gia miêu ngoại trang

ia Miêu ngoại trang, Hà Trung, Thanh Hoá (Gia Miêu quý hương, Tống Sơn quý huyện), đất “thang mộc”, đất “phát tích” của Nguyễn Phúc tộc… Một vài bức ảnh nhỏ không thể nói lên hết nét đẹp của miền đất này, một dải thung lũng nằm thoai thoải giữa hai dãy núi, cảnh quan rất quyến rũ. Nơi đây ngày xưa còn có cả một phiên bản thu nhỏ của kinh thành Huế (khu lăng miếu Triệu Tường), rất tiếc là đã bị phá tan hoang trong những cuộc đấu tố mang tính “ý thức hệ” sau 1954!

sương đầu núi

Sương đầu núi buổi chiều như gội,
Nước lòng khe nẻo lội còn sâu.
Thương người áo giáp bấy lâu…

ình chụp trong chuyến xuyên Việt năm 2016, hành trình từ Thanh Hoá, qua Cúc Phương, Ninh Bình, rồi đi Hoà Bình, Mai Châu, Mộc Châu, Yên Châu, Thuận Châu, qua Điện Biên rồi thẳng đến Lai Châu.

nam quốc sơn hà

ã đọc nhiều hoành phi ca tụng công đức nghe sến, nhàm… Riêng tại miếu Lam Sơn động chủ (Lê Thái Tổ – Lê Lợi), Lam Kinh, bức hoành đề 6 chữ rất hay: 南國山河自此Nam quốc sơn hà tự thử – Sông núi nước Nam… từ đó… Kiểu như bây giờ hiện đại viết phải có dấu 3 chấm lửng, muốn ngắt câu thế nào, muốn điền gì vào chỗ trống thì điền.

hội thề lũng nhai

hân dịp đi thăm khu di tích Lam Kinh vừa rồi, tám chơi một vài chuyện lịch sử vặt vãnh. Nguyễn Trãi, như lịch sử kể lại, là bậc anh hùng dân tộc, là danh nhân văn hoá lớn của Việt Nam, người đã giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, xây nên triều đại nhà Lê. Kháng chiến thành công, Lê Thái Tổ xuống chiếu ban thưởng cho các vị khai quốc công thần, gồm 2 đợt: Đợt 1 (1428): ban thưởng cho 121 người, không có tên Nguyễn Trãi. Đợt 2 (1429): ban thưởng cho 93 người, cũng không có tên Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi làm quan dưới các triều vua Lê, chức: Nhập nội hành khiển, tước: Triều liệt đại phu, hàm: Tam phẩm, vẫn còn dưới nhiều quan to khác (Nhất phẩm, Nhị phẩm). Tại sao thế!? Muốn hiểu tại sao, phải truy nguyên về Hội thề Lũng Nhai, năm 1416. Lịch sử chép về hội thề Lũng Nhai có nhiều phiên bản khác nhau chút ít, nhưng đại để: Lê Lợi, Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Bùi Quốc Hưng, Trịnh Khả, Trương Lôi, Vũ Uy, Đinh Liệt… cả thảy 19 người thề cùng ra sức chống giặc ngoại xâm.

Trong danh sách này không có Nguyễn Trãi! Thực tế, hội thề diễn ra vào năm 1416, thì mãi 4 năm sau, Nguyễn Trãi mới gia nhập phong trào Lam Sơn, mặc dù vai trò của ông trong cuộc kháng chiến dài 11 năm này không ai có thể phủ nhận. Phong trào Lam Sơn thời gian đầu nhiều gian khó, bản thân Lê Lợi từng 2 lần phải chui vào bụi cây trốn chó săn của quân Minh lùng sục. 2 lần chui vào bụi rậm trốn, cả 2 lần đều xuất hiện một con cáo (hồ ly) ở đâu ra, đánh lạc hướng chó săn của quân Minh.

Những chi tiết này là thật, các sử quan vài thế kỷ sau, khi vào điện chầu thời Lê, vẫn còn thấy bức tượng đầu là thiếu nữ xinh đẹp, thân là cáo, thờ trong điện, ấy là Lê Lợi nhớ “ơn cứu mạng” ngày xưa mà tạc tượng thờ. Các vị họ Lê, đa số là con cháu, họ hàng trong gia tộc Lê Lợi, kẻ chết vì sự truy đuổi của quân thù, người hy sinh vì mũi tên hòn đạn nơi trận tiền, nhiều không sao kể xiết. Không chỉ có Lê Lai hy sinh cứu chúa, cả 3 người con trai của Lê Lai đều lần lượt bỏ mình trong chiến trận.

