timur và đồng đội

Timur và đồng đội, tác phẩm ưa thích lúc còn là một cậu bé… tiểu thuyết khởi thảo năm 1939 và phát hành năm 1940, thật trùng hợp là ngay trước thềm chiến tranh thế giới lần 2. Một “hội kín” của những cậu bé 13, 14 tuổi, chuyên làm những việc tốt trong vùng, giúp đỡ người già, người khốn khó, đấu tranh chống lại các phần tử lưu manh. Dần dà hình thành nên một “tổ chức”, tổng hành dinh (Stavka – nghĩa đen là “cái lều”, “hành” (di động) dinh”, sở chỉ huy trong các chiến dịch quân sự) đặt trên một cái gác xép, có hệ thống quan sát và đường dây điện thoại tự thiết kế riêng để huy động, điều phối lực lượng lúc cần!

Truyện phát hành dưới dạng kịch nói qua sóng radio, tinh thần của nó đã góp phần huy động hàng triệu thiếu niên nhỏ tuổi tham gia các công việc có ích trong vùng, để người lớn nhập ngũ chống Phát – xít. Có thể một số người cho rằng văn học Xô – viết có phần giáo điều, những tôi lại thấy khác. Qua cuốn sách này để hiểu thêm về văn hoá và tâm hồn Nga, hiểu tại sao một đất nước chỉ có 85 đàn ông trên 100 phụ nữ, vì đàn ông họ làm quá nhiều việc khó khăn, điên rồ và liều lĩnh! Không như ở cái xứ Vịt kia, dư dôi ra đến gần 115 đàn ông trên 100 phụ nữ, suốt ngày chỉ có ăn nhậu, bolero và làm mấy cái trò lưu manh lặt vặt!

vông đồng

Biền, nam, khởi, tử, chẳng vun trồng,
Cao lớn làm chi những thứ vông.
Tuổi tác càng cao càng xốp xáp,
Ruột gan không có, có gai chông…

Càng có tuổi, đôi lúc thường bâng quơ nhớ chuyện ngày xưa, lại thường hay suy nghĩ vẩn vơ những chuyện: thập niên chi kế, mạc như thụ mộc – 十年之计莫如树木。 Những cây vông đồng, hầu như trường phổ thông nào ở Đà Nẵng, nhất là các trường cấp 2, cũng đều có trồng một vài cây, sở dĩ chọn thứ cây vừa gai góc, vừa có độc như thế là để… không cho học sinh leo trèo nguy hiểm!

mách qué

Hồi đó cứ lang thang quanh quẩn ở mấy tiệm sách cũ quanh khu chợ Bà Chiểu và góc đường Trần Huy Liệu… bắt gặp cuốn thơ Cao Bá Quát bản in chữ viết tay siêu đẹp, chủ quán nhìn mặt kêu giá 500K, mà học sinh làm éo gì có tiền, đành tiếc mãi thôi! Đương nhiên quá trình lớn lên và học hỏi cũng có đọc ít nhiều Thơ mới, thơ VN, nhưng mà sâu từ trong nhận thức, chỉ có “chữ Hán”, chỉ có Đường thi mới là thơ. Còn “Nôm na là cha mách qué”, tiếng Việt vẫn là một ngôn ngữ “mách qué – không đứng đắn”! Một lũ từ ngữ trơn tuột, cưỡng từ đoạt lý, giảo hoạt, nói cho lấy có lấy được, cứ ưa hơn người bằng cách lấp liếm, hoa ngôn xảo ngữ, chứ không thực sự nhắm đến nội dung bên trong!

Học “cổ văn”, cái đầu tiên là phải kiên nhẫn suy nghĩ xem ý tứ nó ra làm sao, không phải nghe có nửa câu đã nhảy vào miệng người ta ngồi: “ah ta biết rồi, nó là như thế này, thế kia!” Bởi đa số người Việt vẫn chỉ biết: “Cầm đao chém nước chảy cuồng, Tiêu sầu nâng chén càng buồn thêm thôi!”, nhưng có ai chịu khó đọc tiếp mấy câu sau: “Trần gian chưa thoã ý người, Sớm mai xoã tóc rong chơi với thuyền”!? Tiếp sau luôn luôn có những cái “ý tại ngôn ngoại”, viện dẫn sự tích, điển cố, làm cho ngữ nghĩa nó thâm trầm, bao quát! Nói thẳng muôn đời vẫn là một kiểu dân tộc tính khó sửa, học một ông “thầy Tàu” nào đó nhưng vì bản chất nó “đoản” nên lúc nào cũng chỉ học được… một nửa câu!

