lạc hà thu thuỷ

Facebook lại nhắc, hồi đó mới chèo được 2, 3 năm… xuồng đi thuê ở khu du lịch chứ chưa tự đóng. Vạn sự khởi đầu nan, lúc mới đầu nhảy xuống nước, từ con kênh nhỏ vài chục mét ra đến con sông SG ngang mấy trăm mét nhìn mênh mông đáng sợ, cảm giác hồi hộp vô cùng.

Giờ mấy chục cây số ngang biển vẫn thấy nhỏ. Cái gì cũng phải tập từ từ, tự tay làm rồi mới hiểu, hồi xưa, nghe “bọn Tây” nói chuyện chèo vài ngàn cây số bằng cái xuồng ngang 50cm, nếu không đã tự tay chèo vài trăm cây, thì e là nghe như chuyện khoác lác, tào lao…

bạc tần hoài

Thuyền mơ trong khúc Nam Ai, đàn khuya vẳng trên sông dài, ai luyến, ai tiếc khúc ca Tần Hoài… Bao kiếp giang hồ, ly biệt thường tình… (Đêm tàn bến Ngự – Dương Thiệu Tước). “Khúc ca Tần Hoài” nhắc đến trong bài hát là khúc ca nào?

Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa,
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng Hậu đình hoa.
Khói mờ sóng lạnh bãi trăng trong,
Đêm đậu bến Tần quán rượu đông.
Thương nữ không hay sầu nước mất,
Hậu đình hoa hát vọng sang sông.

Ấy chính là gợi nhớ lại bài thơ “Bạc Tần Hoài” – Đỗ Mục đã có nhắc đến về trước… Giờ đây, phim ảnh Trung Quốc bắt đầu đưa Tần Hoài trở lại, xem 4, 5 phim đều thấy có cảnh này, còn ở Việt Nam người ta đã quên mất từ lâu, chỉ có họ Dương kia là còn nhớ!

杜牧 – 泊秦淮

烟籠寒水月籠沙
夜泊秦淮近酒家
商女不知亡國恨
隔江猶唱後庭花

tặng thiếu niên

Tặng thiếu niên – Ôn Đình Quân – Giang hải tương phùng khách hận đa, Thu phong diệp há Động Đình ba. Tửu hàm dạ biệt Hoài Âm thị, Nguyệt chiếu cao lâu nhất khúc ca!

溫庭筠 – 贈少年

江海相逢客恨多
秋風葉下洞庭波
酒酣夜別淮陰市
月照高樓一曲歌

thủ không thuyền

Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền, Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn, Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự, Mộng đề trang lệ hồng lan can… – Thuyền không đậu bến mặc ai, Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng. Đêm khuya chợt nhớ tuần tuổi trẻ, Lệ trong mơ, hoen vẻ phấn son…

白居易 – 琵琶行

去來江口守空船
繞船明月江水寒
夜深忽夢少年事
夢啼妝淚紅闌干

bạc thuyền qua châu

Khai bút đầu xuân – Bạc thuyền Qua châu – Vương An Thạch. Đường thi, Tống từ, Nguyên khúc… tốt nhất cứ đọc nguyên văn chữ Hán, tiếng Việt chỉ mang tính tham khảo, dịch ra rồi, chẳng còn mùi vị gì!

Kinh Khẩu Qua Châu nhất thuỷ gian,
Chung San chỉ cách sổ trùng san.
Xuân phong hựu lục Giang Nam ngạn,
Minh nguyệt hà thời chiếu ngã hoàn?
Qua Châu, Kinh Khẩu một sông,
Chung Nam cách núi mấy trùng trơ vơ.
Giang Nam xuân lại xanh bờ,
Đường về nào biết bao giờ trăng soi?

王安石 – 泊船瓜洲

京口瓜洲一水間
鍾山只隔數重山
春風又綠江南岸
明月何時照我還

xuân dạ lạc thành văn địch

Thuỳ gia ngọc địch ám phi thanh, Tán nhập xuân phong mãn Lạc thành. Thử dạ khúc trung văn chiết liễu, Hà nhân bất khởi cố viên tình? – Sáo ngọc nhà ai tiếng mơ màng, Theo gió xuân vào khắp Lạc Dương. Văng vẳng đêm nay bài chiết liễu, Ai người không chạnh nỗi tha hương?