Lam Sơn không chỉ phải đấu tranh với một mình quân Minh, còn có cả quân Ai Lao, Chămpa cũng vây đánh Lam Sơn theo sự điều động của Bắc triều, ấy là chưa kể bao nhiêu nội gian, nội phản. Thế nên, máu đã đổ, đổ rất nhiều. Nói theo ngôn từ của quốc ca Pháp ấy là: L’étendard sanglant est levé, tiêu chí chọn lựa được đo bằng máu! Thế nên, tuy là người tham mưu, hoạch định sách lược, công lao vô kể như Nguyễn Trãi, nhưng trong 2 đợt “phong thần” đầu tiên đều không có tên ông.

Ấy là vì ông không nằm trong số những người phải “đổ máu” những ngày đầu gian khó! Nguyễn Trãi là bậc Nho học uyên thâm, để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị, tên tuổi lưu vào sử sách, còn những người dẫn quân xông pha trận mạc như Lê Ê, Lê Văn Lễ, Ngô Kinh, Nguyễn Xí… đa phần còn không biết chữ! Kể chuyện vặt vãnh để thấy rằng, trong “lý lịch cán bộ” của giai đoạn lịch sử gần đây, cái chi tiết “năm vào Đảng”, trước/sau 45, trước/sau 54, trước/sau 75 là tối quan trọng! 😬

bắc hành – 2017, phần 16

hó có thể ước định được quy mô xây dựng của Lam Kinh ngày trước, vì đa số các công trình là được tạo tác mới gần đây, dù có tham khảo các thông tin khảo cổ. Tại hiện trường, những hố khảo cổ vẫn được bảo lưu cho du khách tham quan, dấu vết nền móng cung điện xưa, xây bằng gạch vồ, có thể thấy rõ những đường ống dẫn nước làm bằng sứ, đường kính chừng 20 cm. Bên cạnh khu du tích mới xây này là đền thờ vua Lê Thái Tổ cũ, do nhân dân tự phát xây dựng vì ngôi đền cũ đã bị tàn phá.

Phía trước đền đề: Lam Sơn động chủ linh từ, tức Lê Lợi, người thường hay tự gọi mình là Lam Sơn động chủ, hay Ngọc Hoa động chủ, phía trong có treo một bức hoành mà theo tôi là rất hay, không giống như những lời tán tụng công đức tầm thường khác: Nam quốc sơn hà tự thử, nghĩa là: Sông núi nước Nam từ đó…, một kiểu nói lấp lửng, gợi ý, như kiểu ngày nay phải viết có dấu 3 chấm, để cho người đọc muốn hình dung, muốn điền gì vào chỗ trống thì điền! 😀

Cả một khu rừng nhỏ xanh mướt, với rất nhiều cây cổ thụ lớn nhỏ, nhiều cây lớn sừng sững, có tuổi đời trên 600, 700 năm tuổi, hiếm khi thấy được một khu đền miếu, lăng tẩm mà cảnh quan chung quanh được bảo lưu tốt đến như thế! Phần trước của khu di tích có trưng bày bản sao của tấm bia Thân chinh phục Lễ châu Đèo Cát Hãn xưa nằm tại Mường Lay, Lai Châu, do vua Lê Lợi ngự bút đề khi thân chinh đi dẹp loạn Đèo Cát Hãn, tấm bia “ký tên”: Ngọc Hoa động chủ.

Quan sát thư pháp trên tấm bia này, như chữ Ngọc được viết với một lối rất lạ, dấu chấm nằm lệch vị trí. Suy nghĩ một hồi, tôi cho rằng rất khó có khả năng người xưa viết sai, hay công tác nhân bản bia đá làm sai, có thể chỉ là… nghệ thuật Việt Nam, trong rất nhiều các thể loại: thư pháp, hội hoạ, gốm sứ… nếu quan sát kỹ, thi thoảng vẫn luôn có chỗ “lệch chuẩn” như thế, luôn luôn có một vài yếu tố bất chợt, ngẫu hứng, tự phát ở đâu đó trong cách trình bày, trang trí một tác phẩm mỹ thuật.

