Lối học thuộc lòng và lợi ích của nó… Thời xa xưa, sách vở rất khó khăn, giấy bút không có đủ, nhiều người tập viết trên cát để nhớ mặt chữ. Chính vì phương tiện khó khăn như vậy, nên thiên về học thuộc lòng, nhất là ở lứa tuổi nhỏ, những bài văn vần câu ngắn, kiểu Tam tự kinh, cứ như thế mà tụng. Vừa để nhớ mặt chữ, vừa để nhớ ý tứ, cứ như thế mà học. Các tôn giáo cũng truyền tải bằng các hình thức “tán” và “tụng”, những văn bản được truyền miệng từ đời này sang đời khác, lặp đi lặp lại nhiều lần với mục đích ghi nhớ, ví dụ như: Đệ tử chúng con từ vô thủy, Gây bao tội ác bởi lầm mê…
Thậm chí là: nhớ cái đã, hiểu để sau, nhiều câu chữ phải nhớ để còn dành… cả đời mà nghiền ngẫm!!! Thế rồi… thời đại đổi thay, phương tiện đủ đầy, thông tin thừa mứa! Cũng từ đó mà xuất hiện những loại “học” theo kiểu: gì cũng “có vẻ biết”, nhưng hỏi đến câu chữ thì cứ “mờ mịt như người sương khói phủ”, không nhớ được, không hành văn được, đầu óc tư duy cứ gọi là… nhộn nhạo! Tôi gọi đó là loại học mà “chữ chưa kịp dính vào đầu”, chữ chưa dính được, học rồi thời gian ngắn sau rơi rụng hết, thì lấy cái gì mà suy nghĩ, lấy gì mà tư duy, càng chưa nói đến tự phản ảnh, tự vấn!
Với những dân tộc mà công phu nông cạn thì đây thực sự là vấn nạn, éo nghĩ cái gì cho sâu xa được, gì cũng “đuổi hình bắt chữ”, vô cùng thiểu năng! Học thuộc lòng xem như là bắt buộc với lớp vỡ lòng, và vẫn tiếp tục nhiều năm sau đó. Cái câu “sáng tạo quan trọng hơn kiến thức” là nói cho thành phần cao xa nào đó, chứ với con người phổ thông thì trước hết cứ phải nhớ đã! Thế rồi từ học thuộc lòng xuất hiện học vẹt, tuy cũng nhớ được một số câu chữ ít ỏi, nhưng không hiểu nghĩa lý sâu xa, tự cho mình thông minh, cứ lặp như vẹt một số ngôn từ và dùng nó để đi bịp người…