李白 – 春夜洛城聞笛

誰家玉笛暗飛聲
散入春風滿洛城
此夜曲中聞折柳
何人不起故園情

khí thôn ngưu

Tản mạn về bài thơ Thuật hoài, Trần triều tướng quân, Phạm công Ngũ Lão, nguyên văn: Hoành sáo giang san cáp kỷ thu, Tam quân tì hổ khí thôn ngưu, Nam nhi vị liễu công danh trái, Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu… Sách vở cũ (như Trần Trọng Kim) đều lý giải “ngưu” là sao Ngưu, sao Đẩu, nên giải nghĩa câu này: chí khí ba quân mạnh mẽ như hổ báo, muốn nuốt cả sao trên trời. Khi nhỏ đọc vậy thì chỉ hiểu vậy, không thắc mắc!

Nhưng giới văn học sử hiện đại khoa học hơn, lý giải “khí thôn ngưu” đơn giản là “nuốt trôi con trâu”, ngữ nghĩa hợp lý nếu liên hệ với 2 chữ “hổ báo” phía trước, không cần phải lãng mạn hoá “trên trời”. Vậy câu này hiểu đúng là: ba quân chí khí mạnh mẽ như hổ báo muốn nuốt trôi trâu! (“ngưu” là bò, “thủy ngưu” mới là trâu, nhưng dùng đã quen, không sửa). Hy vọng năm mới, vận sự đổi thay, Covid tiêu tán, nuốt trôi được con trâu Tân Sửu này!

công án

Giải thích chút, câu “phùng Phật sát Phật, phùng Tổ sát Tổ” – 逢佛殺佛,逢祖殺祖。 Chuyện kể lại trong Lâm Tế lục, Nghĩa Huyền thiền sư, một lần thấy môn đồ đang chăm chú tụng kinh, niệm Phật, thái độ nhất nhất thành kính, bèn hét lớn: Gặp Phật thì giết Phật, gặp Tổ thì giết Tổ”. Ngữ nghĩa thì dài dòng, nhưng về phương pháp, đây gọi là “Công án” – 公案, thường dùng trong Thiền tông, nhằm tạo ra một cú sốc mạnh, sốc tâm lý hay cả vật lý (thể chất), phá vỡ chướng ngại, đưa tâm trí người tu tập ra khỏi những khuôn khổ thông thường!

Đặc trưng của công án là sử dụng nhiều nghịch lý, những điều nằm ngoài phạm vi của lý luận. Công án không phải là câu đố thông thường nên nó không thể được giải đáp bằng lý luận, muốn hiểu nó buộc phải nhảy qua một cấp độ khác của nhận thức. Vì lời giải của công án nằm ngoài lý luận, nên công án chính là được thiết kế để thiền sinh thấy rõ giới hạn của tư duy, của ngôn từ và để hiểu, đáp ứng được công án, buộc lòng phải chuyển hoá tâm thức bằng một bước nhảy của trực giác, nhảy qua khỏi sự mâu thuẫn của lý luận nhị nguyên…

nguyễn bính

Rồi đây sóng gió ngang sông,
Đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ.
Miếu thiêng vụng kén người thờ…

Facebook nhắc ngày này năm trước… Người có ảnh hưởng lớn nhất tới giới sáng tác Bolero, ấy có lẽ là… Nguyễn Bính. Chính cái phong cách dân gian, gần gũi ấy nên gây được cảm tình, cảm hứng cho rất nhiều loại độc giả khác nhau, từ bình dân cho tới sang trọng. Ngôn từ thi ca của Nguyễn Bính được bắt gặp lặp lại trong vô số thể loại âm nhạc!