Những công trình mới tôn tạo sau này, dù chưa hoàn tất, cũng giúp hình dung lại một Lam Kinh rất bề thế ngày xưa. Rải rác đây đó vẫn còn nhiều chi tiết giúp hình lại đường nét kiến trúc, điêu khắc cổ: bờ kênh đào và giếng nước lớn lát đá, cổng Ngọ môn rất lớn với hai con nghê chầu phía trước, sân chầu với cặp rồng đá độc đáo, Vĩnh Lăng (lăng vua Lê Thái Tổ), Hựu Lăng đơn giản với 5 cặp tượng nhỏ: quan hầu, nghê, ngựa, tê giác, hổ phía trước, bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn thảo…

bắc hành – 2017, phần 15

ành trình trên đất Bắc đã bước qua tuần thứ 4, chuyến đi nào rồi cũng sẽ phải đến hồi vãn cuộc… 😢 Từ Quảng Ninh, hành trình quay trở lại Hà Nội rồi xuôi về Nam theo quốc lộ 1. Dự tính trong đầu là sẽ đi nhanh, đi suốt để nhanh chóng trở về, nhưng những ngẫu hứng dọc đường thôi thúc có thêm nhiều tò mò, hiểu biết mới. Ngang Hà Trung, Thanh Hoá, quyết định đi về phía Gia Miêu ngoại trang, xưa thuộc phủ Thượng Bạn, huyện Tống Sơn, đất phát tích, “thang mộc” của triều Nguyễn.

Và nay là thôn Gia Miêu, thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung, một thời là nơi có những công trình kiến trúc bề thế, tinh xảo hàng đầu xứ Thanh, mà điển hình là Triệu miếu, nơi thờ hai bậc tổ tiên dòng họ Nguyễn là Nguyễn Kim và Nguyễn Hoàng. Xem lại ảnh xưa, Triệu Miếu như một kinh thành Huế thu nhỏ lại, mà nay không còn vết tích gì. Tất cả đã bị tháo dỡ, phá hoại những năm 50, 60 thế kỷ trước, chỉ còn đình làng Gia Miêu sót lại vì nó không đại diện cho dòng họ Nguyễn mà cho cả làng.

Triệu miếu nay đã được xây dựng mới lại trên nền cũ, nhưng quy mô và độ tinh xảo thì đã mất đi vĩnh viễn. Hành trình tiếp tục đi về phía đình làng Thượng Phú, xã Hà Đông, huyện Hà Trung cách đó không xa. Đình đã xuống cấp nhiều, những khắc hoạ trang trí đã phai mờ cùng năm tháng, nhưng đáng lưu ý là khác với những đình khác, bên cạnh những motif trang trí long lân quy phụng, tùng cúc trúc mai, đình Thượng Phú có nhiều chi tiết trang trí mô tả sinh hoạt hàng ngày: chọi gà, bắt cá… rất sống động!

Hành trình tiếp tục đi dọc triền đê sông Mã lên phía thượng nguồn, về xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, quê nhà của các đời chúa Trịnh. Miếu thờ các đời chúa Trịnh ngoài cổng có đề: Trịnh vương phủ, nét chữ nguệch ngoạc xấu xí mà tôi ngờ rằng là do người đời nay tạo tác. Điện thờ những bức tượng các đời Chúa, làm bằng đất sét phủ sơn, nhìn khá sang trọng, đường bệ. Chính giữa điện thờ có bức hoành đề: Tiên tổ thị vương như một lời tự hào, nhắc nhở con cháu!

Như thế, hai họ Trịnh và Nguyễn thực ra ngày xưa sống khá gần nhau, chỉ cách nhau độ 15, 20 km tính theo đường chim bay. Hành trình bỏ qua di tích thành nhà Hồ (đã ghé thăm trong các chuyến xuyên Việt trước) mà đi về Lam Kinh, xã Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, khu di tích miếu thờ và lăng mộ các vua Lê đã được tôn tạo, xây mới lại gần đây (2009) trông rất là bề thế, nằm bên bờ sông Chu (một nhánh của sông Mã) trên một quả đồi, giữa một cánh rừng nhỏ được bảo vệ, gìn giữ cẩn thận.

hạc thành

ình ảnh Google earth của Hạc thành, hình lục giác đều, trung tâm tp. Thanh Hoá, kiểu kiến trúc Vauban điển hình, nay chỉ còn vết tích. Sau khi vua Gia Long lên ngôi, kiểu kiến trúc thành Vauban này trở nên phổ biến khắp VN, thay thế nhiều thành quách trước đó. Được thiết kế bởi kỹ sư quân sự người Pháp, Sébastien Le Prestre de Vauban, dạng hình học của những “star-city”, cấu trúc góc cạnh hình sao này cho phép không có góc chết nào suốt dọc theo tường thành, bất kỳ đoạn tường nào cũng có ít nhất 1 vị trí có thể đặt súng để bắn tạt sườn bên tấn công (xem hình).

