẩn hoá, hàn lâm hoá, được dùng trong các nghi lễ tôn giáo Hinduism, Jainism, và Phật giáo!

Những lời dạy của đức Phật vốn được thể hiện bằng ngôn ngữ Prakrit! Vậy còn Pali là cái gì!? Cái tên Pali nhằm mô tả loại ngôn ngữ được sử dụng trong các kinh văn Theravada – Phật giáo nguyên thuỷ, nhưng cái tên đó chưa từng bao giờ được lịch sử ghi nhận! Người ta biết đến Pali, gọi bằng tên Pali thực chất chỉ qua các kinh văn của Theravada. Pali với Sanskrit có một mối liên hệ tương đối gần, tập từ vựng gần như tương đương, nhưng ngữ pháp Pali đơn giản hơn! Hiểu nôm na, Pali chính là một cái “hoá thạch”! Hoá thạch của một sinh vật cổ thực ra là cục đá mang hình dạng con sinh vật đó, chứ bản thân cục đá đó không phải là sinh vật! Tương tự như vậy, Pali chính là Prakrit thời kỳ đức Phật hoằng pháp, nhưng trong khi Prakrit tiếp tục phát triển, trở thành nhiều ngôn ngữ khác (sinh ngữ), còn Pali dừng lại, bất động với thời gian (tử ngữ), trở thành một ngôn ngữ kinh viện để lưu truyền hậu thế!

vô môn quan

無門關

Ngôn ngữ, đó là cái vỏ của tư duy, ngày trước nghe nói như thế, nhưng vẫn chưa hiểu lắm! Thật ra, người ta dùng từ rất chính xác, “cái vỏ”, giống như cái vỏ của các loài giáp xác (tôm, cua…) vậy, vừa là hệ thống bảo vệ cơ thể khỏi tác động của môi trường xung quanh, vừa là cái khung cấu trúc để cho cơ thể bên trong được phát triển! Người có suy nghĩ chính chắn, vững vàng không dễ gì bị tác động của môi trường xung quanh, kẻ không có tư duy gì đáng kể thì… ai nói gì cũng nghe, ai xúi gì cũng làm! Tuy tác dụng là vậy, nhưng phát triển đến một mức độ nào đó, cái vỏ này lại trở thành vật cản trở, vì cơ thể có nhu cầu phải trở nên lớn hơn, mà cái vỏ không lớn hơn được, do đó phải trãi qua… rất nhiều chu kỳ lột xác!

Nhiều người học đâu đó vài ngôn từ lảm nhảm, cũng tự tạo nên cái vỏ như thế, họ hài lòng với cái vỏ be bé ấy, rồi đóng khung cứng luôn trong đó! Họ không hiểu “cái vỏ ngôn từ” có hai mặt, phải thay đổi, nếu không sẽ trở thành tù nhân của cái vỏ do chính mình tạo ra! Dĩ nhiên, thay đổi có tính cấu trúc và kế thừa, còn những loại “ốc mượn hồn” thì không cần kể đến! Cứ như thế phát triển từng bước, đến cảnh giới dùng “Vô Ngôn Thông” (thông hiểu không cần… ngôn từ) để bước qua “Vô Môn Quan” (cửa không có… cổng) thì chắc lúc đó về với chư Phật rồi! Hoà thượng Thuỵ Nham Sư Ngạn mỗi ngày tự gọi: “Ông chủ!”, rồi tự trả lời: “Dạ”, lại tiếp: “Tỉnh táo nhé!” – “Dạ” – “Mai kia mốt nọ chớ để người gạt nhé!” – “Dạ, dạ!”

tiếng Việt có 8 thanh

Lâu về trước, một đêm khó ngủ, chui vô cái hang thỏ Alice – in – wonderland trên Internet và xem cái này, một người nước ngoài học tiếng Việt với cảm quan nhạy bén đã nhận ra tiếng Việt có 8 thay vì 6 thanh. Điều này có vẻ không được “đúng” cho lắm, vì nhìn từ hệ thống chữ Latin thì tiếng Việt chỉ có 6 thanh. Nhưng phân tích ngữ âm học, “sắc” và “nặng” có thể được chia thành 2 thanh con. Hơi khó để nhận ra với người đã quen chữ Quốc ngữ, nhưng với người “chưa biết gì” do mới học tiếng Việt thì lại nhìn ra được! Nếu đọc các tác giả cũ…

Như Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim sẽ thấy họ dùng cách phân loại xưa có nguồn gốc Trung Quốc là “Tứ thanh – 四声“. Tứ thanh bao gồm: bình – , thượng – , khứ – , nhập – . Mỗi thanh này lại chia thành 2 thanh con là: phù – & trầm – , nên tổ hợp lại sẽ có 4 x 2 = 8 thanh. Điều này… rất đáng ngạc nhiên, đi rất gần với các phân tích ngữ âm học hiện đại! Theo cách giải thích này thì tiếng Việt có 8 hoặc 7 thanh, 7 thanh là do “hỏi” và “ngã” đã nhập lại làm một. “Tứ thanh” là nền tảng quan trọng của thơ ca Đường, Tống.