nhớ đồng

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi, Đâu ruồng tre mát thở yên vui. Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn, Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi? Đâu những đường cong bước vạn đời, Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi. Giữa dòng ngày tháng âm u đó, Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi… Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh, Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

tuổi thơ dữ dội

Có chút thời gian để đọc lại cuốn này: Tuổi thơ dữ dội – Phùng Quán, lần trước đọc đã cách hơn 10 năm ở một quán cafe Sách khá đẹp! Tiếc là không được đọc cuốn này từ nhỏ. Đọc, nhưng sao cứ cảm thấy những chuyện trong đó cứ như là đã nghe ai đó đã kể rồi, đọc xong thì mới hiểu ra rằng, họ chính là lặp lại những gì đã đọc trong sách này!

Và chuyện được mô tả trong sách chính là dựa trên những sự kiện lịch sử có thật đã xảy ra và vẫn được lưu truyền theo kiểu “văn hoá dân gian” đến tận ngày nay, những hoạt động của các cậu bé “Vệ út” 13, 14 tuổi trong thành phần Trung đoàn Trần Cao Vân (sau là trung đoàn 101, sư 325), mặt trận Trị Thiên những ngày đầu chống Pháp!

the law of club and fang

Cho đến hiện tại ngay cả phương Tây cũng phải thừa nhận những gì Nga làm đúng luật và thông lệ Quốc tế hơn hẳn, dù chúng ta thừa biết cuối cùng cũng chỉ có luật của kẻ mạnh, nói theo ngôn ngữ thấm nhuần trong văn học Mỹ sơ kỳ, đó chính là “the law of club and fang” – luật của dùi cui và răng nanh (Chương 2 – Tiếng gọi nơi hoang dã – Jack London). Những chiến binh nước ngoài chiến đấu cho phía Nga đều phải nhập quốc tịch Nga!

Như vậy về mặt kỹ thuật, Nga không có “lính đánh thuê” tại Donbass, những học trò của thầy Anatoly Sobchak tại trường luật St. Petersburg như Putin, Medvedev hiểu rất rõ những bước loằng ngoằng lách luật! Nhưng dĩ nhiên luật cũng có giá trị của nó, không phải “chiến binh quốc tế” nào cũng có “lý tưởng”, một số đơn thuần chỉ là những kẻ giết người bệnh hoạn, nếu không có “tư cách công dân” thì làm sao truy cứu về sau!?

chiến tranh và hoà bình

Tiếp tục chương trình điện ảnh Xô-viết, 3 tập, tổng cộng 6h của bộ phim kinh điển: Chiến tranh và Hoà bình – Mosfilm! Đến tận giờ, vẫn có chút nuối tiếc vì ngày trẻ không đọc nhiều văn học Nga lắm. Lại ghét những gì suy nghĩ cao siêu, chỉ thích cái gì thực tế, cụ thể (kiểu như Pie đệ nhất)! Không như con em gái tôi, nó thì: Chiến tranh và Hoà bình, Tội ác và trừng phạt, Sông Đông êm đềm, Anna Karenina, Anh em nhà Karamazov, Eugene Onegin… cái gì cũng đọc!

Hàng chục ngàn trang, từ nhỏ nó đã nổi tiếng là con mọt sách trong nhà! Còn thằng anh nó vẫn luôn nhìn sách vở bằng thái độ nước đôi, hai mặt, vì đã thấy vô số thử bị “quỷ ám” do “đọc sách” mà ra! Thế nên không thấm Lev (Tolstoy) nổi, mà chỉ thích Alexei (Tolstoy). Nói về tính cách, tâm hồn Nga, chỉ cần đọc 4 tựa sách bên trên là đủ biết họ quan tâm những điều gì rồi: Chiến tranh và Hoà bình, Tội ác và trừng phạt, Sông Đông êm đềm, Anna Karenina!

petro primo

Là bức tượng do nữ hoàng Catherine-2 ra lệnh tạo tác, mất 14 năm mới hoàn thành, tạo hình Peter-1 cỡi trên lưng ngựa! Peter, người đã ra lệnh xây dựng thành phố St. Petersburg, thủ đô mới của nước Nga, và cũng là hải cảng quan trọng đầu tiên thông thương với thế giới! Dưới bệ đá có dòng chữ Latin: “Petro primo Catharina secunda”, ý nói được tạo tác bởi Catherine-2 nhằm tưởng nhớ Peter-1 nhưng cũng ngầm khẳng định vị thế kế thừa đại nghiệp: “Peter thứ nhất, Catherine thứ hai” của bà nữ hoàng! “Kỵ sĩ đồng”, Pushkin, được xem là bài thơ vĩ đại nhất của văn học Nga, chính là nói về bức tượng này! Bài thơ tưởng tượng ra nhân vật Evgenii và người yêu của anh ta là Parasha! Thành phố St. Petersburg nằm ở vùng đầm lầy cửa sông…