Điều có vẻ hiển nhiên mà ít người nhận ra: 2 người cùng nói 1 câu giống nhau, không có nghĩa là 2 người đó… giống nhau (chỉ là nói thôi mà, nói gì không được, mở miệng từ bi, hỷ xã đâu có nghĩa tôi là Đức Phật!) Ấy nên cái sự bình dân của Nguyễn Bính nó khác xa cái “bình dân” học lóm của bolero, có nhiều điều “vẹt” không thể hiểu được!

bùa chú

Nói chuyện lồng tiếng phim Hồng Kông ở bên hông Chợ Lớn, từ hồi còn nhỏ xíu, hễ mà nghe lồng tiếng kiểu đó là tôi tắt TV không xem. Xin nói rõ là tôi không có ác cảm gì với người Hoa Chợ Lớn, ngược lại còn thích họ rất nhiều! Nhưng mà lồng tiếng như vậy là không xem, không nghe, có hai lý do: thứ nhất là nghe phải cho ra tiếng Việt, dở cũng được nhưng phải là tiếng Việt, thứ 2 là phải hiểu thấu đáo về văn hoá cổ truyền TQ, trích dẫn cổ văn trong phim lồng tiếng, thuyết minh không câu nào là không sai, vì người lồng tiếng thực ra không biết gì về cổ văn. Riết rồi xem phim lồng tiếng, đọc trích dẫn cổ văn giống y như nghe pháp sư đọc sấm ký, bùa chú!

Rồi giờ đọc sách báo cũng thấy cũng y chang như vậy, dịch từ tiếng Anh sang, đọc là biết người dịch không hiểu gì, viết như bùa chú! Haiza, tiếng Hoa khó không nói, học tiếng Anh bao năm rồi thấy “công phu” cũng chỉ có thế. Hãi nhất bây giờ là nhiều sách báo viết thuần tiếng Việt mà đọc mãi cũng không hiểu nói gì, nghe cũng như bùa chú, hay là mình quá dốt chăng!? Tiếng Anh, tiếng Hoa xa lạ, khó khăn không kể, đằng này tiếng mẹ đẻ cũng vậy! Nhiều người thực ra không bao giờ hiểu được tôi khó chỗ nào, là từ những cái nhỏ như thế: tiếng Việt tào lao không nghe, nhạc tào lao không nghe, chuyện tào lao không nghe… miễn nhiễm với những thứ xàm xí!

xăm, 2021

賈島 – 寄韓潮州愈

一夕瘴烟風卷盡
月明初上浪西樓

Nhất tịch chướng yên phong quyển tận, Nguyệt minh sơ thướng Lãng Tây lâu.

Một đêm gió thổi, khói tan, Lầu Lãng Tây, ánh trăng vàng hiện ra.

Lâu ko bốc quẻ xăm nào, những ngày cuối năm, nghĩ tới những việc dự định sẽ làm, bèn đem 100 câu “Đường thi thiêm” đã làm trước đây ra, dùng điện thoại phát sinh 1 số ngẫu nhiên, bốc được ngay 1 câu của Giả Đảo. Đang nghĩ xem là điềm gì, là ý gì đây!?

jack london

Bài viết rất hay, cũng cấp nhiều dữ liệu lịch sử để cho chúng ta có thể hiểu đúng hơn về Jack London, tác giả của những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn đã quá nổi tiếng như: Tiếng gọi nơi hoang dã, Nanh trắng, Sói biển, Gót sắt, Nhóm lửa, Tình yêu cuộc sống, etc… Vâng, nếu chỉ đọc sách của ông thôi thì chúng ta sẽ dễ dàng tưởng tượng ra rằng Jack London là một con sói biển thật sự, ông ta dường như đến từ một thế giới hải hành xa xưa, kỳ bí nào đó, với tất cả những kinh nghiệm sống khôn ngoan, dầy dặn của nó. Sự thật… hoàn toàn không phải như thế!

