Gẫm cho kỹ đến bất nhân là tạo vật, Ðã sinh người lại hạn lấy năm. Kể chi thằng lên bảy, đứa lên năm, Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc! Lại mang lấy lợi danh vinh nhục,
Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan.
E đến khi hoa rữa trăng tàn,
Xuân một khắc dễ nghìn vàng đổi chác!
Tế suy vật lý tu hành lạc,
An dụng phù danh bạn thử thân.
Song bất nhân mà lại chí nhân,
Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy.
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy!
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù?
Nghề chơi cũng lắm công phu…
Tag: xuyên Việt
ba vạn sáu nghìn
lạc mất mùa xuân
Đành với duyên kiếp em bước đi trong chiều mưa rơi, lặng đứng trên bến anh mãi trông thuyền ra khơi, những tháng năm đếm lá theo mùa thu chết, những thu chết… (Le géant de papier – Jean Jacques Lafon)
trưa nay phố biển
nam quốc sơn hà
Đã đọc nhiều hoành phi ca tụng công đức nghe sến, nhàm… Riêng tại miếu Lam Sơn động chủ (Lê Thái Tổ – Lê Lợi), Lam Kinh, bức hoành đề 6 chữ rất hay: 南國山河自此 – Nam quốc sơn hà tự thử – Sông núi nước Nam… từ đó…
Kiểu như bây giờ hiện đại viết phải có dấu 3 chấm lửng, muốn ngắt câu thế nào, muốn điền gì vào chỗ trống thì điền.
hội thề lũng nhai
Nhân dịp đi thăm khu di tích Lam Kinh vừa rồi, tám chơi một vài chuyện lịch sử vặt vãnh. Nguyễn Trãi, như lịch sử kể lại, là bậc anh hùng dân tộc, là danh nhân văn hoá lớn của Việt Nam, người đã giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, xây nên triều đại nhà Lê. Kháng chiến thành công, Lê Thái Tổ xuống chiếu ban thưởng cho các vị khai quốc công thần, gồm 2 đợt: Đợt 1 (1428): ban thưởng cho 121 người, không có tên Nguyễn Trãi. Đợt 2 (1429): ban thưởng cho 93 người, cũng không có tên Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi làm quan dưới các triều vua Lê, chức: Nhập nội hành khiển, tước: Triều liệt đại phu, hàm: Tam phẩm, vẫn còn dưới nhiều quan to khác (Nhất phẩm, Nhị phẩm). Tại sao thế!? Muốn hiểu tại sao, phải truy nguyên về Hội thề Lũng Nhai, năm 1416. Lịch sử chép về hội thề Lũng Nhai có nhiều phiên bản khác nhau chút ít, nhưng đại để: Lê Lợi, Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Bùi Quốc Hưng, Trịnh Khả, Trương Lôi, Vũ Uy, Đinh Liệt… cả thảy 19 người thề cùng ra sức chống giặc ngoại xâm.
Trong danh sách này không có Nguyễn Trãi! Thực tế, hội thề diễn ra vào năm 1416, thì mãi 4 năm sau, Nguyễn Trãi mới gia nhập phong trào Lam Sơn, mặc dù vai trò của ông trong cuộc kháng chiến dài 11 năm này không ai có thể phủ nhận. Phong trào Lam Sơn thời gian đầu nhiều gian khó, bản thân Lê Lợi từng 2 lần phải chui vào bụi cây trốn chó săn của quân Minh lùng sục. Hai lần chui vào bụi rậm trốn, cả 2 lần đều xuất hiện một con cáo (hồ ly) ở đâu ra, đánh lạc hướng chó săn của quân Minh.
Những chi tiết này là thật, các sử quan vài thế kỷ sau, khi vào điện chầu thời Lê, vẫn còn thấy bức tượng đầu là thiếu nữ xinh đẹp, thân là cáo, thờ trong điện, ấy là Lê Lợi nhớ “ơn cứu mạng” ngày xưa mà tạc tượng thờ. Các vị họ Lê, đa số là con cháu, họ hàng trong gia tộc Lê Lợi, kẻ chết vì sự truy đuổi của quân thù, người hy sinh vì mũi tên hòn đạn nơi trận tiền, nhiều không sao kể xiết. Không chỉ có Lê Lai hy sinh cứu chúa, cả 3 người con trai của Lê Lai đều lần lượt bỏ mình trong chiến trận.
