hms sirius

irius là con tàu dẫn đầu đoàn 11 chiếc chở hơn 1500 phạm nhân, quản giáo, sĩ quan, binh lính… thành lập khu định cư đầu tiên ở Úc, năm 1787. Đói khát, dịch bệnh khiến cho nhiều người bỏ mạng trong cuộc hải hành 250 ngày, 24.000km đến từ Anh đến Úc. Khu định cư đầu tiên được thành lập, do toàn quyền – governor Arthur Phillip lãnh đạo, hai năm đầu của những người di dân tràn ngập khó khăn và đói khát! Toàn quyền Phillip lại áp dụng mô hình quản lý cứng nhắc mang từ Anh sang: đánh cá và đi săn là phải có giấy phép, đoàn người phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thực phẩm mang từ Anh sang. HMS Sirius đi về giữa Úc và Cape Town để vận chuyển lương thực, nhưng cũng không đáp ứng đủ nhu cầu.

Nhiều tàu cung ứng (như HMS Guardian) không bao giờ tới đích! Sau khi chiếc HMS Sirius bị đắm ở đảo Norfolk là khu thuộc địa bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài! Cuộc sống quá khó khăn như vậy, nên Mary Bryant, một nữ phạm nhân cùng chồng, con và một số người khác đã bỏ trốn, họ đánh cắp một chiếc xuồng và đi dọc bờ biển Úc, hơn 5000 km đến Indonesia, tại đây họ bị bắt lại và giải về Anh. Chính nhờ vào hành trình 5000 km phi thường này mà luật sư James Boswell đã dùng nó như “câu chuyện thần tiên” kêu gọi sự cảm thông của công chúng và khiến cho Mary Bryant được giảm án. Về sau câu chuyện được dựng thành bộ phim nổi tiếng: “The Incredible Journey of Mary Bryant”…

hms guardian

háng 8, 1780, con tàu 900 tấn, 44 súng khởi đầu hành trình sang Úc, trên thuyền chở cây, giống, nông cụ, và gia súc cho những khu định cư mới thành lập ở Úc. Hành trình đi về phía Đông, sau khi vòng qua mũi Hảo Vọng sẽ đi xuống phía Nam, vùng mà người ta hay gọi là The-roaring-Forties – vĩ độ 40 gào thét, từ đó đón gió Tây ôn đới để sang Úc. Những cây trồng và gia súc tiêu thụ rất nhiều nước ngọt, thế nên khi trông thấy một núi băng trôi, thuyền trưởng Edward Riou quyết định tới lại gần, hạ mấy chiếc thuyền con đi lấy băng về bổ sung vào kho nước ngọt. Trong đêm tối và sương mù, thuyền trôi dạt không định hướng được và đâm vào núi băng trôi, nước tràn vào thuyền. Liên tục suốt 3 ngày liền, thuỷ thủ đoàn bơm nước và tìm cách bịt lỗ thủng, nhưng nước cứ dâng dần lên. Để cứu thuyền, lần lượt phải vứt bớt súng, gia súc, hàng hoá…

Thuỷ thủ đoàn 2 lần kiến nghị rời tàu, mà Riou biết là các xuồng con không đủ chỗ, cuối cùng quyết định 250 người sẽ rời tàu trên những chiếc xuồng, thuyền trưởng với hơn 60 người ở lại tìm cách cứu tàu! Cuối cùng họ tìm ra một cách, dùng nhiều thùng rỗng chèn bên trong khoang tàu, đóng nắp boong lại, con tàu nổi lập lờ trên mặt nước như một cái bè, nhưng không chìm, do có các thùng giữ độ nổi bên trong! Cứ như thế, giương buồm hướng về Cape Town, mũi Hảo Vọng, hành trình 1900km trong 9 tuần! Trong số 250 người rời tàu, chỉ có 15 người sống sót! 62 người ở lại tàu đều sống, trong đó có 21 phạm nhân lãnh án đi đày ở Úc, 14 trong số họ, theo kiến nghị của thuyền trưởng, được ân xá do những đóng góp trong nỗ lực cứu tàu! Đến tận bây giờ, hành trình của thuyền trưởng Edward Riou vẫn là một kỳ tích phi thường, chưa có vụ việc tương tự!

