duy tân

Sau khi đội tàu của Đề đốc Matthew Perry đến Nhật Bản, trước một màn phô trương sức mạnh quá thuyết phục như vậy: những con tàu hơi nước hiện đại, những khẩu pháo Paixhans khổng lồ, chính quyền Tokugawa bị “thuyết phục” hoàn toàn và phải ký các hiệp ước mở cửa nước Nhật ra giao thương với thế giới sau hơn 200 năm khép kín. Matthew C. Perry là một người khéo léo, ông ta tặng người Nhật những khẩu súng lục Colt biệt danh: the peacemaker – người kiến tạo hòa bình, và cũng tặng kèm những động cơ hơi nước nhỏ mang tính trình diễn. Dù vẫn còn phải đánh nhau thêm vài trận nhỏ nữa (Boshin war) để dẹp hoàn toàn các thế lực cản đường trước khi chuyển sang thời Minh Trị duy tân, nhưng ngay lúc đó, người Nhật bắt tay vào những công việc cụ thể để canh tân đất nước.

Một trung tâm huấn luyện hàng hải được dựng lên bên cạnh Dejima, hòn đảo giao thương với người Hà Lan cũ, Tanaka Hisashige được giao nhiệm vụ phát triển các thiết bị điện tín (telegraph), công ty của ông ta sau về trở thành tập đoàn Toshiba lừng danh, và chỉ 2 năm sau thì họ chế tạo thành công động cơ hơi nước đầu tiên, tuy vẫn có một số khiếm khuyết nhưng chạy được. Về cái “nghi án” VN đã chế tạo thành công tàu thủy động cơ hơi nước dưới thời Nguyễn, tôi nghĩ cần phải nói thẳng đây là trò bịp bợm! Sự thực là nhà Nguyễn đã có mua vài chiếc tàu hơi nước nhỏ, nhưng mới dùng được thời gian thì hỏng, không tự sửa chữa được đành xếp xó! Ở VN cũng có người nhận rõ sự cần thiết phải Duy tân, ví dụ như Nguyễn Trường Tộ, ông ta… chăm chỉ viết điều trần gởi lên triều đình!

Tế cấp luận thâu tóm trí khôn của thiên hạ 500 năm nay… Tế cấp luận của tôi nếu đem ra thực hành hàng trăm năm cũng chưa hết… Nếu đọc kỹ Nguyễn Trường Tộ, ta sẽ thấy tư tưởng rõ ràng là có chút tiến bộ, nhưng lời văn vẫn kiểu mắc vào “cái tôi”, loay hoay không giải thích được Duy tân phải bắt đầu từ đâu! Quả thực như vậy, suốt cuộc đời ông ta chăm chỉ viết điều trần, viết đến gần 100 bản, nói thì dông dài quá nhiều nhưng chưa bao giờ thấy động tay chân làm điều gì! Có vẻ như là đã tận lực, đã cố hết sức rồi, nhưng toàn bộ những gì “làm” được chỉ là một mớ ngôn từ bùng nhùng, mơ hồ như thế! Như vậy phải coi lại sức khỏe thế chất, vật lý có vấn đề gì không, có bị khuyết tật chỗ nào hay không, chứ sao cái “dân tộc tính” đến tận ngày nay, mãi vẫn chỉ có nói mà không có làm như thế!?

thủy quân, p2

Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hoả mai,
Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền.
Tùng tùng trống đánh ngũ liên,
Chân bước xuống thuyền nước mắt như mưa.

Bài toán lớn nhất thời Nguyễn Ánh – Tây Sơn chính là giao thông vận tải. Nước VN có hình dạng dài và hẹp, chủ yếu là các làng mạc dọc theo bờ biển, bị chia cắt mạnh bởi núi non và sông ngòi. Bài toán vận tải thực sự rất nan giải, trong điều kiện ngày xưa không thể xây dựng hệ thống cầu đường xuyên suốt, rộng khắp được. Cứ thử tưởng tượng vận chuyển những khẩu pháo 1, 2 tấn đi hàng ngàn km bằng đường bộ qua đồi núi xem, chuyện không thể làm được! Trong cuộc hành quân Kỷ Dậu – 1789, một giáo sĩ đã kể lại rằng quân Tây Sơn, sau 15 ngày đêm hành quân gần như liên tục, trông như một băng đảng rách rưới, ốm đói, bệnh tật! Nên việc vận tải trong chiến thắng Kỷ Dậu vẫn phải dựa phần lớn vào thuyền!

Trong nhiều thế kỷ, các triều đại VN đều dựa nhiều vào đường thủy, như hệ thống kênh Nhà Lê xây dựng suốt mấy trăm năm. Hay xa hơn, Hưng Đạo vương thắng được quân Nguyên cũng chỉ với cách di chuyển quân bằng thuyền, xích tới xích lui, loanh quanh trong phạm vi không quá lớn của châu thổ sông Hồng, nơi hệ thống sông ngòi rộng khắp khiến cho kỵ binh Nguyên Mông khó vượt qua và không phát huy được sức mạnh! Đến thời Nguyễn Huệ – Nguyễn Ánh, đất nước trãi dài ra như vậy, cả 2 bên đều hiểu rằng phải tổ chức phần lớn quân đội dạng… thủy quân lục chiến! John Barrow trong hồi ký của mình đã dùng chữ “Marine” (chứ không phải “Navy”) là rất đúng khi nói về Thủy quân của chúa Nguyễn..

Những điều này thì một vị vua tài ba như Quang Trung dĩ nhiên hiểu rõ, nhưng tiếc là ông ta… đoản mệnh, qua đời khi mới 40 tuổi, chưa kịp thực hiện các ý tưởng của mình! Mà các tướng lĩnh Tây Sơn không có ai hiểu rõ vai trò của thủy quân, không dự trù được các hình thức tác chiến dựa vào thuyền. Còn một vị vua như Nguyễn Ánh, tuy không tài giỏi bằng, tầm nhìn cũng hạn hẹp hơn, nhưng ông ta đủ thông minh để hiểu rõ cách thức tiến hành chiến tranh, và quan trọng là sống đủ lâu, đủ kiên trì để biến những hiểu biết đó thành chiến thắng! Tình hình phân tranh ở VN trong các thế kỷ 17, 18, 19 giống hệt như các sứ quân – Daimyo đánh nhau ở Nhật Bản, như mô tả trong tiểu thuyết Shogun (James Clavell) vậy.

