Nhiều “tiến sư – giáo sĩ, sử gia – giả sư” khi nghe được về “kỵ binh” thời Tây Sơn – Nguyễn Ánh, thế là chộp ngay lấy cái từ “kỵ binh” và bắt đầu huyên thuyên ngựa VN thế này thế kia. Thực ra, theo John Barrow, chúa Nguyễn có: 24 đội kỵ binh (cưỡi trâu) – 6.000 người và 16 đội tượng binh (200 con voi) – 8.000 người! Như thế là đã rõ, ngựa VN thời đó vừa ít lại vừa yếu, chắc chỉ đủ trang bị cho một số lính thông tin, còn lại là… cỡi trâu cả! Không phải là chuyện khôi hài đâu, đến thời hiện đại, một số nước như Brazil vẫn có các đội cảnh sát cưỡi trâu, Mạnh Hoạch trong truyện Tam quốc cũng cỡi trâu, nhiều nơi khác trên thế giới thời xưa cũng thế! Đơn giản là người ta không thể dùng cái người ta không có nhiều được!
Lại nghe được thêm một từ nữa là “tàu đồng, tàu bọc đồng”, thế là bắt đầu tán láo về các loại “thiết giáp hạm” nồi đồng cối đá! Thực ra lớp đồng này chỉ mỏng từ 1~3mm, chỉ bọc từ mực nước trở xuống, có tác dụng bảo vệ gỗ, không cho các loại hà, hàu đục phá, hoàn toàn không có tính năng như “giáp” bảo vệ tàu trước các loại đạn! Lại nghe được thêm một từ “súng – hải pháo” và ngồi tưởng tượng ra các con tàu được trang bị đến 60 “súng”! Súng theo nghĩa phương Tây phải là những loại từ 1.5~2.5 tấn hoặc hơn kia, không phải mấy khẩu pháo tép nặng 100kg đâu! Có những loại vô cùng “thông minh và nhanh nhạy” như thế, toàn “huyên thuyên tán láo, xào xáo ngôn từ”, không hề hiểu thực tế vận động như thế nào!