hms ramillies

ự kiện tháng 8, 1780, một đoàn 63 thương thuyền Anh của các công ty Tây Ấn, Đông Ấn, chở theo lượng lớn hàng hoá phục vụ cho cuộc chiến ở Bắc Mỹ, 80,000 khẩu súng trường, 300 đại bác, và rất nhiều hàng hoá khác, tổng trị giá lên đến 1.5 triệu bảng (khoảng 150tr theo thời giá ngày nay). Trong bóng đêm, rất nhiều thuyền tưởng ngọn đèn (giả) treo ở cột buồm soái hạm hạm đội TBN của Luis de Córdova là thuyền chỉ huy và cứ đi theo đó, chỉ có khoảng 10 chiếc đi theo HMS Ramillies, kỳ hạm của đội tàu Anh và thoát thân. Sáng hôm sau, toàn bộ 50 tàu còn lại bị bắt, áp đảo bởi lực lượng lên đến hơn 30 chiến hạm TBN, chỉ có 2 thương thuyền có đáy bọc đồng chạy thoát!

Đây là một thất bại nghiêm trọng của tình báo Anh, vì không biết được sự hiện diện của một hạm đội TBN lớn nên chỉ đem rất ít tàu hải quân hộ tống. Sự kiện gây ra một khủng hoảng lớn trong giới tài chính châu Âu, hàng loạt ngân hàng và công ty bảo hiểm phá sản. HMS Ramillies về sau đắm trong một cơn bão, suốt 3 ngày, thuỷ thủ đoàn bơm nước liên tục, chặt hết cột buồm, vất hết súng và hàng hoá, dùng dây và buồm buộc thân thuyền lại cho khỏi vỡ, nhưng vô vọng, cuối cùng phải bỏ tàu – abandon ship! Bức hình: phải đi ra biển nhiều, mới cảm nhận được thứ ánh sáng huyền ảo như trong tranh, cột sáng từ trên trời chiếu xuống cứ như là đứng trong lime-light – ánh đèn sân khấu! 😀

hms triton

riton là thiết kế thử nghiệm có nhiều khác biệt so với các con thuyền cùng thời. Tàu đóng bằng gỗ thông (fir) vì không kiếm được đủ gỗ sồi, phần mũi được làm thẳng thay vì cong vì không tìm được một khúc gỗ cong lớn như thế (lưu ý kỹ thuật đóng tàu thời đó rất khác bây giờ, dùng khúc gỗ cong tự nhiên, không nối giúp mũi thuyền bền hơn), mạn thuyền thẳng đứng chứ không cong vào trong. Dù có nhiều nhược điểm, nhưng Triton có thời gian phục vụ sôi nổi, tham gia nhiều hoạt động khác nhau!

Tuy vậy, chất lượng gỗ làm tuổi thọ con tàu giảm đáng kể, phải liên tục giảm khối lượng súng và số súng. Đến 1807, Triton trở thành con tàu gác cảng (guard ship: tàu bảo vệ cảng, chỉ đi loanh quanh gần nhà, không đi xa), và sau đó trở thành nhà kho nổi: kho chứa hàng, nhà ở cho lính, nhà tù chứa phạm nhân nổi trên sông, đây là cách dùng phổ biến với những tàu cũ. Đến 1820 thì bán làm phế liệu, thời gian phục vụ 25 năm, so với một chiếc tàu chất lượng tốt có thể phục vụ 50, 60 năm tuỳ theo mức độ hư hao!

hms sandwich

ây giờ nhìn lại, người ta dễ dàng nhận ra, Gibraltar mang dáng dấp của một cái bẫy! Suốt 4 năm ròng, liên minh Pháp – TBN duy trì một lực lượng gấp 10 lần, 60 ngàn lính so với 6 ngàn bên phòng thủ Gibraltar. Đó là chưa kể TBN thường trực phải duy trì một hạm đội cỡ 40 tàu ở Gibraltar để ngăn người Anh không tiếp tế được cho căn cứ. Ấy thế mà Anh vẫn tiếp tế cho bán đảo này dễ dàng, mỗi lần là cả một đoàn lên đến 100 tàu buôn + 30 chiến hạm! Và Anh chỉ tiếp tế mỗi năm đúng một lần…