Nhật cũng là một đất nước toàn đồi núi, việc chuyển quân phần lớn trên bộ, nhưng hậu cần là gần như dựa hoàn toàn vào vận tải biển! Điển hình như sau thủy chiến đầm Thị Nại, Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu rút quân về phía Bắc để hội quân với vua Quang Toản, nhưng phải đi bằng “thượng đạo – đường rừng” chứ không thể đi đường ven biển. Sau khi đã mất thủy quân, mất khả năng cơ động, thì nhà Tây Sơn liên tục rơi vào thế bị động, không có đường thủy thì không thể vận tải quân lính, súng đạn, lương thực thuận tiện được. Và chúa Nguyễn đã nắm thế chủ động khi có thể, chỉ trong vài ngày, đổ bộ quân bất kỳ đâu dọc theo bờ biển để ngăn chặn các tướng Tây Sơn! Sự việc sau đó diễn ra đúng như vậy!

Sau khi đi đường thượng đạo từ Quy Nhơn ra Quảng Nam thì 2 tướng Tây Sơn bị thủy quân nhà Nguyễn đổ bộ, chặn lại ở Hội An. Không còn súng đạn, lương thực, lại buộc phải rút lên theo đường rừng, sang đất Lào ra bắc, đến nơi thì không còn bao nhiêu người! Mất đi quân bài chiến lược, nhà Tây Sơn sụp đổ nhanh chóng trong 2 năm! Từ nhiều ghi chép trong lịch sử, có thể thấy rằng: các thuyền chèo tay – galley là một lực lượng đáng gờm nếu: #1. tập trung đủ số lượng, #2. có các pháo hạm (thuyền mành kiểu TQ hay pháo hạm kiểu Tây phương) hỗ trợ hỏa lực, và #3. tác chiến ven bờ, không đi ra vùng biển xa, và chiến thắng chẳng qua là dùng số lượng lớn, vận động linh hoạt trong không gian không quá rộng!

Lịch sử thời Nguyễn ghi lại nhiều lần thủy quân đã đánh thắng Hải tặc, thậm chí đã có lần hiếm hoi chiến thắng cả hải quân Tây phương, đó là khi có đủ 3 điều kiện này. Ngược lại, các thuyền chèo tay galley này sẽ là “miếng mồi ngon” cho các thuyền mành nếu ra vùng biển mở, có không gian rộng để vận động, vì thuyền mành có pháo lớn, tầm bắn xa hơn! Lịch sử nhà Nguyễn cũng ghi lại nhiều trường hợp, các đội thuyền galley thất bại trước các nhóm hải tặc Quảng Đông, do đi xa bờ và không có súng lớn hỗ trợ. Do đó, không nên ảo tưởng về khả năng tác chiến xa bờ của “Hải quân” Tây Sơn cũng như nhà Nguyễn! Thủy chiến đầm Thị Nại (1801) và cửa Tư Hiền (1802) là những ví dụ rõ ràng về tác chiến đổ bộ ven biển!

Sau khi Nguyễn Huệ qua đời, nhà Tây Sơn đã mắc phải sai lầm chiến lược, đặt phần lớn thủy binh ở đầm Thị Nại, không nắm bắt được sự phát triển vượt trội của thủy quân chúa Nguyễn, không có các hình thức tác chiến chủ động, còn sự hỗ trợ của cướp biển Quảng Đông thì chỉ chừng mực, suy cho cùng họ là lính đánh thuê chứ không phải quân triều đình! Các tay cướp biển Quảng Đông thừa hiểu rằng họ không thể địch lại “hạm đội” thuyền chèo đông đảo của chúa Nguyễn, nhất là khi phải tác chiến trong các vùng đầm phá ven bờ, dù đi xa bờ thì hạm đội của chúa Nguyễn không thể đối chọi lại cái “Liên đoàn cướp biển Quảng Đông” khá là lớn mạnh đó. Có quá nhiều bài báo, tài liệu giật tít rất kêu, “nổ” tận mây xanh!

Nào là người Việt chinh phục đại dương, tự đóng được tàu hơi nước, có nhiều pháo hạm 60 súng, và nhiều sự hoang đường, vĩ cuồng khác! Những tài liệu này đều có câu cú lủng củng, văn viết không thông, ngoại ngữ Anh, Pháp đọc không hiểu, sai vô số chỗ, nhưng vẫn nói như đúng rồi vậy! Tác chiến ven bờ hoàn toàn khác với hải quân “nước xanh” (blue water), loại sau đòi hỏi một trình độ kỹ thuật cao hơn hẳn! Còn cái đầu cơ bản chỉ là một hạm đội đông đảo thuyền chèo tay mà thôi, qua các tài liệu đương thời, có thể nhận định rằng người Việt lúc bấy giờ vẫn còn chưa nắm được hết các kỹ thuật điều khiển buồm, càng không nên nói đến một nền “công nghiệp quốc phòng” đủ khả năng đóng tàu to, súng lớn!

thủy quân, p1

Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai!
Miệng ăn măng trúc, măng mai,
Những giang cùng nứa biết ai bạn cùng?

Đọc những thông tin về Hải quân thời Nguyễn Ánh – Tây Sơn phân tranh, có thông tin về các con tàu đến 50~60 súng, tương đương với chiến hạm hạng 4 (fourth rate ship) ở châu Âu. Tôi cho rằng đây là những thông tin không thực, có thể do chính người Pháp trong cuộc đương thời bịa đặt ra để kích động cuộc chạy đua vũ trang giữa 2 phe, cũng có thể là một kế hoạch “kêu gọi đầu tư” từ Pháp! Vì tàu 50~60 súng là rất lớn, khoảng 1000~1200 tấn, thường có 2 boong (tầng), loại súng lớn đặt ở tầng dưới, loại nhẹ ở trên, đóng những con tàu lớn như vậy rất phức tạp, sợ là với sự giúp đỡ hạn chế của người Pháp đương thời thì chúa Nguyễn không thể làm nổi. Còn cái gọi là “Định Quốc đại hiệu” của Tây Sơn đến 50~60 súng…

Có thể cũng chỉ là những “floating battery”, bè nổi chứa pháo, dùng để phòng ngự ở những vị trí bán cố định, không phải là những con tàu di động thật sự. Qua thông tin từ 2 cuốn hồi ký cùng mang cái tên: “A voyage to Cochinchina”, một của John Barrow, đến VN năm 1800 và một của John White, đến VN năm 1819 thì một bức tranh toàn cảnh hiện ra về Thủy quân lúc đó. Điều đáng nói, 1800 là chỉ 1 năm trước trận thủy chiến đầm Thị Nại, thời điểm có thể ước đoán là thủy quân Nguyễn Ánh đã đạt mức phát triển cao nhất, và 1819, gần 20 năm sau, là chỉ 1 năm trước khi vua Nguyễn Ánh qua đời và các chiến thuyền đã đóng còn chưa mục nát để tác giả John White có thể đến tận nơi quan sát và kể lại.