Lam Sơn không chỉ phải đấu tranh với một mình quân Minh, còn có cả quân Ai Lao, Chămpa cũng vây đánh Lam Sơn theo sự điều động của Bắc triều, ấy là chưa kể bao nhiêu nội gian, nội phản. Thế nên, máu đã đổ, đổ rất nhiều. Nói theo ngôn từ của quốc ca Pháp ấy là: L’étendard sanglant est levé
, tiêu chí chọn lựa được đo… bằng máu! Thế nên, tuy là người tham mưu, hoạch định sách lược, công lao vô kể như Nguyễn Trãi, nhưng trong 2 đợt “phong thần” đầu tiên đều không có tên ông.
Ấy là vì ông không nằm trong số những người phải “đổ máu” những ngày đầu gian khó! Nguyễn Trãi là bậc Nho học uyên thâm, để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị, tên tuổi lưu vào sử sách, còn những người dẫn quân xông pha trận mạc như Lê Ê, Lê Văn Lễ, Ngô Kinh, Nguyễn Xí… đa phần còn không biết chữ! Kể chuyện vặt vãnh để thấy rằng, trong “lý lịch cán bộ” của giai đoạn lịch sử gần đây, cái chi tiết “năm vào Đảng”, trước / sau 45, trước / sau 54, trước / sau 75 là tối quan trọng!
ngói đỏ lợp nghè
Ngói đỏ lợp nghè, lớp trên đè lớp dưới.
Đá xanh xây cống, hòn dưới chống hòn trên.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy, dù dân số đông gấp vài lần ĐNA, nhưng sự đa dạng sinh học của dân TQ (dưới góc độ đa dạng các phân tử di truyền DNA) lại ít hơn nhiều lần. Thế có nghĩa là: không chỉ đông hơn, họ còn đồng nhất hơn hẳn, từ trong… máu huyết. Hiểu điều đó như thế nào, dùng sự đa dạng để tạo ra những giá trị khác biệt, hay cứ mãi tủn mủn, lặt vặt, kình chống nhau, chẳng ai chịu ai, sự lựa chọn là ở các bạn!
đại hùng
Gặp trên đường xuyên Việt gần Sa Huỳnh, Quảng Ngãi… đã đi được hai năm rưỡi, hơn nửa đường từ Cà Mau về Yên Tử. Cứ đi hai bước, lại cúi một lạy sát đất. Mọi người có biết tại sao hầu hết các chùa, tại ngôi điện trung tâm, đều treo một bức hoành đề: 大雄寶殿 – ĐẠI HÙNG bảo điện!?
Trong cái thời “Mạt Pháp” này, người người, nhà nhà “bi bô” tụng niệm, rao giảng về “từ bi”, “trí tuệ”, nhưng cố tình lờ đi, quên đi lời Phật đầy đủ phải có 3 yếu tố: bi, trí, dũng. Những loại “bi và trí” phiến diện, lặt vặt, đơn thuần chỉ là “tiểu xảo ngôn từ”, mà không có “dũng” thì làm được việc gì?
thuyền buồm ba vát
Những ngày lang thang ở thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh… thăm bãi cọc sông Bạch Đằng mà khi xưa Hưng Đạo Vương đã đánh bại quân Nguyên Mông. Lại có dịp thăm chiếc thuyền buồm “ba vát” dài khoảng 11 mét do nghệ nhân Lê Đức Chắn đóng sắp hoàn thiện. “Ba vát” là mẫu thuyền cổ truyền đặc trưng của vịnh Bắc bộ, sử dụng hai buồm cánh dơi.
Một “trãi nghiệm” rất lý thú khi trực tiếp tham quan chiếc thuyền buồm gỗ đang đóng còn nằm trên đà. Bác nghệ nhân Lê Đức Chắn ngoài 70 tuổi là một trong số những người cuối cùng còn lưu giữ được các kiến thức và kỹ năng đóng thuyền cổ truyền. Ít nhất, ta được biết rằng những kiến thức, kinh nghiệm này đã được bảo tồn được dưới dạng hiện vật và bản vẽ.
côn sơn ca
阮廌 – 昆山歌
Ngỡ đã quên từ lâu, đứng nơi đây, nhẩm lại được toàn bộ nguyên bản Hán văn của Côn Sơn ca – Nguyễn Trãi: Côn sơn hữu tuyền, Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên, Ngô dĩ vi cầm huyền…
Trích bản dịch tiếng Việt:
Người như cây cỏ thân hình nát tan.