Chính là để gieo cái hy vọng hão cho người TBN & Pháp rằng có thể vây hãm Gibraltar cho đến lúc nó chết đói! Tại sao vây nghiêm nhặt mà Anh vẫn cứ tiếp tế dễ dàng như thế, nguyên nhân là ở cái đáy bọc đồng của tàu Anh làm cho tốc độ nó lớn hơn hẳn tàu TBN. Chỉ cần một lực lượng đủ lớn, đấu súng với người TBN một thời gian đủ dài, đủ để cho đoàn tàu chở hàng lọt vào bên trong cảng, một khi đã nằm trong tầm súng bảo vệ của cảng, thì đoàn tàu hộ tống Anh thoát ra, dùng tốc độ để bứt khỏi kẻ truy đuổi.

hsm charon

haron là con tàu 800 tấn, 44 súng, chiến hạm hạng 5, tham gia trấn áp cuộc chiến dành độc lập của Mỹ. Charon nằm trong số những con tàu bị vây hãm trên sông York gần Yorktown bởi một hạm đội rất lớn của người Pháp (đồng minh của người Mỹ). Người Pháp dùng những quả đạn nung đỏ – heated-shot và Charon bốc cháy, cháy sạch phần phía trên mặt nước. Heated-shot là quả đạn được nung trong lò than cho đến khi nóng đỏ!

Đốt lò than nung đạn là một việc vô cùng nguy hiểm, vì quanh đó là vô số thuốc súng! Cần một quy trình đặc biệt để nạp đạn, và thường chỉ nạp ngay trước khi bắn! Heated-shot không nhằm phá tàu, nó thường được bắn với liều thuốc súng giảm để không xuyên qua mà mắc lại trong lớp gỗ để gây cháy tàu đối phương! Về sau Hải quân Hoàng gia cấm sử dụng heated-shot, vì nó quá nguy hiểm, đầu tiên là cho chính bản thân người bắn!

hms marengo

háng giêng, 1804, một đoàn thương thuyền Anh rời cảng Quảng Đông về Anh, 16 chiếc tàu của công ty Đông Ấn và khoảng 12 chiếc từ nhiều nguồn khác! Trong đoàn chỉ có một tàu chiến nhỏ của Hải quân, còn lại đều sơn vạch màu vàng giả tàu chiến, bên trong các ô cửa xếp thêm vài khẩu súng gỗ nhìn từ xa như súng thật! Tàu buôn thời đó cũng có súng, nhưng ít, và chất lượng kém, chỉ có thể ứng phó với các tàu cướp biển nhỏ, chứ đối đầu lực lượng hải quân chuyên nghiệp là không thể! Đoàn tàu chở một lượng hàng hoá trị giá rất lớn ~ 8 triệu bảng (khoảng 800 triệu theo thời giá hiện tại), nhưng gần như không có lực lượng bảo vệ, Hải quân Anh còn bận tham chiến ở nhiều nơi khác. Vào địa phận biển Đông, chưa tới Singapore là đoàn tàu chiến Pháp do phó đô đốc Alexandre Durand Linois đã chờ sẵn. Linois bám theo quan sát, đếm số súng ước tính thấy cũng ngang nhau, nên không vội hành động!

Gần eo Malacca, 4 “chiến thuyền” Anh quay lui và đấu súng với 4 chiến thuyền Pháp, 40 phút bắn qua về, cả 2 bên đều không thiệt hại lớn, Linois cảm thấy không dễ ăn nên quyết định rút! Đã giả thì phải giả tới cùng, chỉ huy Nathaniel Dance treo cờ hiệu ra lệnh truy đuổi, cũng giả bộ đuổi theo suốt 2 tiếng. Qua khỏi eo Malacca, các chiến thuyền Anh tới kịp hộ tống đội thương thuyền tiếp tục hành trình. Phó đô đốc Linois đúng là người không may, lần này ông ta nhầm đoàn tàu buôn với tàu chiến, lần sau tháng 3, 1806, Linois tấn công một đoàn tàu chiến Anh mà ông ta cho là tàu buôn, kết quả thất bại và bị bắt! Thật ra, người Pháp không tệ hơn người Anh trong vấn đề hàng hải, nhưng phần lớn thời gian họ gặp rắc rối với chuyện nội bộ (cách mạng Pháp, Napoleon…) Và do thiếu các căn cứ trãi rộng trên toàn cầu nên tàu Pháp ngại đánh nhau, vì nếu tàu bè có thiệt hại gì thì cảng nhà gần nhất cách xa nhiều ngàn hải lý!