Vị trị thấp nên thường bị ngập lụt. Parasha chết trong một trận lụt như thế, còn Evgenii trong cơn đau khổ và tuyệt vọng, đã nguyền rủa bức tượng đồng, người đã cho xây thành phố tại vị trí bất lợi! Đột nhiên, bức tượng đồng sống dậy và truy đuổi Evgenii khắp nơi! Kết bài thơ không nói rõ, chỉ ám chỉ sau đó, Evgenii được tìm thấy đã chết! Chỉ là câu chuyện “đơn giản” như vậy, nhưng đằng sau nó là nỗi ám ảnh lớn lao đã giày vò nước Nga và tầng lớp tư tưởng của nó suốt mấy trăm năm qua, ngay từ thời các Sa-hoàng! Chính là mâu thuẫn muôn đời giữa “tôi và chúng ta”, giữa “cá thể và cộng đồng”, giữa “hạnh phúc cá nhân và lợi ích xã hội”. Có thể nói, lịch sử nước Nga suốt vài thế kỷ qua chỉ xoay quanh vấn đề này, và những cách thức giải quyết nó!

cánh buồm đỏ thắm

Cái này thì nhiều người đã biết rồi, chỉ là nhắc lại một chút thôi! Đầu tiên là truyện dành cho tuổi thiếu nhi, tuổi teen của Alexander Grin, 1923, nói về Assol, cô gái mơ mộng đến một ngày sẽ có chàng “bạch mã hoàng tử” (ah không, không phải là mã – ngựa mà là thuyền, không phải trắng mà là đỏ), đến rước đi bằng chiếc thuyền với những cánh buồm đỏ thắm! Tiếp theo đó thì truyện được chuyển thể thành bộ phim nổi tiếng dành cho tuổi mới lớn, 1961!

Và sau đó thì trở thành lễ hội của các học sinh trung học St. Petersburg vào mỗi cuối các năm học, bắt đầu vào kỳ nghỉ hè! Là những màn múa hát, âm nhạc, hoạt cảnh và đặc biệt là trình diễn pháo hoa lớn, như năm 2021 vừa qua là siêu lớn, và dĩ nhiên không thể thiếu những cánh buồm thắm đỏ! Mà khi nhỏ, tôi là kiểu “ông cụ non”, cho đó là thứ “văn chương ngôn tình” nên không cần phải đọc kỹ, đương nhiên có tuổi rồi thì mình sẽ nhìn nó khác!

“Scarlet sail”… cũng gần giống như “Millions scarlet roses” vậy, mới nghe có vẻ rất hay, nhưng nghĩ lại thấy có điều gì đó không ổn, khi có người bán hết mọi thứ chỉ để mua một triệu bông hồng tặng cho người đẹp! Nhưng cũng không sao cả, cứ phải mơ mộng, lễ hội tuổi teen phải nên như thế! Có rất nhiều mẫu cá tính Nga được xây dựng theo kiểu “larger-than-life – xa hơn cả cuộc đời” như thế, mãi mãi mơ mộng làm những chuyện điên cuồng, rộng lớn!

shtandart

Đoàn xe đến Koenigsberg vào buổi chiều tà, bánh xe lăn ầm ầm trên mặt đường lát đá sạch bong. Không có rào giậu gì cả, thật là kỳ lạ! Nhà cửa trông thẳng ra phố; từ đường, có thể với tay tới những khung cửa sổ dài, có ô kính nhỏ. Khắp nơi sáng ngời một thứ ánh sáng niềm nở. Cửa ngõ đều bỏ ngỏ. Người đi lại không chút sợ hãi. Người ta những muốn hỏi họ: làm sao mà các ngươi lại không sợ mất trộm nhỉ? Có thể nào ở thành phố các ngươi lại không có trộm cướp ư? Trong ngôi nhà thương nhân họ đến ở, cả ở đấy nữa người ta cũng không cất giấu thứ gì, đồ vật quý giá để ngay trước mặt. Phải là một thằng ngốc mới không lấy gì. Vua Piotr ngắm nhìn những bức tranh, bát đĩa và sừng bò rừng, nói thầm với Alexaska:

Hãy cảnh cáo tất cả mọi người thật nghiêm khắc rằng hễ đứa nào táy máy dù chỉ là một trang sức nhỏ ta sẽ sai treo cổ nó ngay ở cổng.Bệ hạ nói đúng. Myn Herz, chính thần cũng lo. Trong khi chờ cho họ quen dần, thần sẽ cho khâu kín tất cả các túi áo quần của họ lại! Vì, cầu Chúa che chở, khi họ mà đã rượu vào thì biết thế nào được… Trích đoạn tiểu thuyết Pie đại đế – tác giả Aleksey Tolstoy! Ảnh bên dưới: Shtandart, con tàu đầu tiên của hạm đội Baltic, do Sa-hoàng Peter trực tiếp giám sát thi công và đồng thời cũng là thuyền trưởng đầu tiên (ảnh thực ra là con tàu replica, 1999, đóng mới theo mẫu cũ). Con tàu chọn trang phục màu đỏ để tới dự dạ hội “Scarlet sail” trên sông Neva, St. Petersburg.

14/02/2022

Tìm nàng thuở Dương Đài lối cũ,
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.

Nhân chuyện cũ, ngồi nhớ lại những tựa sách thiếu niên phiêu lưu mạo hiểm ngày xưa đã đọc, nhiều không kể xiết, dễ có đến cả trăm tựa sách khác nhau, tất cả đương nhiên là văn học Âu – Mỹ, là từ cái văn hoá biển cả rộng rãi, hàng hải khai phóng mà ra, có rất nhiều truyện đến giờ thậm chí đã không còn nhớ tên, tác giả…

treasure island

Cuốn tiểu thuyết mê ly thời còn nhỏ, tôi đọc bản NXB Văn học, 1987, nhưng thực ra đây là tái bản của bản 1944 – Vũ Ngọc Phan – Tự lực văn đoàn, nên tiếp cận văn hoá phương Tây ở VN là khá sớm, có lẽ từ thời Đông kinh Nghĩa thục. Khi nhỏ đã đọc cả trăm truyện thế này, nhưng hay nhất là “Bí mật đảo Lincoln” của Jules Verne! Cuốn sách này chứa đầy ắp các kiến thức về thiên văn, địa lý, vật lý, khoa học tự nhiên: từ cách xác định góc phương vị (azimuth) của mặt trời để đo kinh vĩ.

Chả cần phải học hoá cấp 2 cũng biết được thuỷ phân dầu tạo ra xà phòng và glycerine, chả cần học hoá cấp 3 cũng hiểu quy trình Bessemer để luyện gang thành thép… Spoiler: không khó để nhận ra trong bản dịch này nhiều lỗi chuyên môn về địa lý, hằng hải và nhiều kiến thức tổng quát! Vì thực ra các cụ thời đó cũng không có biết nhiều lắm đâu! Nhưng nói cho đúng, nó vẫn tốt hơn các bản dịch hiện tại, sách vở bây giờ hành văn căn bản còn chưa nên thân, câu cú lộn xộn cứ như “cơm sống”!

ngọn đèn dầu lạc

Nhớ lại quãng thời gian 5 ~7 tuổi, thành phố áp dụng quy định “2 đỏ 1 cúp”, rồi “3 đỏ 1 cúp”, tức là cứ 2 ngày có điện thì 1 ngày cúp điện, cái thời đó nó như thế, điện sản xuất ra không đủ, nên cứ loanh quanh vài ngày lại cúp điện một ngày! Nhưng mà ít ra, về danh nghĩa, là tôi đã lớn lên trong một thành phố “có điện”. Lên ĐH, vô SG, vẫn thỉnh thoảng bị hỏi: Đà Nẵng có điện chưa!? Khi nhỏ, lâu lâu lại về quê sống với ông bà 4, 5 ngày, nơi đó toàn xài đèn dầu thôi, chưa có điện đâu, những chiếc đèn thuỷ tinh thắp bằng dầu hoả! Trong góc nhà vẫn còn lưu lại ký ức của một thời còn xa xôi hơi nữa, những chiếc đèn dầu lạc (đốt bằng dầu ép từ đậu phụng), không biết ở đây có ai còn thực sự biết cái đèn dầu lạc nó trông thế nào? Cứ như thế, ông bà tôi sống cả đời mà chưa từng biết ánh điện là gì!