Hết ưu lạc đến bi hoan,
Tốt tươi khô héo, tuần hoàn đổi thay.
Núi gò đài các đó đây,
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh.
Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.
đình làng Trà Cổ
Giây phút sững sờ bên đình làng Trà Cổ… Phường (đảo) Trà Cổ, tp. Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, ngay sát biên giới với TQ, là một khu định cư rất lâu đời của người Việt. Đình xây năm 1461, về kiến trúc có nhiều điểm tương đồng với đình Mông Phụ (Đường Lâm, Sơn Tây), đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh)… đã viếng thăm trong các chuyến xuyên Việt trước. Tuy không đẹp bằng nhưng tuổi đời nhiều hơn đến 2, 3 thế kỷ! Đình do một nhóm lính gốc Đồ Sơn, vâng lệnh triều đình ra trấn thủ biên cương xây dựng nên.
Ngồi nói chuyện với một cụ bà ngoài 70 sống ngay bên cạnh đình làng (và cũng nói chuyện thêm với một vài cư dân địa phương nữa), thoảng qua vài câu đầu đã thấy cụ bà rõ ràng không nói giọng miền Bắc! Thêm vài câu nữa thì tôi sững sờ nhận ra cái ngữ âm ấy, cái ngữ âm của chính mình, khó có thể mô tả một cách chính xác, nhưng có chút gì thô ráp kiểu Bắc và Trung Trung Bộ. Trà Cổ như quan sát hiện cũng đang dùng một loại thuyền đi biển dạng bè tre y như vùng Sầm Sơn, Thanh Hoá.
Rồi chợt nhận ra mình đang trò chuyện với một thứ tiếng Việt cổ, rất cổ, rất… Vietic! Một vết tích của sự di dân bằng đường biển, phân tán và rải rác nhiều nơi suốt chiều dài bờ biển Việt Nam, một di sản truyền đời với rất ít thay đổi, mang tính chất cực kỳ “phụ hệ và bảo thủ” được duy trì trong suốt hơn 500, 600 năm lịch sử. Một thứ tiếng Việt cổ thô ráp, cứng cáp của… chàng Lạc Long Quân trước khi nên duyên với nàng Âu Cơ, và trở nên mềm mại, êm dịu như giọng đồng bằng Bắc bộ bây giờ!
“trần” thời minh nguyệt
王昌齡 – 出塞
秦時明月漢時關
萬里長征人未還
但使龍城飛將在
不教胡馬渡陰山
Hình chụp trong một quán cafe cũ kỹ, gần như là đồng nát, thị trấn Sao Đỏ, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, 2017, một đêm không gian u ám, tối tăm: “Trần” thời minh nguyệt “Lý” thời quan, Vạn lý trường chinh nhân vị hoàn…
Vẫn (còn đây) là vầng trăng sáng đời Trần, vẫn còn đây là miền quan ải thời Lý, mà người chinh nhân vạn dặm đi vẫn chưa thấy về…
down to earth
Trở lại không gian một thành phố hãy còn là tỉnh lẻ, hơn 1/4 thế kỷ trở về trước, một Đà Nẵng nhỏ bé, nghèo nàn và lạc hậu. Hàng sáng cứ khoảng 4h là nhiều người dân lại đạp xe 10, 15 km đi tắm biển, bơi lội chán chê đến hơn 6, 7h mới về, chậm rãi ăn sáng rồi thong thả đi làm. Thành phố thời bao cấp, cũng chẳng có mấy công việc, tội gì phải vội!? Thế nên dân chúng giữ được thói quen tập thể dục đúng giờ rất lành mạnh! Một vài người đi bơi, mùa hè cũng như mùa đông, biển êm cũng như khi dông bão, dù trời lạnh cóng, họ vẫn bơi đều đặn hàng chục km mỗi sáng!