hms indefatigable

ự kiện tháng 8, 1804 là một sự kiện nổi bật, Hải quân Hoàng gia cướp được một số vàng bạc, của cải lớn chưa từng thấy! Người Anh bằng các con đường do thám biết rằng Tây Ban Nha và Pháp bí mật thoả thuận sẽ cùng tuyên chiến với Anh. Họ cũng biết rằng lời tuyên chiến sẽ được đưa ra sau khi đoàn thuyền chở kho báu từ Nam Mỹ trở về. Không khó để đoán ra, tàu sẽ phải cập bến Cadiz, người Anh sắp một đội thuyền chờ sẵn. Trong diễn biến trận chiến sau đó, một tàu TBN nổ tung và chìm xuống biển (đã trục vớt năm 2007 và thu được 14 tấn vàng, bạc).

3 chiếc tàu còn lại bị bắt đưa về Anh, tổng tài sản trên 3 con tàu này ước tính khoảng 900,000 bảng, tương đương với khoảng 90 triệu bảng ngày nay, 2021. Sau đó xảy ra cuộc chiến pháp lý kỳ lạ, Bộ Hải quân lý luận rằng, trong tình trạng chiến tranh, tài sản thu được đương nhiên thuộc về Hoàng gia, nhưng tại thời điểm đó, Tây Ban Nha chưa tuyên chiến, nên tài sản sẽ thuộc về… Bộ Hải quân. Mỗi thuyền trưởng tham gia vào trận này chỉ được chia một con số khiêm tốn 15,000 (tương đương 1,5 triệu bảng ở thời điểm hiện tại), ít hơn nhiều so với thông lệ.

hms ethalion

ự kiện tháng 8, 1799 gần cảng Vigo, Tây Ban Nha, lúc này tình trạng là Anh – Tây Ban Nha tuyên chiến với nhau, hải quân Anh phong toả các cảng quan trọng dọc bờ biển Iberia. Các con thuyền chở tài sản, châu báu từ châu Mỹ về TBN tìm cách đi qua, nhưng hầu hết không thoát. Diễn biến xảy ra, 2 chiếc tàu TBN: Thetis và Santa Brigida tìm cách thoát sự truy đuổi của 4 chiến hạm Anh, nhưng không thành công.

Cả 2 tàu bị áp giải về Anh, tổng số tài sản trên 2 con tàu này vượt quá 600.000 bảng (khoảng 60 triệu bảng theo thời giá, 2021). Toàn bộ được đưa vào Ngân hàng Anh quốc, theo luật chia, mỗi thuyền trưởng được nhận hơn 40.000 (khoảng 4 triệu bảng), mỗi thuỷ thủ được nhận một khoản tiền tương đương 15 năm lương. Sau việc này, hàng loạt sĩ quan, thuỷ thủ rời hải quân lên bờ sống (về hưu sớm). 😅

hms augusta

ugusta là con tàu 64 súng, chiến hạm hạng 3, tham gia trấn áp cuộc chiến dành độc lập Mỹ và trong một chiến dịch, nó mắc cạn trên sông Delaware, phía Anh nỗ lực giải cứu nhưng không thành công, phía Mỹ tấn công, họ thả 4 chiếc bè lửa. Augusta bắt lửa và cháy, mọi cố gắng dập lửa đều vô vọng và lửa lan đến kho thuốc súng! Thuyền nổ tung, đây là tổn thất thuyền lớn nhất của Anh trong suốt cuộc chiến. Kho thuốc súng, vị trí nguy hiểm nhất trên mọi con tàu chiến, thường nằm sâu dưới đáy, giữa con tàu.

Đây là một căn phòng biệt lập được bọc kín bằng đồng. Một ngọn đèn được đốt ở gian kế bên, soi sáng qua một lớp kính. Lớp đồng chống ẩm cho kho thuốc súng, đồng thời hạn chế việc tích tĩnh điện. Người làm việc trong căn phòng này mang một loại dép đặc biệt, vì chỉ cần một vết trượt của đế giày trên nền là có thể phát sinh tia lửa điện kích nổ! Những thằng bé giúp việc, thường chỉ 10, 12 tuổi, gọi là các con khỉ – monkey, sẽ chuyển thuốc súng đến các khẩu đội pháo, mỗi lần chỉ một ít đề giảm thiểu nguy cơ cháy nổ.