Dựa trên thông tin của John Barrow, có thể thấy Thủy quân Nguyễn Ánh có tổng cộng 26800 người, thuộc về 4 hạng mục sau: #1. 8000 thủy thủ trên 100 thuyền chèo tay dài 20~30m, mỗi thuyền khoảng 50~80 tay chèo, được trang bị các dạng pháo nhỏ bắn đạn 3~4 pounds (1~2 kg). Đây là loại mà phương Tây gọi là “galley”, thuyền chèo tay tác chiến ven bờ. Chức năng chính yếu của galley là vận chuyển hàng vạn bộ binh! #2. 8000 thủy thủ trên các ghe bầu lớn đóng theo kiểu truyền thống VN, kết hợp giữa buồm và chèo, đây đa số là các thuyền có nhiệm vụ vận tải! Đương nhiên galley và ghe bầu khó có thể đi biển xa, dài ngày được, và cũng rất hạn chế về hỏa lực! Để bù đắp cho sự thiếu hụt hỏa lực này là:

#3. các thuyền mành (junk) kiểu TQ, thủy quân của Chúa Nguyễn có 1600 người trên khoảng 20~30 thuyền mành, mỗi thuyền được trang bị 6~12 khẩu pháo loại bắn đạn 9~12 pounds (4~6 kg). Việc chế tạo các tàu này không quá khó về kỹ thuật, hoặc có thể mua trực tiếp từ người TQ. Và ở lớp trên cùng là: #4. 4 chiến hạm do người Pháp viện trợ (e là những tàu này không đóng tại VN), phối hợp nhiều nguồn thông tin, ta có thể suy đoán tương đối chính xác rằng 4 tàu này tương đương cỡ chiến hạm hạng 6 (sixth rate ship), mỗi chiếc có tải trọng 500 tấn, được trang bị 30 súng, thủy thủ đoàn chừng 300 người (tổng cộng 1200 người trên 4 chiếc), và do các thuyền trưởng người Pháp trực tiếp chỉ huy!

Như thế có thể thấy, nhà Chúa có một tư duy thực dụng về thủy chiến. Đó không phải là tàu to, súng lớn như mọi người thường nghĩ, mà chỉ là một “hạm đội” các thuyền lớn chèo tay chở bộ binh, làm sao vận chuyển binh lính + hàng hóa đi xa, hàng trăm người chia phiên, thay nhau chèo có thể đi cả trăm km mỗi ngày. Đội tàu này được bổ sung thêm vài chục “pháo hạm” kiểu thuyền mành (junk) TQ, và trên cùng của lưới hỏa lực là 4 con tàu kiểu Tây phương, 4 chiếc này cũng chỉ ngang cỡ tàu chiến hạng 6, hạng thấp nhất trong số 6 hạng tàu chiến ở châu Âu đương thời. Ngoài ra nhà Chúa còn có một đội 8000 thợ thủ công đóng thuyền, và dĩ nhiên là các ngành “công nghiệp hỗ trợ” khác như xẻ gỗ, đúc pháo…

Những thông tin này trùng khớp với những gì John White ghi nhận gần 20 năm sau đó khi đến Huế, hàng trăm “chiến thuyền” chèo tay – galley, vài chục thuyền mành kiểu TQ, nhưng tại thời điểm đó, chỉ còn thấy có 2 tàu kiểu Pháp, ngoài ra tác giả John White nhấn mạnh rằng không có dấu hiệu cho thấy có thuyền lớn hơn! Một năm sau thì nhà Vua băng hà, người kế vị chỉ tập trung vào học hành, thi cử, quan chế… bỏ bê võ bị, các con tàu kéo lên bờ, đưa vào trong các căn nhà có mái che, và nằm đó mục nát theo thời gian! Hình dung tổng thể về thủy quân giai đoạn đó như thế, không nên “tán láo” những thứ “hư ảo” kiểu: thuyền chiến 60 súng, 300 pháo hạm, tự đóng tàu hơi nước, hải pháo 24 pounds, etc…

Sử sách các triều đình xưa có cách dùng từ ngữ vô cùng “gian manh”, ví dụ như nói về đội quân 18 ngàn người, 1200 thuyền chiến, 300 pháo hạm, 600 pháo, nói như vậy thì một chiếc “thuyền chiến” chở… 18K/1200=15 người hóa chẳng phải chỉ là một chiếc xuồng nhỏ hay sao? Hay 18K quân mà 600 pháo thì trung bình 30 người có xoay nổi một khẩu pháo nặng 1, 2 tấn hay không, chưa nói đến chuyện vận chuyển khẩu pháo đó đi hàng ngàn km, từ đó suy ra cái gọi là “pháo” đó chẳng qua là những loại hỏa khí vác vai cỡ nhỏ. Suy luận tương tự thì cái gọi là “pháo hạm” đó chẳng qua là một chiếc xuồng có gắn 1, 2 khẩu pháo tép (swivel gun) mà thôi. Nên các mô tả trong sách sử xưa, mới nghe thì có vẻ “đúng” về ngôn từ…

Nhưng thực ra rất sai nếu đặt trong các hệ quy chiếu khác, sợ là so với Cướp biển Quảng Đông còn chưa được chứ chưa nói so với Hải quân phương Tây. Phần đầu của bài viết sơ lược như vậy để nói rằng: cái gọi là Hải quân Tây Sơn, Hải quân Nguyễn Ánh thực chất là lực lượng lính thủy đánh bộ ven bờ, được xây dựng để giải quyết bài toán giao thông vận tải (vận chuyển người và hàng), trong điều kiện nước VN bị chia cắt về địa hình, đường sá kém phát triển, đi lại rất khó khăn và các loại ngựa, xe vận tải rất ít. Phần sau sẽ nói kỹ hơn về cái gọi là hải chiến thời đó, thực chất là những cuộc chiến đổ bộ và chống đổ bộ, diễn ra trong các đầm phá ven biển, không phải là “hải chiến” theo nghĩa chúng ta hiểu ngày nay!