Một lối sống cực kỳ “xa xỉ” so với cuộc sống ở Sài Gòn thời bây giờ: mở mắt ra là kẹt đường đầy xe, khói, bụi, chen lấn, dẫm đạp, chửi bới nhau, thời gian ăn sáng chưa chắc có, nói gì đến việc đi bơi 1, 2 tiếng mỗi sáng? Đúng là thói quen “xa xỉ”, đúng là đồ “dở hơi biết bơi”, chỉ có dân “thượng lưu” mới có điều kiện như thế! Tôi vẫn thường luôn nhớ về những tháng ngày xa xưa ấy, những gì rất cơ bản, rất sơ đẳng, tạm gọi là “down – to – earth”, sống gần mặt đất! Những thói quen có ích cho sức khoẻ thể chất và tinh thần, nó tạo ra những con người rất tough – rất cứng!
alma mater mea
Sitting in the sandpit, life is a short trip… It’s so hard to get old without a cause. Youth’s like diamonds in the sun, and diamonds are forever…
Sơn Trà, chỉ là bán đảo nho nhỏ, đường vòng quanh chưa đầy 60 km. Những năm cấp 2, bọn tôi thường rong chơi ở đây: leo núi, băng rừng, cắm trại, tắm biển… Khi đó chưa có đường nhựa như giờ, chỉ là đường mòn rộng chừng 0.5m làm năm 1979 để đưa pháo cối ra đặt ngoài đó (đề phòng Trung Quốc đổ bộ đường biển). Đến giờ, tôi lờ mờ hiểu ra rằng, đã có những người dành cả đời để bảo vệ một đám xanh nhỏ nhoi như thế, và cũng sẽ có những kẻ tìm cách phá hoại bằng mọi giá.
Tạm dịch: (từ lúc còn) ngồi trong “hố cát”, (đến giờ) cuộc đời chỉ như một chuyến rong chơi ngắn. Thật khó để già đi mà không cho ta một lý do nào. Tuổi trẻ long lanh như kim cương trong ánh nắng, mà kim cương là mãi mãi… Hố cát (sandpit) là cái ô chứa cát ở vườn trẻ, làm để cho trẻ nghịch phá, đào bới, chơi đùa. Dễ có mấy chục năm, hôm nay mới trở lại cái “hố cát” tuổi thơ tôi, nguyên một vùng bán đảo Sơn Trà tuyệt đẹp, cái “hố cát” của một thời nghịch phá, vẫy vùng, mơ mộng.
thương nhớ đồng quê
bến my lăng
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
bắc hành – 2017, phần 21, kết
Càng vào Nam, thời tiết càng lúc càng nóng bức, mà dải bờ biển từ Cam Ranh vào đến Vũng Tàu đã biết tương đối kỹ. Thế nên quyết định “đổi gió” một chút cho hành trình, thay vì toàn là những cảnh quan vùng biển, cũng nên trải qua một chút không khí miền núi. Từ Cam Ranh, rẽ qua quốc lộ 27B đi Đà Lạt, thăm lại quãng đèo Ngoạn Mục mà đã từ lâu không đi lại. Đèo Ngoạn Mục cái tên được dịch từ tiếng Pháp là Bellevue (nice view) hay còn được gọi là đèo Sông Pha, lấy theo tên con sông “Krong Fa”.
Dọc tuyến đường này, còn thấy nhiều vết tích của tuyến đường xe lửa răng cưa mà người Pháp xây dựng từ Tháp Chàm đi Đà Lạt (nay đã hoang phế). Đoạn đường này nổi tiếng nguy hiểm với các loại xe khách, mặc dù núi đồi không phải là quá hiểm trở, độ dốc cũng không phải là quá lớn, các khúc cua cũng không phải là quá khúc khuỷu so với các con đèo khác. Nhưng đơn giản là vì các con dốc quá dài, hơn 150 km toàn lên (xuống) dốc liên tục, dể cháy thắng xe nếu tài xế không lưu ý!
Từ trên đỉnh đèo Ngoạn Mục nhìn xuống, cảnh quan thật đúng là… ngoạn mục. Đứng ở đây có được một cảm giác, hình dung rất rõ về cao nguyên Lâm Viên nổi bật lên hẳn trên nền cảnh quan xung quanh như thế nào. Hành trình tiếp tục đi về Đà Lạt, thành phố ngày càng hiện đại và đông đúc, từ đây đã là chốn quen thuộc vì Đà Lạt mà, đã đến đây dễ phải cả mấy chục lần. Ở lại thành phố cao nguyên này ít ngày, để gột bỏ bớt đi mùi của muối suốt mấy chục ngày hành trình ven biển!
