tại sao kayak? phần 3

ói như thế nghĩa là chẳng có ranh giới rõ ràng nào giữa một kayak và một chiếc canoe nhỏ. Những nỗ lực cải tiến thiết kế và trang thiết bị độ 10, 15 năm gần đây đã dần dần dẫn đến chỗ khả dĩ có thể hình thành một định nghĩa chung chung cho cái gọi là kayak. Có một điều khá chính xác, đó là kayak luôn dùng mái chèo đôi (double blade paddle), nhưng còn lại, không có gì có thể định nghĩa rõ ràng rành mạch cả. Người ta dùng “kayak” cho một loạt những hoạt động thể thao khác nhau:

1. Surfing kayak, hay kayak lướt sóng (surf) ven bờ: đây là những thuyền rộng bề ngang, ngắn (khoảng 6 ~ 12 feet) dùng để vượt qua những đoạn nước biến động mạnh. Thân thuyền thường làm bằng nhựa có độ mềm, độ đàn hồi cao để chịu được va đập. 2. Touring kayak: thường có chiều dài 12 ~ 16 feet, ổn định, an toàn, và như tên gọi, thường dùng cho du khách đi vãn cảnh loanh quanh độ vài chục km, thể loại này cũng không phải là một hình thức cố định, cũng có nhiều kích thước khác nhau.

3. Sea kayak: đặc trưng là thân thuyền dài (16 ~ 21 feet), thon gọn (bề ngang thường nhỏ hơn 60 cm), có khả năng cắt qua những con sóng vừa phải, thích hợp để đi đường trường, có thể lên đến hơn 60, 70 km mỗi ngày, linh hoạt, uyển chuyển để phù hợp với hàng loạt những điều kiện sóng gió khác nhau dọc đường đi. 4. Racing kayak: loại này tôi không bàn đến, vì nó hy sinh mọi thứ, độ ổn định, tải trọng để đạt được vận tốc nhanh nhất, nên không có chút giá trị nào khi dùng cho cruising.

5. Surf ski: là một tiến hoá hiện đại nhất, gần đây nhất của sea kayak, thân thẳng, bánh lái nằm dưới đáy thuyền gần đuôi, cockpit mở, chuyên dùng để lướt sóng hay để đua, nhưng tải trọng tương đối hạn chế, cũng không thích hợp cho cruising. Trong loạt bài viết này, chữ “kayak” là ám chỉ đến loại “touring kayak” hay “sea kayak” như sẽ giải thích rõ hơn sau đây. Trong 5 loại trên, chỉ có touring kayak và sea kayak là thích hợp để cruising, thực ra cũng không có biên giới rõ ràng giữa hai thể loại đó.

Khi ta chèo trong môi trường sóng lớn, những thân thuyền có bề ngang rộng thường lắc lư dữ dội, đến mức cảm thấy bất ổn. Ngược lại, những thân thuyền thon gọn, tuy cảm giác ban đầu có vẻ như là kém ổn định, lại cắt, trượt qua con sóng dễ dàng. Nên thuyền chèo trong môi trường biển thường có thiết kế dài và hẹp, và quan trọng là để giảm bớt năng lượng tiêu phí đẩy con thuyền về phía trước. Ấy hầu như là một quy luật chung, và cũng là một lời giải thích hợp lý cho các kiểu thiết kế sea kayak.