Kể câu chuyện lạc hậu như thế, nhưng ở đây muốn nhấn mạnh một mặt khác, điều tôi nhận ra được những ngày giãn cách xã hội! Vì không có điện nên tầm 6h chiều là đã ăn tối xong rồi, loanh quanh 7, 8h là đã đi ngủ! 3h sáng mấy người già đã dậy pha trà, mấy người trẻ còn ngủ nướng thêm chút, đến tầm 4h30 là tất cả đã ra đồng. Công việc làm nông quanh năm vất vả, đến tối về, ăn cơm xong, lại leo lên phản, 2 chân xoa xoa đập đập mấy cái cho sạch đất cát, thế là lại lăn ra ngủ rất ngon, không phải quan tâm Facebook hôm nay có tin gì nóng sốt, thoả mãn hay không! Chính vì không quan tâm chuyện thiên hạ, nên không “vong bản”, không đánh mất chính mình! Ngồi suy nghĩ mông lung, phải chăng đến một lúc nào đó, con người trở lại sống xanh, sống sạch, thì lại giống y như thời ông bà lúc đó!?

tử viết, tử viết…

Lại nói truyện chưởng Kim Dung, Thiên Long bát bộ, hồi 58, 59. Nguyên lai, Tô Tinh Hà của Tiêu Dao phái có 8 đệ tử gọi là Hàm Cốc bát hữu, 8 vị này tuy võ công không cao, nhưng mỗi người có những “tuyệt nghệ” riêng, người chơi đàn, kẻ đánh cờ, người đọc sách… Trong Hàm Cốc bát hữu đó, hàng thứ 3 gọi là Cẩu Độc, cái tên này có nghĩa là: bạ cái gì cũng đọc, đọc vô số sách vở, cứ mở miệng ra là: “Tử viết, Tử viết” (Khổng tử nói thế này, thế kia…), luôn mồm trích dẫn điển tích, tầm chương trích cú. Hai hồi này trong Thiên Long bát bộ có rất nhiều “Tử viết, Tử viết”, thật là một màn trào phúng, châm biếm rất thú vị!

Chuyện “Tử viết, tử viết” (子曰,子曰。。。 Khổng tử nói thế này, Khổng tử nói thế kia…) trước đã có nói đến nhiều, nay đến chuyện “Khổng tử không nói”… 子不語怪力亂神 – Tử bất ngữ: quái lực loạn thần – Khổng tử không bàn chuyện quái dị, bạo lực, phản loạn và thần quỷ. Nhiều lần, đã từng có nhiều người hỏi Khổng Ni về thần tiên, ma quỷ, về “thế giới bên kia”, tất cả đều được đáp rằng: chuyện người sống còn chưa biết rõ, bàn làm gì chuyện người chết! Tư tưởng của Khổng tử tập trung hoàn toàn vào vai trò, tư cách, đạo đức của con người trong cộng đồng và xã hội, ông ấy từ chối trả lời các vấn đề siêu hình, siêu nhiên…

polaris

Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ,
Độ Khuê triền buổi có buổi không.
Thức mây đòi lúc nhạt nồng,
Chuôi sao Bắc Đẩu thôi đông lại đoài.

Thực ra về thiên văn rất là dễ hiểu, hình dung Bắc đẩu như con dao, thì Polaris nằm ngoài cùng đằng cán, và nằm gần sát với phương chính Bắc, ngay trên trục quả đất, nên khi trái đất xoay luân chuyển giữa ngày và đêm thì “con dao” Bắc đẩu đó cũng xoay tròn tương đối (chuyển động biểu kiến) quanh cán, nếu cán nằm thẳng đứng thì chính là ban đêm!

đường xa

Đường xa bao nỗi truân chuyên,
Ngọn đèn đêm gió, con thuyền biển khơi.
Đèn vẫn tỏ, thuyền bơi tới trước…

Face nhắc ngày này năm trước. Chuẩn bị sắp xếp công việc, dự kiến hành trình, cho thuyền bơi tới trước…

bắc đẩu

徐安貞 – 聞鄰家理箏

北斗橫天夜欲闌
愁人倚月思無端

Hai bức “sơ đồ” chòm sao Bắc Đẩu, cái đầu vào nửa đêm, chòm sao thẳng đứng, cái sau ban ngày, chòm sao nằm ngang. Thơ của Từ An Trinh thời Đường: – Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan, Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan – Đêm tàn, Bắc đẩu quay sang, Người ngồi dựa nguyệt, ngổn ngang mối tình… Sao Bắc đẩu xoay ngang tức là trời sắp sáng…

nguyễn huy thiệp

Thú thật, tác gia VN đương đại, tôi chỉ thích đọc có 2 người, đầu tiên là Bảo Ninh, kế đến là Nguyễn Huy Thiệp. Mà cũng ko dám nói là “đương đại”, vì Nguyễn Huy Thiệp tôi đã đọc từ hơn 20 năm trước! Đọc Nguyễn Huy Thiệp, người ta có cảm giác trở về với nguồn cội của mình…