Không hiểu sao một thời, người Việt học hỏi nhiều công nghệ ngoại lai đến thế, chỉ để giải quyết mâu thuẫn nội bộ, nghe đồn là có cả tàu chiến lớn loại 74… dù tôi cho là chỉ là “đồn”, vì tàu 74 nó trên 3 ngàn tấn, thời hiện đại bây giờ VN cũng chưa có tàu chiến lớn đến như thế… Chợt nhớ ra năm đó là mùng 10 Tết, ngồi uống cafe dưới chân thành này, bên bờ hào… …Thành quách suy di nhân sự cải, Kỷ xứ tang điền biến thương hải. Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong, Ca vũ không lưu nhất nhân tại…

bắc hành – 2015, phần 10

Đường về miền xuôi, biết bao đò bao quán mới,
Đường dài mà vui, hỡi người bạn đường nặng vai.

Người về miền xuôi, Trường ca Con đường cái quan - Phạm Duy 

Chặng 10: Hà Giang ❯ Việt Quang ❯ Tuyên Quang ❯ Đoan Hùng ❯ Phú Thọ ❯ Vĩnh Yên ❯ Hà Nội ❯ Phủ Lý ❯ Ninh Bình ❯ Tam Điệp ❯ Hà Trung ❯ Vĩnh Lộc ❯ Cẩm Thuỷ ❯ Ngọc Lặc ❯ Lam Sơn ❯ Yên Cát ❯ Nghĩa Đàn

Sài gòn ⇔ Hà nội 2015
Sơn Tây 2015
Yên Bái 2015
Lào Cai 2015
Hà Giang 2015
Đồng Văn 2015
Mèo Vạc 2015

ẫn còn muốn rong ruổi thêm nữa trên các nẻo đường biên giới phía Bắc, nhưng chắc phải để dành cho những chuyến sau. Bắt đầu hành trình ngược trở lại, từ Hà Giang qua Tuyên Quang xuống Hà Nội để về lại Sài Gòn. Từ miền núi qua trung du, xuôi theo dòng sông Lô qua Bình Ca, Đoan Hùng, Việt Trì… rồi về với đồng bằng. Tuyên Quang là miền đất có rất nhiều địa danh lịch sử, danh lam thắng cảnh, nhưng đã có kế hoạch cho Tuyên Quang trong một chuyến đi khác.



Quá Ninh Bình, vào địa phận Bỉm Sơn, Thanh Hoá, nhận thấy QL1 mùa này đường quá xấu và đông đúc, quyết định rẽ nhánh về Nam bằng đường Hồ Chí Minh, nhân tiện ghé qua thăm thành nhà Hồ ở huyện Vĩnh Lộc, một biểu tượng của những ước vọng, dự tính non trẻ, dở dang, không thành của Việt tộc… Đường HCM khúc này rất tốt, rộng, thẳng, độ dốc vừa phải, vắng người và xe, lại ít gió bụi, tốc độ lúc nào cũng có thể giữ trên 60 kmph, chỉ hơi vòng vo hơn một chút so với QL1.



Cả một vùng trung du, miền núi phía tây khu 3 (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) không như tôi nghĩ ban đầu, phong cảnh xanh mướt, đất đỏ bazan màu mỡ, hoạt động nông nghiệp quy cũ, làng quê có vẻ trù phú. Đôi chỗ, người nông dân đã liên kết xoá ranh giới đất đai từng nhà để trồng trọt và sản xuất trên quy mô lớn hơn, nương rẫy dài nối tiếp nhau… Phong cảnh tuy không thể đặc sắc như vùng Tây Bắc, nhưng cũng có nét thú vị riêng. Thật là: đi một ngày đàng học một sàng khôn vậy!