WhangHo junk

Tàu buồm TQ WhangHo, tàu hàng, buôn lậu và cướp biển, được đóng năm 1753 và có một cuộc đời rất dài, đến 162 năm, gồm nhiều hoạt động phong phú. Con tàu đổi chủ nhiều lần, bị cướp qua cướp lại giữa Hải quân Thanh triều và cướp biển Nam Trung Hoa, có giai đoạn tàu phục vụ trong biên chế của khởi nghĩa Thái Bình thiên quốc, và cuối cùng, đến năm 1913 thì người Mỹ mua xác tàu về trưng bày hội chợ. TQ thế kỷ 18 đã có khả năng đóng những con tàu lên đến 3000 tấn, nên về kích thước, WhangHo không phải là lớn! Một con tàu như thế thường được trang bị khoảng dưới 10 súng, nhỏ và nhanh nhẹn, phù hợp với vai trò… cướp biển! Và phần lớn những con tàu cướp biển của Trịnh Thất, Trịnh Nhất, Trịnh Nhất tẩu…

Trương Bảo, Trần Thiêm Bảo, Mạc Quan Phù, Ô Thạch Nhị, Vương Quý Lợi, v.v… cái “Liên đoàn cướp biển Quảng Đông” này là một lực lượng đáng kể, gồm hàng vạn người, hàng trăm tàu, phần lớn những tàu nhỏ cỡ dưới 300 tấn, trang bị 6 ~ 12 súng (loại súng “tiêu chuẩn” lúc bấy giờ là hải pháo nặng khoảng 1 ~ 1.5 tấn, bắn đạn 9 ~ 12 pounds). Khi nhà Thanh dần ổn định phương Nam, các nhóm hải tặc TQ mất địa bàn, mất căn cứ và phải dạt sang Việt Nam. Trên danh nghĩa là họ vẫn mang cái chiêu bài “phản Thanh phục Minh” và được vua Quang Trung thu dụng làm lính đánh thuê, vì các con tàu luôn cần home port – cảng nhà để sửa tàu, cứu chữa người bị thương, cung cấp vật tư hậu cần và… tiêu thụ tài sản cướp được!

Chính sử về mặt này thường tránh nói, hay nếu có nói cũng chỉ nói vô cùng sơ sài, về vai trò của Hải quân chính quy và Hải tặc đánh thuê trong chiến thắng Kỷ Dậu – 1789. Một cuộc hành quân lớn như thế, thần tốc như thế, cả chục vạn quân đi liên tục 15 ngày từ Phú Xuân ra đến Nghệ An, đâu phải chỉ đi có người không, còn phải có lương thực, vũ khí, súng ống, đạn dược… muốn vận chuyển nhanh một khối lượng lớn vật chất hậu cần, là bắt buộc phải đi bằng đường biển. Chưa kể các cánh quân vu hồi tấn công bên sườn quân Thanh ở Hải Dương, Lạng Giang chắc chắn phải đi từ biển vào theo ngã sông Hồng, sông Lục Đầu! Lịch sử là như thế, ấy thế mà nay không còn mấy ghi chép, chứng cứ, để cho con cháu suy đoán!

Khi còn nhỏ, đọc những dòng giải thích kiểu: chia quân thành nhóm 3 người, 2 người võng 1 người thay nhau đi và nghỉ, liên tục suốt ngày đêm, ấy thế mà tin sái cổ chứ phải! :D Lớn lên rồi, chỉ cần có chút vận động vật lý là biết những lời giải thích đó nó xàm xí, phản khoa học! Nên “sử gia” xưa thực ra có vô số người cũng chỉ biết “chỉ thượng đàm binh – 纸上谈兵“, hoàn toàn không hiểu các hoạt động thực tế diễn ra thế nào! Đến thời hiện đại rồi, cần lắm những cách giải thích khoa học, để cho mọi người hiểu rõ những yếu tố kỹ thuật, công nghệ nền tảng bên dưới! Hiểu để biết rằng trong tất cả các vận động lịch sử, bên cạnh yếu tố quan trọng là con người, thì kinh tế, vật chất và khoa học kỹ thuật vẫn là quyết định!

teksing junk

Tàu buồm TQ Teksing, không ai biết chính xác tên gốc con tàu là gì, nhưng đây thường được xem là một “Titanic phương Đông”. Tàu có cảng nhà – home port ở Hạ Môn, Phúc Kiến, dài 50m, 900 tấn! Lúc này ở TQ có nhiều biến động: Chiến tranh nha phiến lần 1, khởi nghĩa Thái Bình thiên quốc, xã hội bất ổn dẫn đến di dân hàng loạt. Năm 1822, con tàu xuất phát từ Hạ Môn, chở theo một lượng lớn đồ sứ, 200 thủy thủ cùng với 1600 di dân.

Ngày 6/2/1822, trên đường đến Jakarta, Indonesia, khi đang băng qua eo biển Gaspar, tàu đâm vào đá ngầm và chìm. Một chiếc khác đi cùng đoàn và một con tàu Anh đi ngang qua đã cứu được khoảng 200 người, 1600 người thiệt mạng. Năm 1999, người ta đã trục vớt số đồ sứ trên tàu và bán đấu giá được $10 triệu! Ảnh: phần lớn các tranh vẽ Tây phương về các con tàu buồm TQ đều mang các chi tiết cường điệu, thiếu chính xác!

Keying junk

Keying – con tàu buồm TQ đặt theo tên (Ái tân giác la) Kỳ Anh, Hộ bộ thượng thư, lưỡng Quảng tổng đốc, Khâm sai đại thần, tham gia phái đoàn TQ đàm phán kết thúc Chiến tranh nha phiến lần 2, và vì chấp nhận những điều khoản vô cùng bất lợi, hoàng đế Hàm Phong đã ban cho ông ta được chết! Tàu buồm Kỳ Anh là do người Anh mua lại từ TQ, 49 mét, 800 tấn! Năm 1846, với thủy thủ đoàn 12 người Anh, 30 người Quảng Đông đã làm một hành trình vòng qua mũi Hảo Vọng đến New York, Boston và sau đó quay về Anh. Ở đâu con tàu cũng được công chúng chào đón nhiệt liệt!