Chảy đi sông ơi, Băn khoăn làm gì. Em thì nông nổi, Anh thì mê mãi, Anh đi tìm gì, Lòng đời đen bạc, Mỹ nhân già đi. Lời ai than thở, Thoảng trong gió chiều, Anh hùng cười gượng, Nét buồn cô liêu…

“Cha tôi là nông dân, còn tôi sinh ra ở nông thôn”, cảm giác như được trở về quê nhà, tháo giày và đi chân trần trên cát, để cảm nhận sự gắn kết lạ lùng với mảnh đất này, để hình dung một quê hương nửa hiện thực, nửa thần thoại, nửa lãng mạn văn vẻ, nửa thô bỉ trần tục…

tiếng Việt có 8 thanh

Lâu về trước, một đêm khó ngủ, chui vô cái hang thỏ Alice – in – wonderland trên Internet và xem cái này, một người nước ngoài học tiếng Việt với cảm quan nhạy bén đã nhận ra tiếng Việt có 8 thay vì 6 thanh. Điều này có vẻ không được “đúng” cho lắm, vì nhìn từ hệ thống chữ Latin thì tiếng Việt chỉ có 6 thanh. Nhưng phân tích ngữ âm học, “sắc” và “nặng” có thể được chia thành 2 thanh con. Hơi khó để nhận ra với người đã quen chữ Quốc ngữ, nhưng với người “chưa biết gì” do mới học tiếng Việt thì lại nhìn ra được! Nếu đọc các tác giả cũ…

Như Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim sẽ thấy họ dùng cách phân loại xưa có nguồn gốc Trung Quốc là “Tứ thanh – 四声“. Tứ thanh bao gồm: bình – , thượng – , khứ – , nhập – . Mỗi thanh này lại chia thành 2 thanh con là: phù – & trầm – , nên tổ hợp lại sẽ có 4 x 2 = 8 thanh. Điều này… rất đáng ngạc nhiên, đi rất gần với các phân tích ngữ âm học hiện đại! Theo cách giải thích này thì tiếng Việt có 8 hoặc 7 thanh, 7 thanh là do “hỏi” và “ngã” đã nhập lại làm một. “Tứ thanh” là nền tảng quan trọng của thơ ca Đường, Tống.

Từ “Tứ thanh” phát triển thành hàng trăm niêm luật của Đường thi, hàng ngàn luật của Tống từ. Sang đến thời Nguyên, xã hội TQ có nhiều biến động lớn, các bộ tộc phương Bắc tràn xuống, ngôn ngữ mất bớt thanh điệu và còn lại 4 thanh như tiếng Quan thoại ngày nay. Từ đó, người TQ bắt đầu làm thơ… “sai luật”, sai khi đọc theo âm Hán-Việt nhưng vẫn “đúng” khi đọc theo âm Quan thoại! Đó là lý do tại sao người Việt đọc Đường thi, Tống từ thấy rất hay nhưng sang Nguyên khúc thì bắt đầu thấy hơi “lạc vận”, đến Minh, Thanh thì rất dễ nhận ra nhiều khi “âm luật” “sai” rất rõ ràng!

Trở lại vấn đề tiếng Việt có 6 thanh hay là 8 thanh, thực ra 6 hay 8 thanh, với đa số người học tiếng Việt không quá quan trọng. Nhưng cần hiểu sâu về hệ thống “âm luật cổ” để có hướng phát triển cho hệ thống ký âm Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ, một hệ thống chữ viết nhân tạo và có phần “hơi vội vàng, tạm bợ, hơi duy ý chí và áp đặt” đã khiến chúng ta có cái ấn tượng sai lạc là tiếng Việt chỉ có 6 (hoặc 5) thanh! Đúng hơn, về mặt ngữ âm học, cần phải nói rõ là tiếng Việt có 8 (hoặc 7) thanh, nhưng hệ thống chữ ký âm Quốc ngữ hiện tại chỉ sử dụng có 5 ký hiệu để biểu diễn thanh điệu!