Từ “Tứ thanh” phát triển thành hàng trăm niêm luật của Đường thi, hàng ngàn luật của Tống từ. Sang đến thời Nguyên, xã hội TQ có nhiều biến động lớn, các bộ tộc phương Bắc tràn xuống, ngôn ngữ mất bớt thanh điệu và còn lại 4 thanh như tiếng Quan thoại ngày nay. Từ đó, người TQ bắt đầu làm thơ… “sai luật”, sai khi đọc theo âm Hán-Việt nhưng vẫn “đúng” khi đọc theo âm Quan thoại! Đó là lý do tại sao người Việt đọc Đường thi, Tống từ thấy rất hay nhưng sang Nguyên khúc thì bắt đầu thấy hơi “lạc vận”, đến Minh, Thanh thì rất dễ nhận ra nhiều khi “âm luật” “sai” rất rõ ràng!

Trở lại vấn đề tiếng Việt có 6 thanh hay là 8 thanh, thực ra 6 hay 8 thanh, với đa số người học tiếng Việt không quá quan trọng. Nhưng cần hiểu sâu về hệ thống “âm luật cổ” để có hướng phát triển cho hệ thống ký âm Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ, một hệ thống chữ viết nhân tạo và có phần “hơi vội vàng, tạm bợ, hơi duy ý chí và áp đặt” đã khiến chúng ta có cái ấn tượng sai lạc là tiếng Việt chỉ có 6 (hoặc 5) thanh! Đúng hơn, về mặt ngữ âm học, cần phải nói rõ là tiếng Việt có 8 (hoặc 7) thanh, nhưng hệ thống chữ ký âm Quốc ngữ hiện tại chỉ sử dụng có 5 ký hiệu để biểu diễn thanh điệu!

vay mượn

Ngôn ngữ và văn hoá TQ ảnh hưởng khắp Á Đông: Đài, Hàn, Nhật, etc… không chỉ riêng gì Việt Nam, từ cả ngàn năm trước cho đến thời hiện đại. Dưới đây là 3 ví dụ về những thời điểm khác nhau mà một từ tiếng Hoa du nhập vào tiếng Việt, ví dụ đầu tiên là chữ… “ví dụ”:

1. 比如 âm Hán – Việt: tỉ như, âm Bắc Kinh hiện đại đọc là… ví dụ. Hiện tại, trong tiếng Việt, “tỉ như” và “ví dụ” dùng tương đương nhau, cả 2 thực ra chỉ là một từ, nhưng du nhập vào VN tại 2 thời điểm khác nhau, một là cả ngàn năm trước, một có thể chỉ mới vài trăm năm gần đây!

2. 如果 âm Hán – Việt: như quả, âm Bắc Kinh hiện đại đọc là: rút cuộc, hiểu theo nghĩa: kết quả là, cuối cùng thì… “Như quả”, từ này trong Hán Nôm rất ít thấy ghi nhận. Rút cuộc, có thể kết luận từ “rút cuộc” du nhập vào tiếng Việt tại một thời điểm chưa quá xa.

3. âm Hán Việt: toan, toán. Từ này du nhập vào tiếng Việt chỉ vài năm gần đây, âm Bắc Kinh đọc giống như là… xoã, chính là từ “xoã” của giới trẻ hiện tại với ý nghĩa: bỏ đi, quên đi, thư giãn. Hãy copy cụm từ: 算了,回家了 vào translate.google.com xem nó đọc và dịch thế nào!

Một số người thành kiến với ngôn ngữ và văn hoá TQ, nhưng không nhận ra ảnh hưởng sâu rộng của nó khắp Á Đông, cũng chẳng khác gì ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp – La Mã với phương Tây vậy. Hình dưới: cổ động viên bóng đá Nhật Bản đeo băng-rôn đề chữ: Tất Thắng – 必勝.