Vì lần đầu tiên có một con tàu TQ làm một hành trình lớn như thế! Nữ hoàng Victoria đến thăm tàu, nhiều sĩ quan hải quân Hoàng gia chạy thử tàu, và kết luận rằng Keying có khả năng đi biển ít nhất là tương đương, nếu không muốn nói là hơn các con tàu tốt nhất Anh quốc! Không khó đoán ra mục đích thật sự của việc mua tàu Keying, tàu sau đó được mổ xẻ ra để nghiên cứu, người Anh dù đang thống trị đại dương nhưng vẫn không ngừng học hỏi từ bất kỳ nguồn nào có thể! Tranh vẽ: đường cong của con tàu Keying bị cường điệu hóa, thực ra tàu không cong đến vậy!

ningpo junk

Hồi đó trong group Thuyền buồm, có câu hỏi là: vì sao các thuyền buồm phương Tây xưa thường có rất nhiều tầng buồm, tàu buôn có 2, 3 tầng, còn tàu chiến thậm chí nhiều hơn, đến 4, 5 tầng?! Thế rồi ai cũng trả lời là: có nhiều tầng buồm để khi đánh nhau, có hư hại 1, 2 tầng thì cũng không sao, không hư hết, thậm chí cái câu trả lời ấy nó còn echo – vang vọng từ người này sang người khác! Em ngồi chờ xem ai đó có câu trả lời thỏa đáng hơn suốt một năm, mà trong group toàn “hiểu biết” cả, từ kỹ sư, kiến trúc sư cho đến nghiên cứu lịch sử, khảo cổ, đủ cả… Giả sử bạn có một cây gậy gỗ đường kính 2cm, dài 1m thì có thể dùng tay bẻ gãy một cách dễ dàng!

Cũng cây gậy ấy mà chỉ dài 0.2m dùng tay có khi không bẻ gãy được! Đó gọi là sức bền vật liệu, một tấm vải buồm 5m gió khó giật rách, nhưng cũng tấm vải ấy mà dài 50m thì gió giật rách ngay! Đó là chuyện không cần phải là kỹ sư, chỉ cần kiến thức vận động, thực hành là hiểu được, các bố chỉ ưa nói chứ không suy nghĩ được cả những điều nhỏ! Em đợi một năm, không ai đưa ra được câu trả lời thích đáng, em “leave group” không vào nữa! Ảnh: tàu buồm TQ Ningpo, đóng năm 1753, 42m, 300 tấn, tàu buôn và cướp biển, tuy không lớn nhưng được xem là con tàu chạy nhanh nhất TQ, Ninh Ba có một cuộc đời dài đến… 185 năm với vô số sự kiện!

bessarabia

Đế chế Ottoman, tại thời điểm cực thịnh của nó, bao gồm một phần hay toàn bộ lãnh thổ các nước Iraq, Iran, Ai Cập, Hy Lạp, Bulgaria, Romani, Croatia, Serbia, Moldova, Ukraine, etc… nhiều lần đe doạ Áo và miền Trung châu Âu! Châu Âu và đế chế Ottoman có một lịch sử mâu thuẫn ân oán lâu dài, xem như cuộc Thánh chiến, Thập tự chinh mở rộng. Muốn hiểu thêm về mấy trăm năm chiến tranh này, tìm đọc tiểu thuyết “Những ngôi sao Eger” – Gárdonyi Géza.

Đương thời, châu Âu, Nga và Thổ tạo thành thế vạc 3 chân! Một mặt châu Âu không ưa gì Thổ, và trong một chừng mực ít hơn, cũng không ưa gì Nga, nên muốn dùng 2 thế lực đó kiềm chế lẫn nhau và không muốn bên nào thắng hẳn! Người Nga thì trên danh nghĩa muốn đứng đầu liên minh Thiên chúa giáo chống lại Hồi giáo, trên thực tế, họ tìm đường ra Địa Trung Hải. Người Nga tấn công Thổ từ 2 hướng, một từ Ukraine tiến sang Moldova, Romania, một hướng về Caucasus, qua ngã Georgia, Armenia.

Đỉnh điểm của mâu thuẫn là chiến tranh Nga – Thổ (1768 ~ 1774), hạm đội của đô đốc Alexei Orlov từ biển Baltic ra Đại Tây Dương vòng vào lại Địa Trung Hải, đánh bại hạm đội Thổ, nhưng bao vây Constantinople không thành công! Trên bộ, cánh quân của Alexander Suvorov đánh bại Thổ tại trận Kozludzha. Suvorov là vị Nguyên soái bất bại của Nga, ông ta chưa từng thua một trận nào trong toàn bộ sự nghiệp rất nhiều trận chiến của mình! Người Nga họ có cả một bảng “Phong thần” liệt kê các anh hùng lịch sử!

Ở hạng mục tướng quân, Suvorov đứng đầu bảng, kế đến là Fyodor Ushakov, sau nữa mới đến Georgy Zhukov. Kết quả cuộc chiến, Thổ phải nhượng cho Nga vùng đất Bessarabia nằm giữa Moldova và Ukraine, là tiền thân của Transnistria ngày nay (dù đã bị thu hẹp hơn trước nhiều, nhưng sau hơn 250 năm vẫn “ một lòng hướng về đất mẹ”). Giờ nếu như Nga tấn công Odessa, thông với Transnistria là biến Ukraine thành quốc gia lục địa đúng nghĩa.

scarlet sails

Sa hoàng từ phía chiếc tàu bước nhanh tới; nhà vua mặc quần chẽn bằng nhung kiểu Hà Lan ngắn tới đầu gối, áo sơ-mi vải thô, ống tay xắn lên, đội mũ tròn bằng vải sơn, hất ra đằng sau. Sa hoàng dừng lại trước bục, kính cẩn bỏ mũ ra trước viên đô đốc Golovin to béo, đầu đội một bộ tóc giả to sù, tay cầm một cốc rượu nho Hungary: – Thưa ngài đô đốc, tôi hân hạnh được chào ngài! – Chào thợ cả Piotr Alekseevich, – Golovin nghiêm trang trả lời. – Thưa ngài đô đốc, tàu đã sẵn sàng hạ thuỷ. Ngài cho phép rút đòn kê. – Cầu Chúa phù hộ, làm đi! Ông quận công, ngừng xoắn bộ ria mép, kinh ngạc nhìn Sa hoàng: không khác gì một người thợ mộc bình thường dòng dõi thấp kém! Nhà vua cúi chào viên đô đốc, đội mũ vào rồi hấp tấp bỏ đi, chân dẫm lên đống vỏ bào.

