chính

Lảm nhảm về chính – chánh… Gia chính – 家政 (nữ công gia chánh): quản lý việc nhà cho ngay ngắn. Học chính – 学政: chức quan trông coi việc học hành ngày xưa. Bưu chính – 邮政: cơ quan phụ trách việc truyền tin. Diêm chính – 盐政 – chức quan quản lý việc khai thác, buôn bán muối. Dân chính – 民政: cơ quan quản lý dân số, hộ tịch. Công chính – 工政: quản lý các công việc, công trình công ích nói chung. Hành chính – 行政: bộ phận quản lý giấy tờ, sự vụ… Tức là từ việc nhỏ như “gia chính” cho đến việc lớn “trị chánh – chính trị”, thì đều dùng từ cả, từ này nguyên nghĩa là khuôn phép, quy tắc, pháp lệnh, là từ phái sinh của chính – nghĩa là ngay thẳng. Tiếng Việt mượn rất nhiều từ như thế: chấp chính, chất chính, tập chính, nhiếp chính, tham chính, nghị chính, tòng chính, trình chính, bố chính, thị chính, nội chính v.v…

Một trường hợp đặc biệt là tài chính – 财政, người Việt thường hiểu chưa đúng từ này, đánh đồng nó với finance trong tiếng Anh, chính vì có chữ “ chính” nên “tài chính” nguyên gốc chỉ mang ý nghĩa quản lý tiền bạc, tài sản công (public finance) mà thôi, không mang nghĩa cá nhân hay tư nhân! Dùng từ “chánh – chính” khắp từ việc lớn đến việc nhỏ như vậy, nhưng có “chính” thật được hay không thì còn phải xem văn hóa và dân trí! Chứ cái dân lưu manh, gian vặt khắp từ việc nhỏ đến việc lớn, còn mãi ngồi cãi vã, đấu đá với nhau: tôi là trắng, anh là đen, nhưng dù là trắng hay là đen thì thực chất, đều cùng một giuộc, đều giống y hệt như nhau, chẳng anh nào chịu đi bắt chuột! Ưa lý luận trên bề mặt ngôn từ hình thức, hay là sự bất lực không tự thay đổi được bản thân, đó cũng chỉ như 2 mặt của một đồng xu mà thôi!