Sự thật, Jack London sau khi đã viết khá nhiều sách mới bắt đầu đi biển. Ông ta đọc cuốn “Một mình vòng quanh thế giới” của Joshua Slocum, nhảy xuống thuyền với một đống sách hàng hải, vừa đi vừa học cách sử dụng kính lục phân! Giữa một cơn bão biển, Jack London gãi đầu gãi tai tự hỏi tại sao động tác “heave-to”, dằng thuyền bằng 2 lá buồm ngược nhau không hoạt động như trong sách mô tả. Sự thật là Jack London là một tay mơ đúng nghĩa, dong thuyền từ San Francisco đi Hawaii, tới đích rồi mà vẫn không hiểu vì sao còn sống!

xuân quỳnh

Đợi đến khi Google làm cái Doodle về Xuân Quỳnh thì bà con đổ xô đi đọc, à, ta biết rồi, XQ là như thế này thế kia. Google thì… biết éo gì về VN, có chăng là vài ngôn từ bề nổi, một vài kiểu diễn đạt “rất Tây”, kiểu như “Bầu trời trong quả trứng” (hay là Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ)…

bác sĩ Zhivago

tác phẩm này từ nhỏ, bản dịch tiếng Việt của Lê Khánh Trường, sau mới biết thực ra là dịch từ bản tiếng Pháp đã được dịch từ tiếng Nga. Haiza, qua 2, 3 bước mới tiếp cận được, mất hết các chi tiết qua các lần dịch! Quan trọng là cách thức tiếp cận văn hoá, tốt nhất là nguyên gốc. Ví dụ như thơ cổ chữ Hán mà dịch sang tiếng Anh nghe rất buồn cười, mất gần hết sạch ý nghĩa gốc. Haiza, người ta bảo: trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một sờ, trăm sờ không bằng một…

sách cũ – 2

Những ngày đầu năm mới, với toàn những kỷ niệm cũ… “Cô bạn béo ú na ú nần” này đã quen từ nhiều năm trước, cứ y như rằng cửa hàng sách cũ nào cũng có bé mèo nằm đó làm nhiệm vụ “canh gác” (lũ chuột)…

trừu đao đoạn thuỷ

Suy nghĩ vẩn vơ, điều kỳ lạ là, thời bây giờ, người TQ có thể đọc sử VN như: Hoàng Lê nhất thống chí, Đại Việt sử ký toàn thư .v.v. một cách tự nhiên, bằng chính ngôn ngữ của họ (vì tất cả những sách đó đều viết bằng chữ Hán). Trong khi người Việt không còn có thể tự đọc sử của chính mình!

Từ trong vốn văn hoá cũ, từ hơn 1200 năm trước, Lý Bạch đã cho thấy một mẫu cá tính… larger – than – life, xa hơn cả cuộc đời! Cuộc sống hiện đại, với tất cả những tiến bộ, hiểu biết của nó, hoá ra, lại toàn tạo thành những con người… smaller – than – micro – beads, nhỏ hơn vi – nhựa!

thanh điệu

Nói chuyện… chính tả, lần này từ góc nhìn của một kẻ tập tễnh làm nhà ngôn ngữ học. Xưa giờ, dù thi thoảng vẫn viết sai chính tả (thường là do vô ý hay do đánh máy quá nhanh), tôi vẫn chủ trương mọi người viết đúng một thứ chính tả chung! Đó là lẽ hiển nhiên, vì mình viết là cho số đông người khác đọc và xã hội phát triển thì mọi điều cần phải được chuẩn hoá! Nên sai thì thi thoảng vẫn sai, nhưng chuẩn thì vẫn cứ phải chuẩn. Thế nhưng vẫn có những suy nghĩ khác, khác với số đông thường nghĩ. Những suy nghĩ bất chợt đến khi trò chuyện với những thiếu nữ Mông ở Đồng Văn và Mèo Vạc, những người đã đi học và nói tiếng Phổ thông còn xịn hơn, còn dể nghe và hay hơn cả tôi, ít nhất là về mặt phát âm!