Từ Đà Lạt, đổ đèo Prenn, đèo Bảo Lộc, đèo Chuối, theo quốc lộ 20 qua Phương Lâm, Tân Phú, Định Quán, La Ngà, Thống Nhất, Dầu Giây, Trảng Bom, Biên Hoà… về lại Sài Gòn, kết thúc hành trình! 44 ngày đi dọc theo bờ biển Việt Nam, với quá nhiều những trải nghiệm, những phát hiện thú vị. Cung đường ven biển mới hoàn thành Nam Trung bộ mở ra những cảnh quan trước đây tôi chưa từng được thấy! Hay đoạn đường chạy dọc theo vịnh Bái Tử Long cũng là có đoạn cảnh quan rất ngoạn mục!
Rất nhiều điều mới lạ nhìn thấy, chứng kiến dọc đường đi, như thuyền máy có xiếm ở Quất Lâm, Nam Định, ghe buồm “ba vách” cổ truyền ở Quảng Yên, Quảng Ninh, hay những chiếc ghe composite nhỏ trên đảo Cát Bà. Từ những cảnh quan thoáng đạt của vùng biển khu bảo tồn Núi Chúa, Phan Thiết, hay hoàng hôn cửa biển Cẩm Trung, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, hay bình minh rực sáng trên cửa Hội sông Lam, đến không gian đầy kỷ niệm của bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, hay chèo kayak trên vịnh Hạ Long…
thiên thượng hoả
Cafe sáng, TV đang chiếu phim “The Age of Adaline” gì đó, về một người phụ nữ, sau một tai nạn hy hữu năm 29 tuổi, cô ấy không già đi nữa, cô ấy cứ như thế, đến năm 108 tuổi vẫn nguyên vẹn nhan sắc… Trong một phút giây, bỗng thấy mình cũng giống y như thế, kiểu như bị “Thiên Thượng Hoả” đánh trúng í, ước gì… mình được già đi…
bắc hành – 2017, phần 20
Lại tiếp tục bị quyến rũ bởi 5000 sắc thái của màu xanh, nên tiếp tục đi dọc bờ biển, từ ghềnh Đá Đĩa, dọc theo sườn Đông của đầm Ô Loan, về phía thành phố Tuy Hoà. Nơi đây vùng cửa sông Đà Rằng là đồng bằng ven biển rộng nhất miền Trung, những thửa ruộng rộng thẳng cánh cò bay đã ngả sang mầu vàng, chờ ngày thu hoạch, nhìn rất thích mắt. Bằng giờ này ở các tỉnh miền núi phía Bắc thì lúa mới chỉ vừa gieo sạ xong. Tiếp tục đi dọc bờ biển về phía cửa Đà Nông (sông Bàn Thạch).
Từ đây là đã thấy núi Đá Bia sừng sững, tương truyền vua Lê Thánh Tông đã đến và xác định ranh giới nước Đại Việt tại đây năm 1471, gọi là nó Đá Bia, Linga hay Cùi Bắp tuỳ vào cách nhìn của những dân tộc khác nhau trong vùng. Đi thêm một quãng không xa là bãi Môn và mũi Điện, điểm được xem là cực Đông của phần lãnh thổ trên đất liền của Việt Nam. Nước biển xanh một màu ngọc huyền hoặc, gió mùa đông bắc vẫn còn vương vất chút đỉnh gây nên những đợt sóng bạc đầu đẹp mắt.
Phía nam của mũi Điện là vũng Rô, một vịnh kín gió, nơi neo đậu nhiều tàu cá, một vùng nuôi trồng hải sản và cả một thương cảng nhỏ. Cách đây chừng 5 năm, nơi đây đã xây nên một đài tưởng niệm đoàn tàu không số (phần tượng đài và phù điêu trang trí cực kỳ xấu xí, chẳng đâu vào đâu). Đi dọc bờ vũng Rô, ngắm nhìn những con tàu cá nhỏ, lại thêm những mảng màu xanh, với muôn ngàn sắc thái khác nhau, thay đổi tuỳ thuộc vào góc nhìn và điều kiện ánh sáng khác nhau trong ngày!
Tất cả những sắc màu xanh trong các ảnh này đều rất tự nhiên, vì tôi vốn chẳng phải là tay chụp chuyên nghiệp gì cho lắm, và ảnh cũng không hề có chỉnh sửa gì nhiều khác ngoài một số tính năng tự động của phần mềm Lightroom. Từ vũng Rô đi tiếp theo đèo Cả, Đại Lãnh, Vạn Giã, dọc theo vịnh Vân Phong về đến thị xã Ninh Hoà. Từ Ninh Hoà, men theo con đường ven biển chạy dọc bờ vịnh Nha Phu đi về thành phố Nha Trang, rồi lại là những dải bờ biển tuyệt đẹp của vịnh Cam Ranh.