Rất nhiều tài liệu, thư từ, giấy tờ lịch sử còn lưu lại chứng thực điều này: Peter đóng rất nhiều vai trong cuộc đời mình, và diễn như thật! Với các tướng lĩnh, đô đốc, Peter vừa là Sa-hoàng, vừa là anh binh bét! Khi còn là một đứa trẻ chơi trận giả, Peter đã như thế, nhưng khi đã trưởng thành cũng vẫn như thế, xem cuộc sống như là sự tiếp diễn của những trò chơi lúc nhỏ! Người chỉ đọc thoáng qua thì sẽ nghĩ rằng Sa-hoàng là một kiểu… “đa nhân cách”, luân phiên diễn những vai rất khác nhau: có nhưng vai ngang bằng với lính tráng, uống rượu, cãi cọ, ẩu đả, nhưng cũng có những vai học thức, trầm ngâm trước các bản thiết kế, lại có những vai thực sự là Sa-hoàng tàn bạo, tự tay cầm rìu chặt đầu những kẻ nổi loạn… Ảnh: con tàu Rossiya (brig) tại lễ hội Cánh buồm đỏ thắm!

poltava, 1712

Poltava, 1712, được đặt tên theo trận đại thắng tại Poltava, Ukraine chỉ mới 3 năm trước đó! Con tàu 1200 tấn, 54 súng này cũng do Peter trực tiếp giám sát thi công và trong một vài dịp, làm thuyền trưởng. Những chiến hạm của nước Nga đương thời thường chỉ 50 ~ 60 súng, mãi hơn 50 năm sau mới bắt đầu đóng những chiến hạm hạng nhất 100 ~ 120 súng! Không phải vì họ không đóng được tàu lớn hơn mà đơn giản vì những vùng như biển Đen, biển Baltic thường cạn, địa hình đáy biển phức tạp, thời tiết thất thường, chiến hạm quá lớn không hoạt động hiệu quả, và trong tác chiến, điển hình như trận Hải chiến Gangut, dễ bị các tàu galley chèo tay, nhỏ, yếu nhưng đông hơn và linh hoạt hơn đánh bại!

Cần phải nói về các “vai diễn” khác nhau mà Peter đã đóng, đôi khi ông ấy đóng vai thuỷ thủ, đôi khi pháo thủ, đôi khi là thuyền trưởng! Điều này được những người thân cận với Peter như đô đốc Fyodor Apraksin tận dụng triệt để! Nếu thảo luận với thuỷ-thủ-Peter về thiết kế tàu, về chiến thuật trên biển thì Apraksin sẽ bảo vệ quan điểm của mình, cãi nhau đỏ mặt tía tai! Nhưng nếu bàn bạc với Sa-hoàng-Peter thì Apraksin sẽ ngoan ngoãn chấp hành! Cũng phải nói thêm rằng, Peter luân chuyển giữa những “vai” khác nhau, và “diễn” như thật: từ y phục, cách xưng hô cho đến ngôn từ trên giấy tờ, tất cả đều theo đúng “chức vụ & cấp bậc”! Điều này thường chỉ thấy ở “thiên tài” hoặc “điên loạn”!

goto predestinatsia

Sau khi ở Hà Lan học nghề mộc được vài tháng, Peter – 1 vượt biển sang Anh quốc, và được vua nước Anh, William – 3 đón tiếp nồng hậu nhưng không nghi lễ, vì Peter du hành ẩn danh – incognito! Động cơ lớn nhất của Peter khi sang Anh là… các bản thiết kế thuyền! Mặc dù ông rất hâm mộ tay nghề đóng thuyền của các nghệ nhân Hà Lan, Peter nhận thấy rằng nó vẫn thiếu tính hệ thống, chủ yếu vẫn dựa vào kinh nghiệm, thiếu bản vẽ chính xác và tài liệu kỹ thuật chuẩn hoá! Nhà vua Anh tặng Peter – 1 chiếc du thuyền nhỏ làm quà, và chính chiếc thuyền này đã chở về Nga cả trăm chuyên gia, kỹ sư mà Sa – hoàng thuê được, đương nhiên phải trả một mức lương hậu hĩnh thì người ta mới chịu sang Nga làm việc! Chỉ hai năm sau thì Peter hoàn thành con tàu 58 súng Goto Predestinatsia, được xem là ship – of – the – line đầu tiên của nước Nga, được đóng hoàn toàn bằng “công nghệ” nội địa, bây giờ là con tàu bảo tàng ở Voronezh!

Nhân tiện nói về thuật ngữ ship – of – the – line, line ở đây là line – of – battle, đội hình hải chiến phổ biến nhất là một hàng dọc, hai bên tiếp cận nhau bằng hai hàng song song và đấu súng! Chiến thuật một hàng dọc là phổ biến nhất trong hải quân, thậm chí đến cả thời hiện đại, Hải chiến Hoàng Sa, 1974 cũng bày đội hình một hàng dọc! Không có định nghĩa rõ ràng một con tàu như thế nào là được xem là ship – of – the – line, nhưng thường là phải trên 50 súng! Đội hình hàng dọc bảo đảm một điều là nếu tàu nào không chịu nổi hoả lực của đối phương thì có thể… bỏ hàng và… chạy! Nhưng cũng vì vậy mà các trận đấu theo chiến thuật này thường có kết quả không rõ ràng vì các tàu có xu hướng bỏ, dạt hàng! Để khắc phục điều này, ở trận Trafalgar, đô đốc Nelson đã sử dụng đội hình hai hàng dọc, để khoá các tàu của đối phương và của chính bản thân mình vào thế trận đan xen, bắt buộc phải đấu tới bitter – end, thắng bại rõ ràng mới thôi!

shtandart

Đoàn xe đến Koenigsberg vào buổi chiều tà, bánh xe lăn ầm ầm trên mặt đường lát đá sạch bong. Không có rào giậu gì cả, thật là kỳ lạ! Nhà cửa trông thẳng ra phố; từ đường, có thể với tay tới những khung cửa sổ dài, có ô kính nhỏ. Khắp nơi sáng ngời một thứ ánh sáng niềm nở. Cửa ngõ đều bỏ ngỏ. Người đi lại không chút sợ hãi. Người ta những muốn hỏi họ: làm sao mà các ngươi lại không sợ mất trộm nhỉ? Có thể nào ở thành phố các ngươi lại không có trộm cướp ư? Trong ngôi nhà thương nhân họ đến ở, cả ở đấy nữa người ta cũng không cất giấu thứ gì, đồ vật quý giá để ngay trước mặt. Phải là một thằng ngốc mới không lấy gì. Vua Piotr ngắm nhìn những bức tranh, bát đĩa và sừng bò rừng, nói thầm với Alexaska:

Hãy cảnh cáo tất cả mọi người thật nghiêm khắc rằng hễ đứa nào táy máy dù chỉ là một trang sức nhỏ ta sẽ sai treo cổ nó ngay ở cổng.Bệ hạ nói đúng. Myn Herz, chính thần cũng lo. Trong khi chờ cho họ quen dần, thần sẽ cho khâu kín tất cả các túi áo quần của họ lại! Vì, cầu Chúa che chở, khi họ mà đã rượu vào thì biết thế nào được… Trích đoạn tiểu thuyết Pie đại đế – tác giả Aleksey Tolstoy! Ảnh bên dưới: Shtandart, con tàu đầu tiên của hạm đội Baltic, do Sa-hoàng Peter trực tiếp giám sát thi công và đồng thời cũng là thuyền trưởng đầu tiên (ảnh thực ra là con tàu replica, 1999, đóng mới theo mẫu cũ). Con tàu chọn trang phục màu đỏ để tới dự dạ hội “Scarlet sail” trên sông Neva, St. Petersburg.

treasure island

Cuốn tiểu thuyết mê ly thời còn nhỏ, tôi đọc bản NXB Văn học, 1987, nhưng thực ra đây là tái bản của bản 1944 – Vũ Ngọc Phan – Tự lực văn đoàn, nên tiếp cận văn hoá phương Tây ở VN là khá sớm, có lẽ từ thời Đông kinh Nghĩa thục. Khi nhỏ đã đọc cả trăm truyện thế này, nhưng hay nhất là “Bí mật đảo Lincoln” của Jules Verne! Cuốn sách này chứa đầy ắp các kiến thức về thiên văn, địa lý, vật lý, khoa học tự nhiên: từ cách xác định góc phương vị (azimuth) của mặt trời để đo kinh vĩ.

Chả cần phải học hoá cấp 2 cũng biết được thuỷ phân dầu tạo ra xà phòng và glycerine, chả cần học hoá cấp 3 cũng hiểu quy trình Bessemer để luyện gang thành thép… Spoiler: không khó để nhận ra trong bản dịch này nhiều lỗi chuyên môn về địa lý, hằng hải và nhiều kiến thức tổng quát! Vì thực ra các cụ thời đó cũng không có biết nhiều lắm đâu! Nhưng nói cho đúng, nó vẫn tốt hơn các bản dịch hiện tại, sách vở bây giờ hành văn căn bản còn chưa nên thân, câu cú lộn xộn cứ như “cơm sống”!

the pandora box

Đảo giấu vàng (treasure island), vịnh cướp biển (pirates’ bay), và vô số từ vựng có nguồn gốc hàng hải khác khác, đã đi vào kho từ vựng của loài người, với những nghĩa phái sinh, những ẩn dụ vô cùng thâm thuý! Nhưng cũng đừng quên, cái hộp Pandora đó vẫn luôn còn chứa đựng một thứ cuối cùng còn sót lại cho loài người!

whaler

Một chút lịch sử hàng hải phương Tây, nghề đánh bắt cá voi, loại sinh vật khổng lồ nặng đến vài chục (thậm chí cả trăm) tấn, loài mà ngư dân VN kính ngưỡng và thờ phụng, gọi là “Ông”, còn bọn Tây thì xem như những thùng dầu khổng lồ di động. Trong ảnh là Charles W. Morgan, con tàu 350 tấn, giờ là một phần của bảo tàng Mystic Seaport. Ai từng đọc Moby-Dick – Herman Melville, một trong những cuốn tiểu thuyết mà tôi say mê lúc nhỏ, sẽ không lạ gì những chuyện thế này! Một chuyến săn cá voi có thể kéo dài vài tháng, hay vài năm, nhiều tàu đi vòng quanh thế giới, đi theo mùa và theo những đàn cá.

Thuỷ thủ trực trên cột buồm để tìm “tia nước cá voi”, luồng khí & nước vọt lên trời khi cá thở. Phát hiện ra, vài chiếc xuồng con được hạ thuỷ từ tàu mẹ, bắt đầu truy đuổi! Các tay chèo đuổi theo con cá, người đứng mũi, nhân vật xuất sắc nhất, lãnh nhiệm vụ phóng lao! Cá trúng lao sẽ kéo vài chiếc xuồng chạy băng băng trên mặt biển cho đến khi kiệt sức! Cũng có khi cá lặn xuống vài trăm mét, phải liên tục xả dây, nếu không sẽ kéo chiếc xuồng xuống biển! Toàn bộ quá trình siêu nguy hiểm, chỉ cần cá quẫy đuôi trúng là xuồng tan tành! Cuộc chiến đấu với cá voi là một đề tài “lãng mạn” trong văn hoá Anh, Mỹ.

Theo quan điểm hiện đại, điều đó không được “đúng đắn & nhân văn” cho lắm, nhưng chỉ khác với con rồng trong thần thoại là không thể phun lửa thôi, chứ cá voi là loại động vật to lớn nhất lịch sử tự nhiên, lớn hơn cả những loại khủng long to nhất, chúng có thể nặng đến hơn 170 tấn! Cá đánh bắt về được xẻ thịt, lò than trên tàu sẽ biến mỡ cá voi thành những thùng dầu! Chiếc Charles W. Morgan trở về cảng năm 1845 sau 3 năm đi biển, đem về 2,400 thùng dầu! Dầu cá thường dùng làm dầu thắp đèn (lửa sáng mà không có mùi), làm nến! Dầu cá voi là loại bôi trơn cho máy móc của Kỷ nguyên Công nghiệp hoá.

Dầu cá được dùng làm margarine, loại thực phẩm thay thế bơ. Dầu cá là nguyên liệu vô cùng quan trọng trong Chiến tranh thế giới lần 1 & 2, nó được thuỷ phân thành xà phòng và glycerine, mà glycerine là nguyên liệu chính tạo nên các loại thuốc súng không khói & thuốc nổ! Đánh cá voi từng là một ngành công nghiệp lớn và một phần quan trọng của văn hoá phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Mãi cho đến những năm 198x, thoả thuận cấm đánh bắt cá voi mới có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu, vì dầu cá đã được thay thế bằng các sản phẩm dầu mỏ! Trước đó, con người giết cả vài chục ngàn con cá voi mỗi năm để lấy dầu!

some marine arts

Đây là bức hoạ hiện đại, có thể được vẽ gần đây, tái hiện lại lịch sử ngày xưa. Cái góc nhìn của nó rất mới, giống như được quay từ drone vậy, hội hoạ cổ điển có nằm mơ cũng khó có được những góc phối cảnh – perspective thế này. Ở phương Tây, có những nhánh hội hoạ chỉ chuyên đề tài hàng hải, phải bỏ ra hàng chục năm đọc mọi thứ, từ lịch sử, địa lý, kỹ thuật đóng tàu, kỹ thuật buồm, 1001 thứ để có thể vẽ được một bức tranh đúng, chưa nói chuyện đẹp!

hms resolute

Con tàu Resolute tham gia tìm kiếm đoàn thám hiểm không bao giờ trở về của John Franklin trong 2 năm 1848 ~ 1850, sau đó về Anh, rồi quay lại tiếp tục tìm kiếm trong 2 năm nữa, 1852 ~ 1854. Suốt những mùa đông bị vây hãm trong băng giá, thuỷ thủ đoàn toả ra các hướng, đi bằng xe chó kéo để tìm vết tích của Franklin, nhưng không tìm được gì, họ chỉ tìm và cứu được đoàn đi trên chiếc HMS Investigator. Về sau, cũng phải bỏ tiếp chiếc Resolute bị kẹt trong băng giá, đoàn người trở về Anh năm 1854 trên các con tàu khác của đoàn thám hiểm!