Hồi trước nghĩ rằng tiếng Việt có 6 thanh sắc (hoặc 5 thanh tuỳ vùng) đã là nhiều lắm rồi, nhưng đến khi lên cao nguyên Đồng Văn, nghe người Mông nói mới biết tiếng Mông ở Việt Nam có đến 7 thanh, tiếng Mông một số vùng ở Trung Quốc có đến… 8 thanh. Thật khó hình dung một ngôn ngữ lại có nhiều thanh điệu như vậy, líu lo còn hơn cả chim hót! Tiếng Hoa cổ (cổ ở đây là nói thời Đường), lấy âm địa phương Trường An làm chuẩn, theo ghi nhận của “Thiết vận”, có 6 thanh. Thiết vận (phiên thiết) là gì thì người học chữ Hán mới biết, nhưng nôm na là một phương pháp ghi âm của người xưa, xuất hiện từ thời Tuỳ, Hán, thậm chí có thể còn sớm hơn. 6 thanh của tiếng Hán cổ đó, miễn cưỡng có thể “ánh xạ” vào 6 thanh của tiếng Việt.

Tiếng Mông 8 thanh, tiếng Việt 6 thanh, tiếng Hoa hiện đại chỉ còn 4 thanh… Nói điều này sẽ có người phản đối, nhưng một nền văn minh càng khép kín, càng lạc hậu thì ngôn ngữ càng có nhiều thanh sắc! Đó là vì càng hiện đại, càng có nhu cầu giao tiếp đến lượng lớn thính giả, thì ngôn ngữ càng phải bỏ bớt những “khu biệt” địa phương, vùng miền, dần dần bỏ bớt số thanh điệu. Tại thời điểm lưu truyền vào Việt Nam, Thiết vận đã ghi nhận những phát âm không còn tồn tại, vì nó là một hệ thống ký âm đã có từ trước đó rất lâu. Có nghĩa là tiếng Hoa thời Đường đã khác thời Hán rất nhiều, nhiều “ký âm” chỉ còn tồn tại trong sách vở chứ không còn trên thực tế! Điều tương tự cũng đúng cho tiếng Việt và hệ thống ký âm “Quốc ngữ”.

Hệ thống ký âm Quốc ngữ, từ khi hình thành, lấy “chuẩn” là một địa phương đâu đó ở vùng Quảng Bình, khá nhiều ký âm cổ cũng đã không còn tồn tại ngay tại gốc Quảng Bình, ví dụ như: “các” & “cát”, “ngan” và “ngang”… theo như quan sát hiện tại hầu như đã đồng nhất. Các địa phương càng cổ, càng bảo thủ (điển hình là một dải khu 4, từ Thanh Hoá, Nghệ An đến Huế) thì sự “khu biệt” càng lớn. Tiếng Hoa hiện đại đã phát triển đến một mức mà rất nhiều ký âm không thể phân biệt được, không những “mam” và “man” đọc như nhau, mà “man” và “nan” cũng đọc như nhau, nghĩa là “m” và “n” đọc như nhau, dù đứng đầu hay cuối con chữ. Suy nghĩ lan man… nhận thấy rằng sự tiến hoá của tự nhiên, nó khác xa những điều người ta thường nghĩ!

Nghe có vẻ ngược đời, nhưng tôi nghĩ, không nhất thiết phải chấp nhất quá triệt để vào hệ thống ký âm “Quốc ngữ”, vì nguyên thuỷ, nó đã không phải là một hệ thống ký âm phổ quát (mà thực sự thì làm gì có một thứ tiếng Việt phổ quát!?), và quan trọng nhất là xu hướng tiến hoá của ngôn ngữ thường không bảo lưu những khác biệt quá “tinh vi, nhỏ nhặt”. Viết đúng chính tả vẫn là việc cần phải làm, nhưng bên cạnh đó, sự phát triển của “chuẩn hoá”, cái suy nghĩ băn khoăn cho rằng tự nhiên là “deterministic” hay “non – deterministic”, là “tất định” hay “bất định”, vẫn luôn còn đó (tức là Einstein sẽ vẫn luôn đối nghịch với Heisenberg). Dù gì đi nữa, ngôn ngữ vẫn sẽ phát triển theo hướng âm luật dần đơn giản hoá, dần thống nhất!

ông phổng sành

Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng!
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không?

Hình chụp trong chuyến xuyên Việt năm 2016, tại thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh! Cẩm Xuyên là quê hương của ông Hà Huy Tập, nguyên Tổng bí thư thứ 3 của Đảng Cộng Sản Đông Dương.