Vẫn còn muốn tiếp tục chiêm ngưỡng thêm hàng ngàn sắc thái đa dạng khác nhau của tự nhiên, của một dải bờ biển đầy màu sắc Nam Trung bộ, nhưng hành trình đã kéo dài hơn 40 ngày, đã đến lúc phải… trở về nhà và tiếp tục nhiều công việc đang trì hoãn. Những chuyến di dài không chỉ mở mang tầm mắt, quan sát được những cảnh quan, sự việc, con người khác, mới lạ. Chúng còn “đặt nền móng”, tạo “tầm nhìn”, “tiền đề” cho… những hành trình còn dài hơn trong tương lai!
bắc hành – 2017, phần 19
Lại tiếp tục đi về phương Nam, từ Đà Nẵng theo con đường ven biển, chẳng mấy chốc đã đến Hội An, lại tiếp tục băng qua cầu Cửa Đại vừa mới xây xong để đi Tam Kỳ, Núi Thành, vẫn theo con đường ven biển. Từ đây vào đến quá Bình Định là những vùng đất đã biết tương đối rõ nên không phải để tâm quan sát nhiều nữa. Gần đến Sa Huỳnh (cuối Quảng Ngãi), bổng gặp 2 nhà sư đang hành hương từ Cà Mau về Yên Tử, đi theo kiểu bước 2 bước lại quỳ xuống lạy một lạy sát đất.
Họ đã đi như thế được 2 năm rưỡi, và hiện tại cũng chỉ mới được khoảng hơn nửa đường. Tôi thấy nhiều người vẫn hay trích dẫn những lời Phật dạy về từ bi, trí tuệ, những loại “bi” và “trí” lặt vặt, phiến diện, lập lờ cố tình đặt sai ngữ cảnh, mà quên đi rằng lời Phật dạy đầy đủ phải là: bi, trí và dũng. Sống trên cuộc đời này, nếu “trí tuệ” và “từ bi” mà chỉ cần dùng những lời nói chót lưỡi đầu môi mà có được dễ dàng thì dân tộc Việt Nam đâu có phải trải qua nhiều kiếp nạn đến thế!?
Người ta đã cố tình lờ đi rằng lời Phật dạy đầu tiên là phải có dũng khí, đảm lược hơn người. Không có hùng tâm, tráng khí thì không thể hoàn thành những hành trình như thế này được, ấy mới là công đức, chứ không phải việc đi chùa, cúng dường, phóng sanh, và lên Face tán láo về Phật pháp. Chính tiện nghi của cuộc sống hiện đại, sự phổ thông của các kênh truyền thông đại chúng đã dẫn đến một sự xuống cấp, lệch lạc tệ hại đến như thế, chẳng có loại “bi” và “trí” nào mà lại dễ dàng và rẻ tiền cả!
Dừng ăn trưa ở tt. Bồng Sơn, Hoài Nhơn, Bình Định, đối diện quán ăn nhác thấy một biển chữ Hoa đề: Nam Sinh dược phòng, à thì ra là 1 tiệm thuộc Bắc. Nhìn xung quanh lại thấy thêm 6, 7 tiệm như thế, chỉ trong vòng 1, 2 trăm mét, đã là một chuyện lạ. Các cửa hàng ở đây đồng loạt đề: “hiệu buôn X”, “hiệu buôn Y”, không dùng những từ ngữ hiện đại hơn như: “cửa hàng” hay “shop”. Đoán trong đầu, quanh đây thế nào cũng có vài nhà may, tiệm đóng giày hay sửa đồng hồ… quả đúng là như thế!
Hành trình tiếp tục đi qua Bình Định: An Nhơn, Quy Nhơn, chạy dọc phía Đông của đầm Cù Mông để về tx. Sông Cầu. Rồi tiếp tục đi về phía ghềnh Đá Đĩa, nằm ở phía Nam của vịnh Xuân Đài, qua sông Phú Ngân bằng cầu Ông Cọp, một cấu trúc cầu gỗ làm theo lối dân gian xưa dài trên 800m. Đến ghềnh Đá Đĩa để tưởng tượng ra, hàng triệu năm trước, những dòng nham thạch núi lửa nóng chảy tràn xuống, gặp nước nguội lại và tạo nên những cột đá đa giác (mà phổ biến là lục giác) như thế nào!