Một năm sau đó, Resolute được tìm thấy trôi dạt trên biển bởi một tàu đánh cá voi Mỹ, cách 1900 km so với nơi ban đầu. Quốc hội Mỹ mua lại con tàu và gởi nó về Anh như món quà tặng cho nữ hoàng Victoria! Đến lúc này, Bộ Hải quân đã hết hy vọng việc tìm đoàn Franklin nên dừng các cuộc tìm kiếm. Chỉ riêng có Lady Jane, vợ của Franklin quá cố, vẫn tiếp tục tìm kiếm… 20 năm nữa, tài trợ tất cả 7 đoàn thám hiểm chỉ để tiếp tục tìm! Lady Jane đi vào văn hoá đại chúng Anh với bài hát “Lady Jane’s Lament” – nỗi đau khổ của quý bà Jane!

hms investigator

Năm 1848, Investigator và Enterprise, 2 con tàu do James Clark Ross chỉ huy, khởi hành đi tìm vết tích của John Franklin. Ross lúc này đã 72 tuổi, đành đứng ra nhận nhiệm vụ vì không còn ai có đủ uy tín cũng như kinh nghiệm! Ross từng thề với vợ là sẽ không bao giờ đi thám hiểm nữa, sau vụ này 2 vợ chồng giận nhau cho đến cuối đời. Sau 5 năm tìm kiếm vô vọng, con tàu Investigator bị đông cứng trong băng suốt 3 năm.

Cho đến khi họ được phát hiện và giải cứu bởi HMS Resolute, một trong 3 nhánh tìm kiếm gọng kìm được tổ chức bởi Bộ Hải quân. Resolute sau đó cũng không thoát ra được khỏi vùng băng giá, lại phải bỏ tàu, sau đó lại được cứu bởi một tàu khác! Nhiều hành trình theo vết đoàn thám hiểm của Franklin, lúc này đã trở thành một cuộc “Thập tự chinh” thần thánh đúng nghĩa, liên tục nhiều năm, với vô số kỳ tích!

hms terror

Sau chuyến thám hiểm Nam cực của James Clark Ross, 2 con tàu Terror và Erebus lần nữa được trang bị lại, chuẩn bị cho chuyến thám hiểm của John Franklin, lại là mục tiêu muôn thủa: Con đường Tây Bắc (the North West Passage), tìm ra một thuỷ lộ ngắn nối liền Đại Tây Dương và Thái Bình Dương mà không phải đi vòng xuống Mũi Sừng xa xôi! Cho đến ngày nay người ta vẫn biết rất ít về số phận bi thảm của cuộc thám hiểm này, toàn bộ 129 người không ai trở về! Bộ Hải quân tổ chức một vài đoàn tìm kiếm. Jane Franklin, vợ của John Franklin, nhà thám hiểm quá cố, con gái một nhà đại tư sản là tiếp tục vận động, tài trợ, bỏ tiền tổ chức thêm nhiều cuộc tìm kiếm nữa suốt 25 năm sau đó! Họ đem về được 2, 3 mảnh giấy, chôn dưới những cột đá xếp đánh dấu, để lại một số ít ỏi thông tin!

Đến ngày nay, người ta chỉ biết đại khái là cả 2 con tàu bị chôn vùi trong băng giá suốt một năm rưỡi, nhiều người lần lượt chết trước khi số còn lại bỏ tàu, tìm cách trở về bằng đường bộ nhưng không một ai về tới đích! Rất nhiều giả thiết được đưa ra, kể cả giả thiết ngộ độc botulinum trên loại đồ hộp thế hệ đầu tiên mà đoàn sử dụng! Hai cuộc thám hiểm thất bại, một của Franklin, một của Robert Scott khiến người ta phải nghĩ lại về cách tiếp cận, rõ ràng việc sử dụng những đoàn thám hiểm lớn cả trăm người là không phù hợp! Roald Amundsen người Na Uy, hơn 50 năm sau, là người đầu tiên hoàn thành cả 3 mục tiêu: đến Nam cực, đến Bắc cực, và đi hết con đường Tây Bắc, dĩ nhiên là với những trang thiết bị hiện đại hơn, và chỉ dùng những nhóm nhỏ 5 ~ 15 bao gồm những cá nhân đặc biệt xuất sắc!

hms discovery

Discovery, 1789 là con tàu được đặt theo tên của chiếc Discovery trước đó, 1774, một tàu trong đoàn thám hiểm của James Cook. Hải quân Hoàng gia liên tiếp có rất nhiều thế hệ tàu Discovery khác nhau! Discovery, 1789 do George Vancouver làm thuyền trưởng. Vancouver cũng tham gia đoàn thám hiểm của Cook với vị trí midshipman. Cũng giống như Nelson vậy, từ đội ngũ của Nelson nảy sinh nhiều sĩ quan tài năng, thì từ đội ngũ của Cook, cũng nảy sinh nhiều nhà thám hiểm tài năng.

Discovery làm nhiều chuyến đo đạc, vẽ bản đồ ở Thái Bình Dương suốt 5 năm, nhất là vùng Tây Bắc lục địa châu Mỹ! Để đi vào các vùng nước nông, thuỷ thủ đoàn thường rời tàu mẹ, chèo xuồng con xa cả trăm km, sâu vào bên trong các vịnh biển, sông suối thì mới vẽ bản đồ chính xác được! Hòn đảo Vancouver, Canada chính là đặt theo tên nhà thám hiểm này! Những bản đồ của Vancouver chính xác đến nỗi, chúng được dùng đến gần 200 năm sau, đến khi có phương pháp đo đạc bằng GPS mới!